Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang 6 tháng đầu năm 2025
Tình hình kinh tế - chính trị thế giới trong những tháng đầu năm 2025 diễn biến phức tạp; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gây gắt hơn; xung đột Nga - Ucraina tiếp tục kéo dài, đặc biệt là xung đột tại Biển Đỏ, dải Gaza leo thang đã gia tăng rủi ro với an toàn hàng hải, chuỗi cung ứng hàng hóa đã làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngoài ra chính sách thắt chặt tiền tệ của các nước ảnh hưởng đến xuất khẩu của các doanh nghiệp của Việt Nam nói chung và Tiền Giang nói riêng.
Trong những tháng đầu năm 2025 Đảng bộ, chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh tập trung sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị theo Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành Trung ương khóa XII hoạt động hiệu lực, hiệu quả nhằm phát huy tinh thần đoàn kết, quyết tâm, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong năm 2025; tăng trưởng từ 8% trở lên, hướng tới kế hoạch tăng trưởng hai con số trong những năm tiếp theo… Ngay từ đầu năm 2025 Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng ngành, từng địa phương; chỉ đạo, điều hành sâu sát, tập trung và có hiệu quả hơn, cùng sự nỗ lực phấn đấu của các ngành các cấp; tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2025 tiếp tục phát triển ổn định, có nhiều chuyển biến tích cực; một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội có tăng trưởng hơn cùng kỳ năm trước. Kết quả thực hiện trên các lĩnh vực như sau:
I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ
1. Tăng trưởng kinh tế (GRDP):
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 36.129 tỷ đồng (giá so sánh năm 2010); quý I tăng 7,47%, quý II tăng 8,13%, tính chung 6 tháng tăng 7,81% so với 6 tháng đầu năm 2024; khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,17 %, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 12,27%, khu vực dịch vụ tăng 8,12 % và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 4,96% so cùng kỳ. Trong 7,81% tăng trưởng thì khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 1,44%, khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 3,69%, khu vực dịch vụ đóng góp 2,38% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đóng góp 0,3%. GRDP nếu tính theo giá hiện hành GRDP đạt 71.776 tỷ đồng.
Cơ cấu kinh tế: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 35,7% (cùng kỳ 37,4%); khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 29,1% (cùng kỳ 27,5%); khu vực dịch vụ chiếm 29,4% (cùng kỳ 29,1%); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,8%, (cùng kỳ 6%).
2. Tài chính - Ngân hàng:
a. Tài chính:
Thu ngân sách nhà nước: Ước thực hiện 6 tháng đầu năm 2025 thu được 17.670 tỷ đồng; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 7.650 tỷ đồng, đạt 72,2% dự toán và tăng 29,9% so cùng kỳ; thu nội địa 7.450 tỷ đồng, đạt 72,5% dự toán, tăng 30,7% so cùng kỳ (thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 1.945 tỷ đồng, đạt 73,3% dự toán năm và tăng 14,3% so với cùng kỳ; khu vực công thương nghiệp - ngoài quốc doanh là 1.621 tỷ đồng, đạt 118,29% dự toán, tăng 70,4% so với cùng kỳ; thu từ hoạt động xổ số kiến thiết 1.473 tỷ đồng, đạt 71,8% dự toán, tăng 25,2% so cùng kỳ).
Chi ngân sách nhà nước: Tổng chi ngân sách 6 tháng đầu năm 2025 là 10.750 tỷ đồng; trong đó: chi đầu tư phát triển 2.674 tỷ đồng, đạt 41% dự toán, giảm 33,2%; chi hành chính sự nghiệp 5.699 tỷ đồng, đạt 57,8% dự toán và tăng 1,8 lần so cùng kỳ.
b. Ngân hàng:
Đến cuối tháng 5/2025, vốn huy động đạt 110.961 tỷ đồng, tăng 3.829 tỷ, tăng 3,57% so với cuối năm 2024. Tổng dư nợ toàn tỉnh đạt 110.525 tỷ đồng, tăng 4.086 tỷ, tăng 3,84% so với cuối năm 2024. Ước tính đến cuối tháng 6/2025 vốn huy động đạt 113.088 tỷ đồng, tăng 5,56% so với cuối năm 2024; tổng dư nợ toàn tỉnh đạt 112.477 tỷ đồng, tăng 5,67% so với cuối năm 2024.
Nợ xấu: cuối tháng 5/2025, tỷ lệ nợ xấu 1,97%, tăng 0,18% so với cuối năm 2024.
Quỹ tín dụng nhân dân: đến cuối 5/2025, tổng nguồn vốn huy động đạt 1.608 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 6,58 % so với cuối năm 2024; Tổng dư nợ cho vay đạt 1.294 tỷ đồng, giảm 0,01%, tỷ lệ nợ xấu 0,45% so với cuối năm 2024.
3. Giá cả, lạm phát:
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2025 tăng 0,54% (khu vực thành thị tăng 0,61%; khu vực nông thôn tăng 0,53%) so tháng 5/2025, tăng 2,79% so tháng 6/2024. Bình quân 6 tháng đầu năm 2025 tăng 2,93% so cùng kỳ năm trước.
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 11 nhóm tăng so tháng 5/2025: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,2% (trong đó: thực phẩm tăng 0,26%, ăn uống ngoài gia đình tăng 0,52% và lương thực giảm 0,6%); đồ uống và thuốc lá tăng 0,25%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,14%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,38%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,08%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%; giao thông tăng 1,85%; bưu chính viễn thông tăng 0,02%; giáo dục tăng 0,01%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,18% và hàng hóa dịch vụ khác tăng 0,15%.
Một số nhóm hàng có chỉ số giá tăng trong 6 tháng năm 2025 so cùng kỳ :
Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,26%, tác động làm CPI chung tăng 1,11 điểm phần trăm, trong đó chỉ số giá nhóm thịt lợn tăng 12,37% do nguồn cung hạn chế trong khi nhu cầu tiêu dùng tăng cao trong các dịp Lễ, Tết, tác động làm CPI chung tăng 0,37 điểm phần trăm; chỉ số giá thực phẩm tăng 3,38%, tác động làm CPI chung tăng 0,71 điểm phần trăm.
Chỉ số giá nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 3,53%, làm CPI chung tăng 0,67 điểm phần trăm. Trong đó, giá nhà ở thuê tăng 3,97%, tác động làm CPI chung tăng 0,35 điểm phần trăm; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 2,31%, tác động tăng 0,09 điểm phần trăm; giá nhóm sửa chữa nhà ở tăng 2%, tác động tăng 0,02 điểm phần trăm; giá nhóm điện sinh hoạt tăng 4,65%, tác động tăng 0,13 điểm phần trăm; giá nhóm nước sinh hoạt tăng 4,31%, tác động tăng 0,04 điểm phần trăm.
Chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 10,77%, làm CPI chung tăng 0,6 điểm phần trăm do giá dịch vụ y tế được điều chỉnh theo Thông tư số 21/2024/TT-BYT ngày 17/10/2024 của Bộ Y tế.
Một số nhóm hàng có chỉ số giá giảm trong 6 tháng năm 2025 so cùng kỳ
Chỉ số nhóm giao thông giảm 4,71%, góp phần làm CPI chung giảm 0,43 điểm phần trăm, trong đó giá xăng giảm 12,59%, giá dầu giảm 10,53%. Bên cạnh đó, cũng có một số mặt hàng tăng giá như: bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 6,24%; dịch vụ rửa, bơm xe tăng 4,07%...
Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 6/2025 giảm 0,87% so tháng trước, giá vàng bình quân 11.487 ngàn đồng/chỉ, tăng 3.939 ngàn đồng/chỉ so cùng kỳ.
Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 6/2025 giảm 0,54% so tháng trước, giá bình quân 26.342 đồng/USD, tăng 876 đồng/USD so cùng kỳ.
4. Đầu tư và Xây dựng:
Ước 6 tháng đầu năm 2025, vốn đầu tư toàn xã hội ước thực hiện 22.261 tỷ đồng, đạt 41% kế hoạch, tăng 12,6% so cùng kỳ; trong đó: vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 14.086 tỷ đồng, tăng 17,9%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.371 tỷ đồng, tăng 11,9%, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 5.804 tỷ đồng, tăng 1,6% so cùng kỳ.
Ước 6 tháng đầu năm 2025, vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý là 2.567 tỷ đồng, đạt 44,7% kế hoạch, tăng 18,3% so cùng kỳ; gồm có: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 2.184 tỷ đồng, tăng 31,7%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 338 tỷ đồng, bằng 75,9%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 45 tỷ đồng, bằng 68,7% so cùng kỳ.
Kết quả thực hiện một số dự án trọng điểm từ nguồn vốn ngân sách trên địa bàn tỉnh.
Hình 1. Vốn đầu tư toàn xã hội 6 tháng đầu năm 2025
5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp:
Theo số liệu báo cáo của sở Tài Chính, trong 6 tháng đầu năm 2025 dự tính có 528 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 16,1% so cùng kỳ và đạt 58% kế hoạch. Tổng vốn đăng ký mới 3.219,6 tỷ đồng, tăng 7,7% so cùng kỳ. Vốn đăng ký bình quân một doạnh nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2025 là 6,1 tỷ đồng/doanh nghiệp. Có 565 đơn vị trực thuộc của doanh nghiệp (chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh) thành lập mới, tăng 37,8% so cùng kỳ. Ngoài ra, còn có 157 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động. Có 63 doanh nghiệp hoàn tất giải thể, giảm 10% so cùng kỳ và có 266 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn. Như vậy, trong 6 tháng đầu năm 2025, số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động tăng 2,1 lần so với số doanh nghiệp giải thể và tạm ngừng kinh doanh. Đến cuối tháng 6/2025, toàn tỉnh có khoảng 6.653 doanh nghiệp đang hoạt động.
6. Sản xuất nông - lâm nghiệp và thủy sản:
a. Nông nghiệp:
Mùa khô năm 2024–2025, xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh xuất hiện sớm hơn trung bình nhiều năm khoảng 10 ngày, bắt đầu ảnh hưởng từ cuối tháng 12/2024 và kết thúc vào cuối tháng 5/2025. Tuy nhiên, mức độ xâm nhập mặn được đánh giá thấp hơn so cùng kỳ của các năm. Nhờ chủ động triển khai đồng bộ các giải pháp phòng, chống hạn mặn từ sớm, tỉnh đã kịp thời bảo vệ sản xuất nông nghiệp và ổn định đời sống người dân. Nhìn chung, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trong 6 tháng đầu năm vẫn duy trì ổn định và có bước phát triển tích cực. Cây trồng sinh trưởng tốt, các loại sâu bệnh gây hại xuất hiện ở mức thấp đến trung bình nhờ người dân chủ động theo dõi thông tin dự báo dịch hại và thực hiện các biện pháp phòng trừ kịp thời. Trong chăn nuôi, một số địa phương vẫn phát sinh dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm (như viêm da nổi cục, dịch tả lợn châu Phi…), song đã được ngành chức năng kiểm soát hiệu quả, không để lây lan diện rộng. Hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy sản tiếp tục đạt được kết quả khả quan so với cùng kỳ năm trước, góp phần quan trọng vào tăng trưởng ngành nông nghiệp của tỉnh.
* Trồng trọt:
Cây lương thực có hạt: diện tích gieo trồng cộng dồn từ đầu vụ sản xuất là 100.461 ha, giảm 4,1% so cùng kỳ, tương ứng giảm 4.291 ha; sản lượng ước đạt 291.653 tấn, giảm 8,6%, tương ứng giảm 27.472 tấn. Trong đó cây lúa gieo sạ 98.870 ha, giảm 4,3% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch ước đạt 287.369, giảm 8,8%, cụ thể:
- Cây lúa:
+ Vụ Đông xuân 2024 – 2025: diện tích gieo trồng chính thức 42.513 ha, đạt 103,7% kế hoạch (kế hoạch 41.000 ha) và giảm 5,3% so cùng kỳ, tương ứng giảm 2.369 ha do chuyển đổi sang cây lâu năm 2.286 ha, cây hàng năm khác 116 ha, đất phi nông nghiệp là 44 ha, nuôi trồng thủy sản 33 ha, không sản xuất 15 ha và tăng 125 ha từ diện tích cây hằng năm khác.Thu hoạch 100% diện tích với năng suất thu hoạch bình quân cả vụ ước đạt 67,6 tạ/ha, tương ứng giảm 2,6 tạ/ha so cùng kỳ; Sản lượng thu hoạch ước cả vụ đạt 287.369 tấn, giảm 8,8% so cùng kỳ, tương ứng giảm 27.662 tấn. Nguyên nhân do diện tích gieo trồng và năng suất bình quân đều giảm.
+ Vụ Hè thu (gồm vụ Xuân hè + Hè thu): trong tháng, gieo sạ được 29.778 ha lúa Hè Thu tính đến ngày 20/6, nâng tổng diện tích gieo sạ của vụ lên 56.357 ha. Diện tích chủ yếu tập trung tại các huyện như: Cai Lậy 11.051 ha, Tân Phước 10.215 ha, Gò Công Đông 8.869 ha, Cái Bè 8.592 ha, Gò Công Tây 7.800 ha,… mùa mưa năm nay bắt đầu từ trung tuần tháng 5, người dân được khuyến cáo thận trọng trong việc xuống giống, nhất là những khu vực chưa đảm bảo điều kiện sản xuất. Việc bố trí thời điểm gieo sạ phù hợp, đặc biệt ở các khu vực cuối nguồn hoặc vùng trũng thấp, sẽ góp phần giảm thiểu rủi ro, bảo vệ năng suất và hiệu quả sản xuất của cả vụ.
Hình 2. Diện tích gieo trồng lúa và hoa màu tính đến 20/6/2025
- Cây ngô: diện tích gieo trồng cộng dồn từ đầu vụ sản xuất là 1.591 ha, tăng 12,9%, tương ứng tăng 181 ha. Ước tính sản lượng thu hoạch ước đạt 4.284 tấn, tăng 4,6% so cùng kỳ, tương ứng tăng 190 tấn. Ngô là cây trồng ngắn ngày, kỹ thuật canh tác đơn giản, dễ chăm sóc và có thể trồng nhiều vụ trong năm. Bên cạnh giá trị kinh tế từ việc thu trái bán cho thương lái, cây ngô còn có lợi thế tận dụng tối đa phụ phẩm: thân, lá ngô sau thu hoạch là nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng cho gia súc như trâu, bò…, góp phần giảm chi phí chăn nuôi và nâng cao hiệu quả kinh tế hộ gia đình.
Cây rau đậu các loại: diện tích gieo trồng cộng dồn từ đầu vụ sản xuất là 40.178 ha, tăng 12,1% so cùng kỳ; trong đó: rau các loại 40.007 ha, tăng 12,2% so cùng kỳ. Sản lượng thu hoạch ước đạt 494.832 tấn, tăng 9,3% so cùng kỳ; trong đó: rau các loại ước đạt 494.446 tấn, tăng 9,3% so cùng kỳ. Diện tích rau màu trên địa bàn tỉnh tiếp tục tăng, chủ yếu do nông dân chuyển đổi từ những diện tích đất trồng cây kém hiệu quả, đặc biệt là các vùng không đủ điều kiện sản xuất lúa. Nhờ lợi thế đất đai màu mỡ và thời tiết thuận lợi, nông dân đã tích cực ứng dụng mô hình trồng xen canh, gối vụ nhằm tối ưu hóa hiệu quả sử dụng đất, tập trung vào các loại rau, củ, quả có giá trị kinh tế cao, dễ tiêu thụ như: rau muống, bầu, mướp, bí xanh, mướp đắng, dưa leo, cải các loại, hành lá, dưa hấu và một số loại rau ngắn ngày khác. Rau màu cơ bản phát triển tốt, ít sâu bệnh hơn cùng kỳ năm trước. Thời gian sinh trưởng ngắn (30–40 ngày), kết hợp với thị trường tiêu thụ thuận lợi, dù giá bán có giảm nhẹ so với cùng kỳ nhưng nông dân vẫn đảm bảo thu lãi từ 25–40 triệu đồng/ha tùy thời điểm, góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống. Tình hình sâu, bệnh gây hại trên rau màu được kiểm soát hiệu quả, diện tích bị ảnh hưởng không đáng kể, cây trồng sinh trưởng bình thường, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất rau màu phát triển ổn định.
Cây lâu năm:
Tổng diện tích gieo trồng cây lâu năm trên toàn tỉnh ước đạt 113.370 ha, đạt 101,3% kế hoạch năm, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước (tương ứng tăng 4.263 ha). Trong đó, diện tích cây ăn quả chiếm tỷ trọng lớn với 88.475 ha, tương đương 78% tổng diện tích cây lâu năm, tăng 3,5% so cùng kỳ.
Tổng sản lượng thu hoạch cây lâu năm toàn tỉnh ước đạt 1.194.678 tấn, đạt 54% kế hoạch năm, tăng 9% so với cùng kỳ (tăng 98.827 tấn). Trong đó, tổng sản lượng thu hoạch cây ăn quả ước đạt 990.444 tấn, tăng 7,7% so cùng kỳ, tương ứng tăng 70.542 tấn. Sự gia tăng sản lượng này phản ánh hiệu quả của việc mở rộng diện tích, cải thiện kỹ thuật canh tác, và đầu tư thâm canh ngày càng cao của người dân.
*Chăn nuôi: ước thời điểm 30/6/2025 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 120,5 ngàn con, tăng 0,4% so cùng kỳ; đàn lợn 340 ngàn con, tăng 17,2%; đàn gia cầm 16,9 triệu con, tăng 8,3%.
Hình 3. Chăn nuôi tại thời điểm 30/6/2025
*Tình hình dịch bệnh trên vật nuôi: theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tiền Giang:
Bệnh cúm gia cầm: trong tháng không phát sinh. Sáu tháng đầu năm 2025, phát hiện 3 hộ chăn nuôi tại 2 xã thuộc huyện Tân Phước và Gò Công Tây có gà nhiễm vi rút cúm A/H5N1 với tổng số 6.161 con mắc bệnh trên tổng đàn 7.200 con. Toàn bộ số gia cầm đã được tiêu hủy theo đúng quy định nhằm ngăn chặn nguy cơ lây lan.
Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi: trong tháng, phát hiện 5 hộ tại 5 xã thuộc 2 huyện với tổng số 211 con lợn mắc bệnh. Sáu tháng đầu năm 2025, toàn tỉnh có 331 con lợn bệnh/14 hộ tại 11 xã thuộc 6 địa phương gồm Gò Công Tây, Chợ Gạo, Tân Phước, Châu Thành, Cái Bè và TX. Cai Lậy; tổng số lợn bị tiêu hủy là 331 con, tương đương 11.433 kg.
Bệnh viêm da nổi cục: trong tháng không phát sinh. Sáu tháng đầu năm 2025, có 2 hộ nuôi bò với tổng đàn 9 con (trong đó có 3 con mắc bệnh) tại 2 xã thuộc huyện Cái Bè và Chợ Gạo. Đã tiêu hủy 1 con bò bị bệnh (215 kg) tại huyện Cái Bè.
Bệnh lở mồm long móng: trong tháng không phát sinh, toàn tỉnh có 01 con lợn bệnh tại cơ sở giết mổ ở xã Hậu Mỹ Bắc A, huyện Cái Bè. Đã tiêu hủy lợn bệnh với khối lượng 110 kg.
b. Lâm nghiệp:
Tổng diện tích đất có rừng trên địa bàn tỉnh là 1.549,6 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng), trong đó rừng phòng hộ 1.317,4 ha (huyện Gò Công Đông 379,6 ha; huyện Tân Phú Đông 884,2 ha và huyện Tân Phước 53,6 ha), rừng sản xuất 232,2 ha.
Cây phân tán: ước 6 tháng đầu năm thực hiện trồng mới 104,4 ngàn cây, giảm 18,6% so cùng kỳ, tương ứng giảm 23,2 ngàn cây, được trồng cặp ranh, kênh, trồng trên những tuyến đường đi, đường giao thông mới mở, nâng cấp ở huyện Cai Lậy, Chợ Gạo và Gò Công Tây.
Khai thác gỗ: sản lượng gỗ khai thác trong 6 tháng đầu năm ước đạt 17.484,7 m3, tăng 14,4% so cùng kỳ, tương ứng tăng 2.202,2 m3; sản lượng gỗ khai thác chủ yếu từ các loại cây như: bạch đàn cao sản, dầu gió, tràm lanh. Khai thác củi: sản lượng củi khai thác 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 29.692 ste củi các loại, giảm 54,6% so cùng kỳ; khai thác chủ yếu một số cây ăn quả đã già, cỗi không cho trái, cho trái ít.
c. Thủy hải sản:
Những năm gần đây, ngành thủy sản tỉnh Tiền Giang có bước phát triển mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và nâng cao đời sống người dân, đặc biệt là khu vực ven biển. Diện tích nuôi trồng không ngừng mở rộng, sản lượng tăng cao. Trong đó, mô hình nuôi hàu tại vùng ven biển huyện Gò Công Đông tiếp tục được duy trì và mở rộng. Hiện có khoảng 597,8 ha mặt nước với 73 hộ tham gia nuôi. Sản lượng thu hoạch lũy kế ước đạt 170 tấn trên diện tích 34 ha, giá bán bình quân đạt 27.500 đồng/kg. Khi toàn bộ diện tích vào thời điểm thu hoạch, sản lượng dự kiến đạt từ 1.500–2.000 tấn/năm. Tuy nhiên, do chưa được cấp phép chính thức, công tác quản lý còn gặp nhiều khó khăn, nhất là việc tiếp cận thông tin và hộ nuôi. Địa phương đã triển khai Kế hoạch số 310/KH-UBND ngày 21/8/2024 về phát triển nuôi biển đến năm 2030 nhằm định hướng phát triển lâu dài, hiệu quả và đúng quy định.
Sản lượng thủy sản trong quý II/2025 ước đạt 106.180 tấn, tăng 8,2% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 65.501 tấn, tăng 10,4%; sản lượng khai thác 40.679 tấn, tăng 4,8%. Tính chung sản lượng thủy sản 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 168.617 tấn, tăng 7,5% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 105.391 tấn, tăng 7,0%; sản lượng khai thác 63.226 tấn, tăng 8,3%. Kết quả khả quan này nhờ điều kiện thời tiết thuận lợi, ít ảnh hưởng bởi bão và áp thấp nhiệt đới, tạo điều kiện cho tàu cá hoạt động hiệu quả; các ngư trường dồi dào nguồn lợi, thủy sản nuôi sinh trưởng tốt, ít dịch bệnh, năng suất cao.
d. Nông thôn mới:
Trong 6 tháng đầu năm 2025, dự kiến có thêm 05 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 05 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; Ngày 13/6, UBND tỉnh Tiền Giang tổ chức lễ công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ công nhận tỉnh Tiền Giang hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới năm 2024 (Theo Quyết định số 1038/QĐ-TTg ngày 30/5/2025). Toàn tỉnh có 135/135 xã (đạt 100%) số xã trên địa bàn tỉnh được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; trong đó, có 73 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (đạt 54,1%); 19 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu (đạt 14,1%); 03/03 đô thị hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; 08/08 huyện đạt chuẩn huyện nông thôn mới và 02/08 huyện đạt chuẩn huyện nông thôn mới nâng cao. Tất cả các xã, huyện, thị, thành đã được công nhận đều đảm bảo đạt chuẩn theo Bộ Tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới các cấp giai đoạn 2021 – 2025.
7. Sản xuất công nghiệp:
Chỉ số công nghiệp 6 tháng đầu năm 2025 tăng 16,13% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 17,29%; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 2,61%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 14,22% so cùng kỳ.
Hình 4. Chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2025
Sản phẩm sản xuất công nghiệp 6 tháng năm 2025: Có 38/54 sản phẩm tăng so cùng kỳ: ống và ống dẫn bằng đồng tăng 18,7%; giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài tăng 18,4%; dây thép không gỉ tăng 17,5%; nước uống được tăng 15,5%; giày, dép thể thao có đế ngoài và mũ giày bằng cao su và plastic tăng 10,9%; các sản phẩm bằng vật liệu tết bện khác tăng 9,7%; bia đóng lon tăng 9%; dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu, thuyền tăng 8,7%; cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo tăng 8,6%; điện thương phẩm tăng 5,4%;… Có 16/54 sản phẩm giảm so cùng kỳ: các hàng dệt may đã hoàn thiện khác giảm 96,5%; máy gặt đập liên hợp giảm 83,3%; thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên giảm 62,9%; màn bằng vải khác giảm 53,5%; dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 14,4%; điện gió giảm 14,1%; thức ăn cho thủy sản giảm 10,6%; bia đóng chai giảm 8,6%; phi lê đông lạnh giảm 6%; thức ăn cho gia súc tăng 5,8%; cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép giảm 2,3%; bộ com lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn dệt kim hoặc đan móc giảm 0,7%;…
* Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo:
- Chỉ số tiêu thụ tháng 6/2025 so với tháng trước tăng 2,33% và tăng 15,99% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 6 năm 2025 tăng 19,65%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: sản xuất đồ uống tăng 2,54%, trong đó sản xuất bia tăng 2,54%; dệt tăng 11,7%; sản xuất trang phục tăng 28,77%; sản xuất da tăng 12,95%, trong đó sản xuất vali, túi xách… tăng 22,57%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 11,07%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 40,52%; sản xuất kim loại tăng 47,26%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 4,03%; sản xuất thiết bị điện tăng 15,6%, trong đó sản xuất dây cáp, dây điện và điện tử khác tăng 13,48%;… Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ là: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 10,59%, trong đó sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản giảm 14,6%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 54,27%; sản xuất sản phẩm cao su và plastic giảm 4,04%;…
- Chỉ số tồn kho tháng 6/2025 so với tháng trước tăng 26,89% và giảm 8,56% so với cùng kỳ. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ là: sản xuất trang phục tăng 3,56%; sản xuất da tăng 45,33%, trong đó sản xuất giày dép tăng 39%; sản xuất kim loại tăng 15,14%; sản xuất thiết bị điện tăng 58,68%, trong đó sản xuất mô tơ điện tăng 58,77%;…. Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ là: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 28,51%, trong đó chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thuỷ sản giảm 49,69%; dệt giảm 39,36%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 58,31%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 0,31%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẳn giảm 58,98%;…
8. Thương mại, dịch vụ:
a. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng:
Hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh diễn ra ổn định, lượng hàng hóa cung ứng cho thị trường dồi dào, các đơn vị phân phối lớn đã chủ động dự trữ hàng hóa thiết yếu và hàng hóa khác phục vụ nhu cầu mua sắm của người dân trong dịp lễ, Tết. Giá cả thị trường được kiểm soát, mặc dù một vài mặt hàng có tăng hoặc giảm giá nhưng ở mức biến độ không lớn.
Sáu tháng đầu năm 2025, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 47.422 tỷ đồng, đạt 49,1% kế hoạch, tăng 10,5% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 36.312 tỷ đồng, tăng 8,8%; lưu trú, ăn uống 4.769 tỷ đồng, tăng 19,4%; du lịch lữ hành 122 tỷ đồng, tăng 16,8%; dịch vụ tiêu dùng 6.219 tỷ đồng, tăng 14,3% so cùng kỳ.
Hình 5. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
b. Xuất - Nhập khẩu: (Theo báo cáo Sở Công Thương)
Tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gây gắt hơn; xung đột Nga - Ucraina tiếp tục kéo dài, đặc biệt là xung đột tại Biển Đỏ, dải Gaza leo thang gia tăng rủi ro với an toàn hàng hải. Các hãng vận tải biển tăng giá cước vận tải nhằm đắp chi phí gia tăng do chuyển hướng tàu khỏi Biển Đỏ đã ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng hàng hóa xuất khẩu của doanh nghiệp. Do đó xuất khẩu đối mặt với các thách thức, nhưng nhờ các biện pháp tích cực và đồng bộ nhằm tháo gỡ khó khăn để hỗ trợ sản xuất trong nước, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu được triển khai mạnh mẽ nên hoạt động xuất, nhập khẩu trên địa bàn tỉnh đạt được kết quả như sau:
* Xuất khẩu:
Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hóa có nhiều khởi sắc và đạt được nhiều kết quả tích cực. Hoạt động xuất khẩu của tỉnh trong quý I/2025 đạt 1,42 tỷ USD, tăng 3% so với cùng kỳ, Đầu quý II/2025, tình hình xuất khẩu gặp nhiều khó khăn khi Hoa Kỳ công bố áp thuế đối ứng với hàng hóa Việt Nam ở mức 46%. Tuy nhiên, hiện Hoa Kỳ hoãn áp dụng thuế đối ứng trong vòng 90 ngày đối với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, cho nên tình hình xuất khẩu có nhiều khả quan hơn, do doanh nghiệp tranh thủ xuất trong thời gian này, dự tính quý II/2025 xuất đạt 1,9 tỷ USD tăng 14,9% so cùng kỳ. Hoạt động xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 3,4 triệu USD, đạt 47,9% kế hoạch, tăng 9,5% so cùng kỳ, tăng chủ yếu các nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo như: giày dép các loại; túi xách, ví, vali, mũ và ô dù; sản phẩm từ chất dẻo; xơ sợi dệt các loại,...; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 84,2%, tổng kim ngạch xuất khẩu.
* Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 1,8 tỷ USD, đạt 50% kế hoạch, tăng 6,4% so cùng kỳ; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 93,8%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước chiếm 6,2%, trong tổng kim ngạch nhập khẩu.
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu như: kim loại thường khác (kể cả nguyên liệu đồng) chiếm 50,96%; sắt thép các loại chiếm 14,47%; vải nguyên liệu chiếm 7,06%; nguyên phụ liệu dệt may, da giày, túi chiếm 7,45%; còn lại nguyên vật liệu (thức ăn gia súc, nguyên liệu dược phẩm, hạt nhựa…).
c. Vận tải:
Tiếp tục duy trì hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về vận tải trên địa bàn tỉnh. Thường xuyên tổ chức kiểm tra, giám sát các bến xe, các doanh nghiệp kinh doanh vận tải trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh vận tải và dịch vụ vận tải. Tình hình hoạt động các tuyến xe cố định trên địa bàn tỉnh tiếp tục được duy trì thông thoáng, đặc biệt các chủ cơ sở kinh doanh vận tải tự giác chấp hành tốt nội qui bến bãi, đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân đi lại và vận chuyển hàng hoá đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh, đồng thời góp phần hạn chế chống ùn tắc giao thông trong dịp lễ tết.
Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải 6 tháng đầu năm 2025 thực hiện 1.689 tỷ đồng, tăng 14,3% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 382 tỷ đồng, tăng 15,3 % so cùng kỳ; vận tải hàng hóa thực hiện 1.020 tỷ đồng, tăng 15,4% so cùng kỳ. Vận tải đường bộ thực hiện 605 tỷ đồng, tăng 14,8%; vận tải đường thủy thực hiện 798 tỷ đồng, tăng 15,9%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 135 tỷ đồng, tăng 10% so cùng kỳ.
Vận chuyển hành khách 6 tháng đầu năm 2025 đạt 11.141 ngàn hành khách, tăng 15,5% và luân chuyển 529.926 ngàn hành khách.km, tăng 15,1% so cùng kỳ; trong đó: vận chuyển đường bộ 5.612 ngàn hành khách, tăng 14,9% và luân chuyển 524.799 ngàn hành khách.km, tăng 15,1% so cùng kỳ; vận chuyển đường thủy 5.529 ngàn hành khách, tăng16,1% và luân chuyển 5.127 ngàn hành khách.km, tăng 15,7% so cùng kỳ.
Vận tải hàng hóa 6 tháng đầu năm 2025 đạt 9.706 ngàn tấn, tăng 16,7% và luân chuyển 1.821.959 ngàn tấn.km, tăng 16,6% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ thực hiện 1.469 ngàn tấn, tăng 14,6% và luân chuyển được 162.681 ngàn tấn.km, tăng 11,8% so cùng kỳ; vận tải đường thủy thực hiện 8.237 ngàn tấn, tăng 17,1% và luân chuyển 1.659.278 ngàn tấn.km, tăng 17,1% so cùng kỳ.
d. Du lịch:
Trong những tháng đầu năm là thời điểm Tết Nguyên đán và nhiều ngày lễ như: Giỗ Tổ mùng 10/3, dịp Lễ kỷ niệm chiến thắng giải phóng miền Nam 30/4 và ngày Quốc tế lao động 1/5… nhiều hoạt động được tổ chức để phục vụ nhân dân trong các dịp lễ, tết và các sự kiện trọng đại của đất nước, địa phương, bên cạnh đó năm nay số ngày nghĩ dài nên hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Tiền Giang tăng so với cùng kỳ.
Ước tính 6 tháng đầu năm 2025, ước lượng khách du lịch đến tỉnh 851 ngàn lượt, đạt 40,5% kế hoạch, tăng 5,3% so cùng kỳ; trong đó khách quốc tế 275 ngàn lượt, tăng 4,3%. Doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 4.891tỷ đồng, tăng 19,3% so cùng kỳ; trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm 97,5%.
e. Bưu chính viễn thông:
Doanh thu bưu chính, viễn thông 6 tháng đầu năm 2025, đạt 1.807 tỷ đồng, tăng 7,5% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính 151 tỷ đồng, tăng 8,1%; doanh thu viễn thông 1.655 tỷ đồng, tăng 7,5%; Các doanh nghiệp bưu chính, viễn thông trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát triển, không ngừng đầu tư nâng cấp phát triển mạng lưới, cung cấp nhiều loại hình dịch vụ phong phú, đa dạng … nhằm thu hút khách hàng tham gia sử dụng.
Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 6 năm 2025 là 130.256 thuê bao; thuê bao điện thoại bình quân đạt 7,25 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Tổng số thuê bao Internet trên mạng ước tính đến tháng 6 năm 2025 là 445.438 thuê bao; mật độ Internet bình quân ước đạt 24,8 thuê bao/100 dân.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Lao động, giải quyết việc làm:
Tư vấn và giới thiệu việc làm:
Tư vấn, giới thiệu việc làm 6 tháng đầu năm 2025: thực hiện tư vấn nghề, việc làm, pháp luật lao động và tư vấn khác cho 9.476 lượt lao động, giảm 16,3% so với cùng kỳ. Giới thiệu việc làm cho 1.762 lượt lao động, tăng 24,4% so với cùng kỳ, trong đó có 616 lao động có việc làm ổn định.
Trong 6 tháng, tư vấn đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài cho 511 lượt lao động, tăng 7,4% so với cùng kỳ (có 02 lao động đăng ký tham gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài); có 232 lao động xuất cảnh đi làm việc ở nước ngoài, giảm 6,4% so cùng kỳ, đạt 42,2% kế hoạch năm. Trong đó: thị trường Nhật Bản chiếm đa số 181 lao động, tiếp đến là Đài Loan 33 lao động, Hàn Quốc 08 lao động và các thị trường khác.
Đối với trợ cấp thất nghiệp, 6 tháng đầu năm có 7.585 hồ sơ lao động đăng ký hưởng trợ cấp, giảm 26,9% so với cùng kỳ; trong đó có 6.512 lao động đã được giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 23% so cùng kỳ với tổng số tiền chi trả trên 146 tỷ đồng, giảm 29% so với cùng kỳ.
Tính từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 01 vụ ngừng việc tập thể tại 01 doanh nghiệp (giảm 50% so với cùng kỳ) với 240 lao động. Được sự hướng dẫn của các sở, ngành, địa phương, doanh nghiệp đã tổ chức cuộc đối thoại với người lao động nên các vụ ngừng việc đã được giải quyết ổn thỏa và tình hình sản xuất đã hoạt động bình thường.
Tình hình lao động thiếu việc làm và thất nghiệp:
Tính chung 6 tháng đầu năm 2025, tỷ lệ thiếu việc làm toàn tỉnh là 5,07%, giảm 2,12 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước (7,19%). Trong đó, khu vực thành thị là 6,38% (giảm 2,64 điểm phần trăm) và khu vực nông thôn là 4,42% (giảm 1,94 điểm phần trăm). Tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh 6 tháng đầu năm là 1,05%, giảm 0,31 điểm phần trăm so với cùng kỳ (1,36%); riêng khu vực thành thị là 1,90% (giảm 0,64 điểm phần trăm) và khu vực nông thôn là 0,62% (giảm 0,19 điểm phần trăm). Tỷ trọng lao động thất nghiệp ở khu vực thành thị chiếm 41,77% trong tổng số người thất nghiệp toàn tỉnh.
2. Đời sống dân cư và an sinh xã hội:
a. Đời sống dân cư:
Trong 6 tháng đầu năm 2025, tình hình xâm nhập mặn mùa khô tuy vẫn xuất hiện nhưng mức độ xâm nhập mặn thấp hơn năm 2016 và năm 2024, nhờ vào sự chủ động, quyết liệt của tỉnh trong công tác phòng, chống hạn mặn từ sớm, từ xa, các giải pháp như điều tiết nước hợp lý, đóng mở cống linh hoạt, trữ ngọt trong nội đồng và vận hành hệ thống thủy lợi đã phát huy hiệu quả, góp phần bảo vệ sản xuất nông nghiệp, duy trì ổn định đời sống người dân. Giá cả các mặt hàng thiết yếu cơ bản ổn định, đảm bảo nhu cầu tiêu dùng của người dân, các chương trình bình ổn thị trường, hỗ trợ tiêu dùng, nhất là dịp Tết Nguyên đán, đã phát huy hiệu quả, góp phần giữ ổn định mức sống người dân, nhất là nhóm hộ thu nhập trung bình và thấp. Chất lượng dịch vụ y tế và giáo dục tiếp tục được nâng cao. Các cơ sở y tế chú trọng nâng cao năng lực khám – chữa bệnh, cải thiện điều kiện cơ sở vật chất, triển khai các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh theo mùa. Công tác tuyên truyền phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm như sốt xuất huyết, tay chân miệng được đẩy mạnh, đặc biệt trong mùa cao điểm, tạo sự an tâm cho người dân trong sinh hoạt, học tập và sản xuất.
Bên cạnh đó, tình hình đời sống người lao động tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Tiền Giang tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực, phản ánh qua mức thu nhập tăng, thưởng Tết cải thiện và nhu cầu lao động tăng cao. Cụ thể, theo báo cáo từ 113 doanh nghiệp đang hoạt động với tổng số 104.641 lao động, trong đó lao động tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chiếm tỷ lệ 84,67% (tương ứng 88.609 người), mức lương thực nhận bình quân của người lao động trong năm 2024 đạt 9,026 triệu đồng/người/tháng, bao gồm lương, phụ cấp và các khoản bổ sung khác theo quy định. So với năm 2023, mức lương bình quân đã tăng 5,06%, cho thấy xu hướng cải thiện thu nhập ổn định. Trong đó, mức lương cơ bản (chưa bao gồm phụ cấp, thưởng…) đạt 6,847 triệu đồng/người/tháng, tăng 6,26% so với năm trước.
Mức thưởng Tết cũng ghi nhận nhiều điểm sáng:
+ Thưởng Tết Dương lịch năm 2025 (thống kê từ 48 doanh nghiệp, 22.401 lao động) đạt bình quân 1,818 triệu đồng/người.
+ Thưởng Tết Nguyên đán Ất Tỵ (thống kê từ 105 doanh nghiệp, 102.696 lao động) đạt bình quân 8,160 triệu đồng/người, tương đương 1 tháng thu nhập, tăng 9,15% so với Tết Giáp Thìn năm trước. Điều này thể hiện nỗ lực của doanh nghiệp trong việc chăm lo đời sống tinh thần cho người lao động, dù vẫn còn không ít khó khăn trong sản xuất, kinh doanh.
Tính đến ngày 10/6/2025, lực lượng lao động tại các khu công nghiệp (KCN) trong tỉnh đạt 91.555 người (trong đó 1.299 lao động người nước ngoài), tăng thêm 4.813 lao động so với cùng kỳ năm trước. Phân bố cụ thể như: KCN Mỹ Tho: 5.447 lao động (23 người nước ngoài); KCN Tân Hương: 54.724 lao động (383 người nước ngoài); KCN Long Giang: 31.147 lao động (893 người nước ngoài); KCN Dầu khí Soài Rạp: 237 lao động.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đang tăng tốc sản xuất để đáp ứng đơn hàng xuất khẩu, kéo theo nhu cầu tuyển dụng lao động lớn trong 6 tháng cuối năm 2025. Ước tính có khoảng 4.831 vị trí cần tuyển, tập trung ở các ngành như may mặc, giày da, điện tử, cơ khí, sản xuất lốp xe… Các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lớn gồm: Công ty TNHH Giày Apache Việt Nam, Công ty TNHH Lốp Advance Việt Nam, Công ty TNHH Túi xách Simone Việt Nam TG, Công ty TNHH Hansae TG,...
b. An sinh xã hội:
Chính sách an sinh xã hội tiếp tục được thực hiện tốt, tạo điều kiện cho xã hội được phát triển bền vững trong 6 tháng đầu năm 2025. Đặc biệt, dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ, tỉnh đã triển khai đồng loạt các hoạt động chăm lo đời sống người có công, hộ nghèo, người cao tuổi, gia đình chính sách với quy mô rộng khắp:
Tổ chức tặng quà Tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025:
- Thăm, tặng quà, trợ cấp người có công với cách mạng: trợ cấp của tỉnh cho 70.973 người có công với tổng số tiền trên 28,1 tỷ đồng (kinh phí địa phương) và tặng quà của Chủ tịch nước cho 37.299 người có công với tổng số tiền 11,3 tỷ đồng (kinh phí Trung ương).
- Thăm, tặng quà, trợ cấp người cao tuổi, hộ nghèo và thăm các đơn vị tập trung (kinh phí địa phương):
+ Tặng quà người cao tuổi: 172 người (100 tuổi) với số tiền 357,8 triệu đồng; 1.591 người (90 tuổi) với số tiền 1,9 tỷ đồng.
+ Trợ cấp hộ nghèo cho 4.035 hộ nghèo với tổng số tiền 2 tỷ đồng.
+ Thăm hộ gia đình chính sách và đơn vị với tổng số tiền 811,8 triệu đồng.
+ Riêng 19 suất quà cho gia đình quân nhân đang làm nhiệm vụ tại Trường Sa, mức 2 triệu đồng/hộ, kèm túi quà 1triệu đồng/phần.
+ Tổ chức bữa ăn cho trại viên, học viên các đơn vị (Cơ sở Cai nghiện ma túy, Trung tâm Công tác Xã hội, Hội Người mù) cho 2.030 người với tổng số tiền 246 triệu đồng.
Bên cạnh đó, tỉnh đã triển khai hỗ trợ xây mới, sửa chữa nhà tạm, nhà dột nát cho 608 hộ gia đình đủ điều kiện (trong đó: xây mới 370 căn, sửa chữa 238 căn), hoàn thành trong tháng 6; bao gồm: 136 căn cho hộ gia đình người có công, thân nhân liệt sĩ; 472 căn cho hộ gia đình nghèo, cận nghèo, góp phần ổn định chỗ ở, nâng cao chất lượng sống cho người dân.
3. Hoạt động giáo dục:
Trong 6 tháng đầu năm 2025, công tác giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh tiếp tục được triển khai nghiêm túc, hiệu quả, bám sát kế hoạch năm học và các mục tiêu phát triển toàn diện học sinh. Ngay sau khi tổ chức thành công Kỳ thi tuyển sinh lớp 10 vào các ngày 04, 05 và 06/6/2025, các trường trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh đã nhanh chóng chuyển trọng tâm sang công tác chuẩn bị cho Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2025, diễn ra từ ngày 25 đến 28/6/2025. Bên cạnh việc chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất, các trường đặc biệt chú trọng công tác ôn tập, hỗ trợ học sinh lớp 12, nhất là những em có học lực yếu, nhằm nâng cao chất lượng tốt nghiệp và tạo đà thuận lợi cho học sinh bước vào giai đoạn tiếp theo.
Trong kỳ thi tuyển sinh lớp 10 năm học 2025–2026, toàn tỉnh có hơn 15.000 thí sinh tham gia tại 33 Hội đồng thi. Kết quả bước đầu cho thấy chất lượng bài thi tương đối cao, phản ánh tốt năng lực học sinh theo định hướng Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Trong đó, Môn Ngữ văn: 12.969 thí sinh đạt điểm trên trung bình (chiếm 86,06%), có 01 điểm 10. Môn Tiếng Anh: 9.588 thí sinh trên trung bình (chiếm 63,64%), có 221 điểm 10. Môn Toán: 10.530 thí sinh trên trung bình (chiếm 69,89%), có 224 điểm 10.
Tại Kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia trung học phổ thông năm học 2024 - 2025, Tiền Giang có 44/90 thí sinh đạt giải trên tất cả 9/9 dự môn thi, trong đó: giải Nhì 06 thí sinh (tăng 02 giải so với năm học 2023-2024), giải Ba 13 thí sinh (tăng 01 giải), giải Khuyến khích 25 thí sinh (giảm 05 giải). Với kết quả này, tỉnh xếp thứ 3/13 tỉnh, thành phố khu vực Đồng bằng sông Cửu Long về số lượng giải đạt được, cho thấy sự ổn định về chất lượng đào tạo trong khu vực.
Tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh THPT năm học 2024 – 2025 khóa ngày 11/02/2025 với 1.727 thí sinh dự thi của 37 đơn vị dự thi. Kết quả có 607 thí sinh đạt giải, tỷ lệ 35,15%. Trong đó, đạt giải Nhất: 23 thí sinh (tỷ lệ 1,33%); giải Nhì: 146 thí sinh (tỷ lệ 8,45%); giải Ba: 185 thí sinh (tỷ lệ 10,71%); Khuyến khích: 253 thí sinh (tỷ lệ 14,65%). Các trường có nhiều học sinh đạt giải gồm: THPT Chuyên 133 giải, THPT Nguyễn Đình Chiểu 56 giải, THPT Chợ Gạo 51 giải, THPT Cái Bè 40 giải.
Bên cạnh các kỳ thi học thuật, Cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp tỉnh dành cho học sinh trung học năm học 2024 – 2025 được tổ chức từ ngày 03 đến 15/01/2025, thu hút 86 dự án dự thi. Ban tổ chức đã trao 42 giải, gồm: 04 giải nhất; 08 giải nhì; 12 giải ba và 18 giải khuyến khích. Đồng thời, tuyển chọn 03 dự án tiêu biểu tham gia Cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia, tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh từ ngày 19 đến 21/3/2025.
4. Hoạt động y tế:
Hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2025 tiếp tục được duy trì ổn định. Mạng lưới y tế cơ sở được đầu tư mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng. Hệ thống trang thiết bị, máy móc y tế cơ bản đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh và được khai thác hiệu quả. Công tác giám sát, phát hiện và xử lý dịch bệnh được triển khai chủ động, kịp thời, góp phần khống chế không để dịch lây lan trong cộng đồng. Hoạt động truyền thông, tuyên truyền phòng, chống dịch tiếp tục được đẩy mạnh. Đến nay, tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt; các biện pháp ứng phó với dịch sốt xuất huyết được triển khai quyết liệt trong bối cảnh dịch có xu hướng gia tăng.
Sáu tháng đầu năm 2025, có 11/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận. So với cùng kỳ có 06 bệnh tăng (Sởi, Sốt xuất huyết Dengue, Thương hàn, Thủy đậu, Tiêu chảy, Viêm gan vi rút C); 08 bệnh giảm (Bệnh do liên cầu lợn ở người, Ho gà, Lao phổi, Quai bị, Tay - chân - miệng, Uốn ván khác, Viêm gan vi rút B, Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona); 30 bệnh tương đương hoặc không xảy ra ca mắc.
Các bệnh truyền nhiễm trong 6 tháng đầu năm như: bệnh sốt xuất huyết 859 ca mắc, tăng 11,4%; bệnh tay - chân - miệng 1.097 ca, giảm 26,2%.
Phòng chống HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh tính đến nay là 7.214 người nhiễm HIV; 1.819 người chuyển sang AIDS; 1.387 người tử vong do AIDS.
Khám chữa bệnh trong 6 tháng đầu năm 2025 cho 2.231.877 lượt người, giảm 3,9% so cùng kỳ; trong đó, số người điều trị nội trú là 110.978 lượt người, giảm 0,6%. Công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong tháng đạt 89,1%.
5. Hoạt động văn hóa - thể thao:
Trong 6 tháng đầu năm 2025, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao được tổ chức phong phú, thiết thực, góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho người dân, nhất là vào các dịp lễ, tết. Toàn tỉnh có 462.854/486.976 hộ đạt danh hiệu Gia đình văn hóa (95,04%); 1.004/1.005 ấp, khu phố đạt danh hiệu văn hóa (99,9%); 08/164 xã, phường, thị trấn được công nhận “xã, phường, thị trấn tiêu biểu” (4,88%) và 20/29 phường, thị trấn đạt chuẩn đô thị văn minh (68,97%). Về xây dựng nếp sống văn hóa nơi công cộng, toàn tỉnh có 71 chợ văn hóa, 18 công viên văn hóa, 967 con đường văn hóa và 575 cơ sở thờ tự văn hóa.
a. Hoạt động văn hóa nghệ thuật: trong 6 tháng đầu năm, hoạt động văn hóa nghệ thuật diễn ra rộng khắp, sôi nổi với 40 buổi biểu diễn nghệ thuật, thu hút khoảng 57.550 lượt người xem; 4 buổi tuyên truyền lưu động (1.050 lượt người xem) và 37 buổi chiếu phim lưu động (4.550 lượt người xem). Hoạt động tuyên truyền cổ động trực quan được tăng cường với 790 cờ phướn, 15 pano, 45 ụ cờ và 6 lượt xe loa cổ động. Đặc biệt, chương trình nhạc nước tại Quảng trường Hùng Vương tổ chức 79 suất, phục vụ khoảng 88.910 lượt người. Trong dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ, Tiền Giang có 8 địa phương trong tỉnh đăng ký tổ chức bắn pháo hoa đêm giao thừa Tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025, gồm có: thành phố Mỹ Tho, thành phố Gò Công, Thị xã Cai Lậy, huyện Cái Bè, huyện Chợ Gạo, huyện Gò Công Tây, huyện Gò Công Đông và huyện Tân Phú Đông.
b. Hoạt động thư viện: trong 6 tháng đầu năm, hoạt động thư viện tiếp tục được duy trì hiệu quả. Hội Báo Xuân Ất Tỵ được tổ chức tại Thư viện tỉnh và các trại giam Phước Hòa, Mỹ Phước. Nhiều hoạt động trưng bày sách theo chủ đề gắn với các ngày lễ lớn được triển khai. Mô hình “Cà phê sách” trong khuôn viên Thư viện thu hút 2.425 lượt bạn đọc. Tổng lượt bạn đọc tại Thư viện tỉnh trong 6 tháng đầu năm đạt 282.978 lượt, tăng 64% so với cùng kỳ; với 372.084 lượt sách báo lưu hành.
c. Hoạt động bảo tàng: trong 6 tháng đầu năm, hoạt động bảo tàng tiếp tục có nhiều đổi mới về nội dung trưng bày, với 13 chuyên đề mới, như: Đảng Cộng sản Việt Nam - Những mùa xuân lịch sử, Tiền Giang - Nơi cuối nguồn Mekong, Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước… Tổng lượt khách tham quan tại Bảo tàng và các di tích trực thuộc trong 6 tháng đạt 270.947 lượt người.
d. Hoạt động thể dục, thể thao: trong 6 tháng đầu năm, đạt được nhiều kết quả nổi bật. Tỉnh đăng cai tổ chức 2 giải thể thao cấp tỉnh và quốc gia; tham gia 26 giải đấu cấp quốc tế, quốc gia và khu vực, giành tổng cộng 74 huy chương (14 Vàng, 23 Bạc, 37 Đồng). Đáng chú ý, vận động viên Trần Dương Thiện Huy phá kỷ lục quốc gia lứa tuổi 14–15 ở nội dung 200m và 400m chân vịt đôi. Có 61 vận động viên được phong đẳng cấp, trong đó 27 vận động viên Kiện tướng, 34 Cấp 1 và 24 Cấp 2 quốc gia.
6. Tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội (theo báo cáo của ngành Công an):
Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2025 được đảm bảo nhất là trong dịp Tết Nguyên đán 2025, Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, Lễ 30/4 và 01/5 năm 2025. Tội phạm về trật tự xã hội xảy ra 320 vụ, giảm 129 vụ so với cùng kỳ. Hậu quả làm chết 13 người, bị thương 74 người, tài sản thiệt hại khoảng 451,7 tỷ đồng. Cơ quan chức năng đã điều tra, khám phá 240 vụ (đạt 75%), bắt xử lý 508 đối tượng, đồng thời thu hồi tài sản trị giá khoảng 1,4 tỷ đồng.
Về tội phạm ma túy, lực lượng chức năng đã phát hiện và xử lý 55 vụ (giảm 39 vụ so cùng kỳ) với 74 đối tượng (giảm 48 đối tượng) tàng trữ, vận chuyển, mua bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Ngoài ra, 776 đối tượng có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy cũng đã bị xử lý hành chính.
7. Trật tự an toàn giao thông (theo báo cáo ngành công an tỉnh, số liệu tính từ ngày 15/12/2024 đến 14/6/2025):
Giao thông đường bộ: tai nạn giao thông trong tháng xảy ra 27 vụ tương đương so với tháng trước và tăng 05 vụ so cùng kỳ. Hậu quả làm chết 21 người (tương đương so với tháng trước và tăng 05 người so cùng kỳ) và bị thương 15 người (tăng 09 người so tháng trước và tăng 07 người so cùng kỳ). Cộng dồn đến tháng báo cáo, xảy ra 147 vụ (giảm 06 vụ so cùng kỳ); làm 112 người chết (tăng 05 người so cùng kỳ) và bị thương 60 người (giảm 17 người so cùng kỳ). Các nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông chủ yếu vẫn do ý thức chấp hành Luật giao thông đường bộ của người tham gia giao thông như: chuyển hướng không đúng quy định 5 vụ; đi không đúng phần đường, làn đường 4 vụ; đang điều tra 3 vụ; lỗi do người đi bộ 01 vụ; vượt không đảm bảo an toàn 01 vụ và nguyên khác 13 vụ.
8. Tình hình cháy nổ, môi trường và thiên tai:
Cháy, nổ: trong 6 tháng đầu năm 2025, tình hình cháy, nổ trên địa bàn tỉnh được kiểm soát tốt hơn so với cùng kỳ. Toàn tỉnh ghi nhận 09 vụ cháy, giảm 03 vụ so với cùng kỳ. Tuy nhiên, số vụ cháy tuy giảm nhưng thiệt hại về người tăng, với 04 người tử vong (tăng 04 người). Tổng thiệt hại về tài sản ước tính trên 270 tỷ đồng.
Lĩnh vực môi trường: trong tháng, cơ quan chức năng đã phát hiện và xử lý 10 vụ vi phạm môi trường, xử phạt với tổng số tiền trên 38,3 triệu đồng. Tính từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh ghi nhận 35 vụ vi phạm, giảm 27 vụ so với cùng kỳ, với tổng số tiền xử phạt trên 465 triệu đồng.
Tình hình thiên tai: 6 tháng đầu năm 2025, trên địa bàn tỉnh xảy ra 02 cơn mưa giông, 02 cơn lốc xoáy; làm tốc mái 24 căn nhà (tăng 05 căn, tương đương tăng 29,4% so cùng kỳ), ngã đổ 26 cây ăn trái (giảm 235 cây, tương đương giảm 90,0%), khoảng 3,04 tấn trái cây bị rụng hư (giảm 139,2 tấn, tương đương giảm 97,9%). Tổng giá trị thiệt hại ước tính khoảng 282,1 triệu đồng so với cùng kỳ (giảm 62.967,9 triệu đồng, tương đương giảm 99,6%). Mức giảm sâu này phản ánh rõ rệt sự hiệu quả của công tác dự báo, phòng ngừa và ứng phó thiên tai, đồng thời cho thấy 6 tháng đầu năm nay thiên tai ít gay gắt hơn về quy mô và mức độ ảnh hưởng.
Tin khác