Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang 6 tháng đầu năm 2023
Tình hình kinh tế - chính trị thế giới và khu vực 6 tháng đầu năm 2023 tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách thức, xung đột Nga - Ucraina và phản ứng của các nước lớn; thắt chặt chính sách tiền tệ của các nước ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu của Việt Nam nói chung và Tiền Giang nói riêng; nhu cầu tiêu dùng của thế giới tiếp tục suy giảm, doanh nghiệp thiếu đơn hàng để sản xuất… Nhưng với sự chỉ đạo tập trung của Tỉnh uỷ, sự điều hành quyết liệt của Ủy ban nhân dân tỉnh trong việc triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời và đồng bộ các chủ trương, chính sách, các giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh ngay từ đầu năm, tình hình sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh Tiền Giang 6 tháng đầu năm 2023 có nhiều chuyển biến tích cực, các khu vực kinh tế đều tăng so cùng kỳ. Kết quả hoạt động của các ngành, lĩnh vực 6 tháng đầu năm 2023 như sau:
I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ
1. Tăng trưởng kinh tế (GRDP):
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 31.379 tỷ đồng, (giá so sánh năm 2010) tăng 3,03% so với 6 tháng đầu năm 2022, quí I tăng 2,89%, quí II tăng 3,18% (cùng kỳ quý I tăng 3,39%, quý II tăng 5,5%); khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,97 %, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,26% và khu vực dịch vụ tăng 5,04 % (bao gồm thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); Nếu tách riêng thuế sản phẩm thì khu vực dịch vụ tăng 6,04 % và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 0,04% so cùng kỳ. Trong 3,03% tăng trưởng thì khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 0,35%, khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 0,96%, khu vực dịch vụ đóng góp 1,72%. GRDP nếu tính theo giá hiện hành đạt 59.277 tỷ đồng.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: 6 tháng đầu năm 2023 tăng 0,97% so với 6 tháng đầu năm 2022; trong đó nông nghiệp tăng 0,63% ( cùng kỳ tăng 3,69%).
Trồng trọt có nhiều thuận lợi, công tác phòng chống hạn mặn được triển khai sớm, độ mặn thấp, ít ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp; Dịch covid-19 được kiểm soát, xuất khẩu thông thoáng trở lại nên giá bán các loại sản phẩm trồng trọt tăng so cùng kỳ nhất là sầu riêng, thanh long, mít ... Giá vật tư nông nghiệp vẫn ở mức cao, ảnh hưởng đến lợi nhuận của nông dân. Trà lúa Đông Xuân năm nay phát triển tốt, tuy nhiên có một số vùng nông dân trồng lúa đan sen với trồng cây ăn quả nên ảnh hưởng đến năng suất thu hoạch, năng suất bình quân vụ Đông xuân đạt 69,8 tạ/ha, giảm 2% so cùng kỳ; Diện tích gieo sạ giảm 989,6 ha so cùng kỳ do nông dân chuyển sang trồng các loại cây trồng khác, xây dựng nhà, các cơ sở hạ tầng nên sản lượng thu hoạch giảm 4,1% so cùng kỳ, tương tương giảm 14.420 tấn.
Giá bán các sản phẩm chăn nuôi bình quân 6 tháng đầu năm 2023 thấp, trong khi giá thức ăn tăng cao, người nuôi không có lãi, nên việc tái đàn trên địa bàn tỉnh còn chậm. Ước tính đến thời điểm 01/6/2023 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 123,5 ngàn con, giảm 0,5% so cùng kỳ; đàn lợn 264 ngàn con, giảm 6,7% so cùng kỳ; đàn gia cầm 16,2 triệu con, giảm 4,1% so cùng kỳ.
Ngành thủy sản tăng 3,05% so cùng kỳ, tăng chủ yếu ở thủy sản nuôi trồng, ngư dân đã chuyển sang nuôi trồng các loại thủy sản có giá trị kinh tế cao, làm cho tốc độ tăng trưởng của ngành này tăng. Hoạt động khai thác thủy sản còn nhiều khó khăn do giá nhiên liệu tăng cao, biển động liên tục, gió nhiều, sóng lớn nên các đội tàu gặp khó khăn trong quá trình đánh bắt, sản lượng khai thác ít, số lượng tàu ra khơi đánh bắt ít hơn cùng kỳ, làm cho sản lượng thủy sản khai thác giảm, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chung của khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản.
Khu vực công nghiệp - xây dựng: tăng 3,26% so với 6 tháng đầu năm 2022; trong đó công nghiệp tăng 2,41% (cùng kỳ tăng 6,56%). Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh còn nhiều khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm do đơn hàng giảm từ quý IV/2022 cho đến nay, nhất là các ngành may mặc, giày da, túi xách, chế biến thủy sản ... do tác động của hậu dịch Covid-19, kinh tế thế giới suy giảm, cuộc chiến giữa Nga và Ucraina làm cho giá nhiên liệu tăng, lạm phát tăng cao. Mặt bằng lãi suất ngân hàng có giảm so với những tháng đầu năm nhưng vẫn cao hơn so cùng kỳ, tạo áp lực lớn cho các doanh nghiệp. Sản xuất công nghiệp còn nhiều khó khăn, nhưng do trong kỳ có một số doanh nghiệp mới đi vào hoạt động, trong đó có nhà máy điện gió Tân Phú Đông 1 đi vào hoạt động từ ngày 31/5/2023, nên công nghiệp của tỉnh vẫn tăng so cùng kỳ. Ngành xây dựng tăng 8,51%, là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng tốt nhất trong 6 tháng đầu năm 2023. Trên địa bàn tỉnh có nhiều công trình trọng điểm của địa phương và trung ương đang được triển khai thi công, cộng với sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt trong việc đẩy nhanh tiến độ đầu tư công đã góp phần làm cho hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh tăng khá so cùng kỳ.
Khu vực dịch vụ: tăng 6,04% so cùng kỳ; hầu hết các ngành trong khu vực này đều tăng, các ngành dịch vụ đã trở lại trạng thái hoạt động bình sau dịch covid - 19, hoạt động thương mại và dịch vụ diễn ra khá sôi động và có mức tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước, một số ngành tăng khá như: bán buôn và bán lẽ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy tăng 7,44%; Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,88%; Vận tải kho bãi tăng 10,12%; Hoạt động dịch vụ khác tăng 39,9% ... Riêng hoạt động y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm 6,74% so cùng kỳ.
Cơ cấu kinh tế: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 38,2% (cùng kỳ 37,4%); khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 27,8% (cùng kỳ 28,6%); khu vực dịch vụ chiếm 28,5% (cùng kỳ 28,3%); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,5% (cùng kỳ 5,7%).
2. Tài chính - Ngân hàng:
a. Tài chính:
Thu ngân sách nhà nước: 6 tháng đầu năm 2023 thu được 12.736 tỷ đồng; trong đó:thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 4.923 tỷ đồng, đạt 47,9% dự toán và giảm 1,6% so cùng kỳ; thu nội địa 4.761 tỷ đồng, đạt 48,2% dự toán, giảm 2,2% so cùng kỳ (trong đó, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 1.408 tỷ đồng, đạt 43,3% dự toán năm và bằng 92,9% so với cùng kỳ năm trước; thu từ khu vực công thương nghiệp - ngoài quốc doanh là 588 tỷ đồng, đạt 51,1% dự toán, tăng 6,1% so với cùng kỳ; thu từ hoạt động xổ số kiến thiết 1.006 tỷ đồng, đạt 55,9% dự toán, tăng 24,9% so cùng kỳ.
Chi ngân sách nhà nước: Tổng chi ngân sách 6 tháng đầu năm 2023 là 8.536 tỷ đồng, đạt 60,5% kế hoạch và tăng 25,9% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 3.055 tỷ đồng, đạt 57,7% dự toán, tăng 34,7%; chi hành chính sự nghiệp 3.569 tỷ đồng, đạt 46,2% dự toán và tăng 8,7% so cùng kỳ.
b. Ngân hàng:
Đến cuối tháng 5/2023, vốn huy động đạt 92.352 tỷ đồng, tăng 4.615 tỷ, tăng 5,3% so với cuối năm 2022. Tổng dư nợ toàn tỉnh đạt 89.129 tỷ đồng, tăng 3.108 tỷ, tăng 3,6% so với cuối năm 2022. Ước tính đến cuối tháng 6/2023 vốn huy động đạt 92.448 tỷ đồng, tăng 4.711 tỷ, tăng 5,4%; tổng dư nợ 89.376 tỷ đồng, tăng 3.355 tỷ đồng, tăng 3,9% so với cuối năm 2022.
Nợ xấu: cuối tháng 5/2023, số dư là 1.363 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,53%, tăng 0,84% so với cuối năm 2022. Ước đến cuối tháng 6/2023, nợ xấu là 1.389 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,55%, tăng 0,86% so với cuối năm 2022.
Quỹ tín dụng nhân dân: đến cuối 5/2023, tổng nguồn vốn huy động đạt 1.400 tỷ đồng, tăng 19 tỷ, tăng 1,4% và dư nợ cho vay đạt 1.042 tỷ đồng, tăng 3,3 tỷ, tăng 0,3% so với cuối năm 2022, trong đó vốn huy động tăng 1,54%, chiếm tỷ trọng 87% trong tổng nguồn vốn hoạt động; đáp ứng nhu cầu vốn cho 4.022 lượt thành viên vay vốn từ đầu năm đến nay. Nợ xấu: số dư 5,4 tỷ đồng, giảm 1,7 tỷ so với cuối năm 2022 tỷ lệ nợ xấu 0,5%, giảm 0,2%.
3. Giá cả, lạm phát:
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2023 tăng 0,3% so tháng 5/2023 (thành thị tăng 0,28%, nông thôn tăng 0,3%); so cùng kỳ tăng 0,8%.
So với tháng 06/2023, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 07 nhóm tăng: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,84% (trong đó: lương thực tăng 0,02%, thực phẩm tăng 1,33%, ăn uống ngoài gia đình tăng 0,07%); đồ uống và thuốc lá tăng 0,02%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,05%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%; giao thông tăng 0,34%; bưu chính viễn thông tăng 0,01% và nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,15%. Có 03 nhóm giảm: may mặc, mũ nón, giày dép giảm 0,36%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,08% và nhóm hàng hóa dịch vụ khác giảm 0,04%. Riêng nhóm Giáo dục chỉ số giá ổn định
Một số mặt hàng có chỉ số giá tăng so với tháng trước:
- Thịt lợn tăng 2,97%,Thịt bò tăng 0,22% do hiện nay không trùng vào thời điểm xuất chuồng, dẫn đến sản lượng thịt cung ứng ra thị trường giảm, tác động giá bán lẻ tại các chợ tăng nhẹ so với tháng trước.
- Rau tươi, khô và chế biến có chỉ số giá tăng 5% là do cuối vụ thu hoạch, nguồn rau xanh cung cấp ra các điểm chợ giảm, mặc khác trùng vào tháng có Tết Đoan Ngọ nên nhu cầu tiêu dùng rau xanh của người dân tăng, tác động đến giá bán lẻ tăng theo;
- Giá nước sinh hoạt tăng 0,35% do thời tiết nắng nóng kéo dài, nhu cầu sử dụng của người dân tăng lên ngoài ra giá nước tăng do giá điện điện tăng. Giá điện sinh hoạt tháng này tăng 4,08% là do thời tiết nắng nóng, nhu cầu sử dụng của người dân tăng và trong tháng này, một phần giá điện sinh hoạt được tính theo giá mới (thực hiện theo Quyết định 1062/QĐ-BCT ngày 04/5/2023 của Bộ Công thương về việc tăng giá bán lẻ điện sinh hoạt);
- Giá xăng dầu bình quân trong tháng tăng 0,47% góp phần làm CPI chung tăng 0,02 điểm phần trăm.
Bên cạnh đó, mặt hàng có chỉ số giá giảm:
- Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở giảm 0,17% do giá thép giảm khi giá quặng sắt trên thị trường thế giới giảm.
- Giá gas ngày 01/6/2023 giảm 9,75%, tương ứng giảm 35.000 đồng/bình 12kg.
- Một số mặt hàng quần áo may sẵn giá giảm nhẹ do ảnh hưởng Covid-19 kinh tế khó khăn, người dân tiết kiệm chi tiêu, dẫn đến sức mua giảm.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý II/2023 so cùng kỳ tăng 1,18%; một số nhóm hàng có chỉ số tăng trong quý so cùng kỳ quý II/2022 như: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,15%; đồ uống và thuốc lá 2,14%; May mặc, mũ nón, giầy dép 2,79%; giáo dục 7,81%;….
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng năm 2023 so cùng kỳ tăng 2,17%; một số nhóm hàng có giá tăng trong 6 tháng năm 2023 so cùng kỳ như: nhóm Giáo dục tăng 7,81%, trong đó dịch vụ giáo dục tăng 8,28%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 2,69%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 3,06%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,59%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2,09%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 4,04%; …
Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 6/2023 giảm 0,86% so tháng trước, giá bình quân tháng 06/2023 là 5.656 ngàn đồng/chỉ, tăng 158 ngàn đồng/chỉ so cùng kỳ.
Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 06/2023 tăng tăng 0,11% so tháng trước, giá bình quân 23.662 đồng/USD, tăng 319 đồng/USD so cùng kỳ.
4. Đầu tư và Xây dựng:
Ước 6 tháng đầu năm 2023, vốn đầu tư toàn xã hội ước thực hiện 18.515 tỷ đồng, đạt 40,4% kế hoạch, tăng 12,9% so cùng kỳ; trong đó: vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 10.705 tỷ đồng, chiếm 57,8%, tăng 13,1%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.431 tỷ đồng, chiếm 13,1%, giảm 11,8%; vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 5.379 tỷ đồng, chiếm 29,1%, tăng 28,5% so cùng kỳ.
Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý 6 tháng đầu năm 2023 ước là 2.630 tỷ đồng, đạt 49,9% kế hoạch, tăng 62,2% so cùng kỳ; gồm có: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 2.144 tỷ đồng, tăng 72,3%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 340 tỷ đồng, tăng 15,9%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 146 tỷ đồng, tăng 74,2% so cùng kỳ.
5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp:
Theo số liệu báo cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư, tổng số doanh nghiệp thành lập mới, ước thực hiện sáu tháng đầu năm 2023 là 415 doanh nghiệp, đạt 50% kế hoạch và giảm 18% so cùng kỳ, giảm hơn so cùng kỳ do năm 2022 số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng đột biến sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát; tổng vốn đăng ký 2.960 tỷ đồng, vốn đăng ký bình quân là 7 tỷ đồng/doanh nghiệp. Có 379 đơn vị trực thuộc đăng ký hoạt động (102 chi nhánh, 8 văn phòng đại diện, 269 địa điểm kinh doanh); Số doanh nghiệp quay lại thị trường 215 doanh nghiệp, tăng 7% so cùng kỳ. Ước thực hiện đến cuối tháng 6/2023, toàn tỉnh có khoảng 6.400 doanh nghiệp hoạt động
Tổng số hộ kinh doanh đăng ký thành lập mới là 2.950 hộ, giảm 26% so cùng kỳ. Ước thực hiện đến cuối tháng 6/2023, hộ kinh doanh trên địa bàn tỉnh có khoảng 70.500 hộ kinh doanh.
6. Sản xuất nông - lâm nghiệp và thủy sản:
a. Nông nghiệp:
Tình hình sản xuất nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 được duy trì ổn định, hàng hóa nông sản đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài tỉnh.
* Trồng trọt:
Cây lương thực có hạt: Sáu tháng đầu năm 2023, gieo trồng được 117.481 ha, đạt 89,5% kế hoạch, tăng 0,8% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch 481.887 tấn, đạt 60,5% kế hoạch, giảm 4,4% so cùng kỳ; trong đó: cây lúa gieo sạ 116.008 ha, tăng 1%; thu hoạch 71.080 ha, giảm 2,8% với sản lượng 477.237 tấn, giảm 4,4%.
- Cây lúa:
+ Vụ Đông Xuân 2022 - 2023: chính thức xuống giống 48.202 ha, giảm 2% so cùng kỳ; thu hoạch 100% diện tích với sản lượng thu hoạch 336.317 tấn, giảm 4% do diện tích gieo trồng và năng suất bình quân giảm; năng suất thu hoạch bình quân đạt 69,8 tạ/ha, giảm 2% do diện tích gieo trồng giảm so cùng kỳ. Diện tích gieo trồng giảm do chuyển đổi đất trồng lúa sang: 110 ha đất phi nông nghiệp (xây dựng, cơ sở hạ tầng,..), 348,1 ha đất cây lâu năm, 539,3 ha đất trồng cây hàng năm khác và 2,5 ha đất nuôi trồng thủy sản. Diện tích giảm ở các huyện: thị xã Gò Công giảm 150 ha, thị xã Cai Lậy giảm 91,8 ha, Tân Phước giảm 108,8 ha, Cái Bè giảm 303 ha, Châu Thành giảm 15,7 ha, Chợ Gạo giảm 37,3 ha, Gò Công Tây giảm 213,3 ha, Gò Công Đông giảm 80 ha.
+ Vụ Hè Thu (gồm Xuân Hè và Hè Thu): gieo sạ 67.806 ha, đạt 99,7% kế hoạch, tăng 3,2% so cùng kỳ. Diện tích thu hoạch chủ yếu là lúa Xuân hè với 22.878 ha (ở các huyện phía tây gồm: thị xã Cai Lậy 2.964 ha, Tân Phước 4.804 ha, Cái Bè 7.576 ha, Cai Lậy 6.275 ha và Châu Thành 1.259 ha) giảm 4,4% so cùng kỳ; năng suất bình quân 61,6 tạ/ha, giảm 1% so cùng kỳ với sản lượng đạt 140.920 tấn, giảm 5,3% so cùng kỳ do diện tích thu hoạch giảm.
- Cây ngô: Sáu tháng đầu năm 2023 gieo trồng 1.473 ha, giảm 12,7% so cùng kỳ do chuyển đổi sang trồng cây lâu năm; thu hoạch 1.292 ha, giảm 2,9% so cùng kỳ; năng suất bình quân đạt 36 tạ/ha, tương đương so cùng kỳ với sản lượng 4.650 tấn, giảm 2,9% so cùng kỳ do quá trình đô thị hóa và chuyển sang trồng cây lâu năm dẫn đến diện tích gieo trồng giảm.
Cây rau đậu các loại: Sáu tháng đầu năm 2023 gieo trồng được 35.880 ha, giảm 4,3% so cùng kỳ; thu hoạch 31.910 ha, giảm 9,6% với sản lượng 669.610 tấn, giảm 9,1% so cùng kỳ; trong đó: rau các loại gieo trồng 35.692 ha, giảm 4,3%, thu hoạch 31.753 ha, giảm 9,6% với sản lượng 669.134 tấn, giảm 9,1% so cùng kỳ. Nguyên nhân do một số diện tích đất màu ven khu công nghiệp chuyển sang loại hình kinh doanh nhà trọ, hàng quán và dịch vụ ăn uống, công trình công cộng…. làm cho diện tích gieo trồng rau màu giảm. Bên cạnh đó, tác động từ chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang ngành nghề khác làm cho nguồn lao động nông nghiệp không đảm bảo cho trồng màu, nên người dân lựa chọn trồng các loại cây ít tốn công chăm sóc như dừa, mít, sapo.
Cây lâu năm: Theo thời gian và do ảnh hưởng bởi tình hình nắng nóng và hạn mặn những năm trước, nhà vườn đã cải tạo, đốn bỏ những cây trồng kém hiệu quả để chuyển sang trồng những cây có hiệu quả kinh tế hơn như sầu riêng, mít, dừa,... đến nay đã được khôi phục, sản lượng thu hoạch cây lâu năm đã dần tăng trở lại. Tổng diện tích trồng cây lâu năm trong 6 tháng đầu năm 2023 đạt 106.654 ha, đạt 100,5% kế hoạch, tăng 2,1% so cùng kỳ; trong đó diện tích cây ăn quả là 83.756 ha, tăng 1,4%. Diện tích tăng tập trung chủ yếu ở các loại cây như: Dứa (khóm), sầu riêng, mít, ổi và cây dừa. Sản lượng thu hoạch 6 tháng đầu năm 2023 đạt 1.003.563 tấn, đạt 50,2% kế hoạch, tăng 3,2% so cùng kỳ; trong đó sản lượng cây ăn quả ước đạt 887.444 tấn, tăng 2,5% so cùng kỳ.
* Chăn nuôi: Ước thời điểm 01/6/2023 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 123,5 ngàn con, giảm 0,5%; đàn lợn 264 ngàn con, giảm 6,7%; đàn gia cầm 16,2 triệu con, giảm 4,1%. So với cùng kỳ đàn gia súc, gia cầm của tỉnh đều giảm do giá thức ăn và con giống cao, làm áp lực lên người chăn nuôi dẫn đến nhiều hộ chọn phương án an toàn, tránh lỗ vốn như giảm đàn, ngừng chăn nuôi và chuyển sang chăn nuôi khác. Đặc biệt là chi phí thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y gây khó khăn không nhỏ trong việc sản xuất và kế hoạch của các cơ sở chăn nuôi.
* Tình hình dịch bệnh trên vật nuôi: Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang:
Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi: Từ ngày 14/12/2022 đến nay, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 07 hộ có lợn mắc bệnh với tổng số lợn bệnh là 179 trên tổng đàn 270 con tại 05 huyện (Cai Lậy; Tân Phước; Gò Công Tây; Gò Công Đông; Cái Bè). Số lợn được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 215 con với trọng lượng 7.300 kg.
Bệnh viêm da nổi cục: Từ ngày 14/12/2022 đến nay, ghi nhận bò bệnh tại 02 huyện với 04 con bò bệnh trên tổng đàn 12 con.
b. Lâm nghiệp:
Tổng diện tích đất có rừng trên địa bàn tỉnh là 1.765 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng), trong đó rừng phòng hộ 1.382 ha (huyện Gò Công Đông 430 ha; huyện Tân Phú Đông 897 ha và huyện Tân Phước 55 ha), rừng sản xuất 383 ha.
Cây phân tán: trong tháng thực hiện trồng mới được 128,8 ngàn cây phân tán, nâng tổng số cây trồng lên 146 ngàn cây, giảm 78,9% so cùng kỳ. Người dân trồng cây phân tán xung quanh bờ kênh, trên những tuyến đường đi ở huyện ở Cái Bè, Cai Lậy, Tân Phước, Thị xã Gò Công, Gò Công Đông, Tân Phú Đông. Các loại cây trồng chủ yếu là cây bạch đàn cao sản và tràm bông vàng.
Khai thác gỗ: ước tính 6 tháng đầu năm 2023, sản lượng khai thác gỗ được 16.325 m3, đạt 93,9% so cùng kỳ. Các loại gỗ được khai thác chủ yếu từ các loại cây như: Bạch đàn cao sản, dầu gió, tràm lanh. Nguyên nhân do chuyển đổi đất trồng cây khai thác sang trồng các loại cây ăn quả khác như cây khóm (dứa), mít, sầu riêng, dừa, chanh nên sản lượng gỗ khai thác giảm.
Khai thác củi: ước 6 tháng đầu năm 2023, toàn tỉnh khai thác được 72.374 ste củi các loại, đạt 97% so cùng kỳ. Sản lượng củi khai thác giảm do hộ dân ở các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Tân Phước, Gò Công Đông chuyển đổi sang trồng cây ăn trái (ăn quả) như Sầu riêng, mít, chanh, dừa.
c. Thủy hải sản:
Diện tích nuôi trồng 6 tháng năm 2023 thả nuôi 13.100 ha, tăng 0,1% so cùng kỳ, trong đó diện tích nuôi tôm đạt 6.401 ha, tăng 0,1% so cùng kỳ; diện tích nuôi cá đạt 3.679 ha, tương đương so cùng kỳ; thủy sản khác đạt 3.020 ha, tương đương so cùng kỳ.
Tính chung 6 tháng, thu hoạch được 146.262 tấn, giảm 4,2% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 93.760 tấn, tăng 16,5% so cùng kỳ; sản lượng khai thác 52.502 tấn, giảm 27,4% so cùng kỳ.
7. Sản xuất công nghiệp:
Chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 tăng 2,2% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,06%; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 5,58%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,29%.
Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 6 năm 2023 tăng 2,94%, (trong đó doanh nghiệp nhà nước tăng 6,28%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 14,09%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,01%). Chia theo ngành công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 6 năm 2023 tăng 2,94%, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,88%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 0,86%; cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải tăng 12,94%.
Sản phẩm sản xuất công nghiệp 6 tháng năm 2023: Có 20/41 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Ống và ống dẫn bằng đồng tăng 27,2%;Thức ăn cho gia súc tăng 1,1 %; Bia đóng chai tăng 0,4%;… Có 21/41 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Cáp đồng trục và dây dẫn điện đồng trục giảm 76,6%; Dây thép không gỉ giảm 35,8%; Túi xách giảm 29,1%; Phi lê đông lạnh giảm 20,5%; Bia đóng lon giảm 15,8%; Thức ăn cho thủy sản giảm 15,5%; …
* Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo:
- Chỉ số tiêu thụ cộng dồn 6 tháng đầu năm 2023 giảm 9,25%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 18,74%, trong đó sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản giảm 13,65%; sản xuất đồ uống giảm 5,6%, trong đó sản xuất bia giảm 5,6%; sản xuất trang phục giảm 64,02%; sản xuất da giảm 22,78%, trong đó sản xuất giày dép giảm 13,06%; sản xuất sản phẩm cao su và plastic giảm 10,34%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 63,4%; … Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng so cùng kỳ: dệt tăng 8,15%, trong đó sản xuất sợi tăng 24,21%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 49,97%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy bằng gấp 2,1 lần; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 65,36%; sản xuất kim loại tăng 24,37%;…
- Chỉ số tồn kho tháng 6/2023 so với tháng trước tăng 15,33% và so với cùng kỳ tăng 75,68%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ là: sản xuất chế biến thực phẩm tăng 1,7 lần, trong đó sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 35,59%; dệt tăng 30,89%, trong đó sản xuất hàng may sẳn tăng 24,43%; sản xuất trang phục tăng 74,29%; sản xuất da tăng 58,3%, trong đó sản xuất giày dép tăng 53,21%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 29,23%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 1,1 lần; sản xuất kim loại tăng 43,65%; chế biến, chế tạo khác tăng 18,41%, trong đó sản xuất đồ chơi, trò chơi tăng 18,41%;... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số giảm: sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẳn giảm 58,83%; sản xuất thiết bị điện giảm 85,24%, trong đó sản xuất mô tơ điện giảm 86,48%;…
8. Thương mại, dịch vụ:
a. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng:
Sáu tháng đầu năm 2023, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 40.269 tỷ đồng, đạt 49,1% kế hoạch, tăng 14,1% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 31.381 tỷ đồng, tăng 11,7%; lưu trú, ăn uống 3.422 tỷ đồng, tăng 34,2%; du lịch lữ hành 58 tỷ đồng, tăng 2,8 lần; dịch vụ tiêu dùng 5.408 tỷ đồng, tăng 17% so cùng kỳ. Nếu loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2023 dự kiến tăng 11,4% so cùng kỳ.
b. Xuất - Nhập khẩu:
Kinh tế thế giới phục hồi chậm với chính sách thắt chặt tiền tệ ở nhiều quốc gia làm suy giảm nhu cầu tiêu dùng của các đối tác thương mại lớn, do đó đã ảnh hưởng đến kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam.
* Xuất khẩu:
Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2023 ước 2.270 triệu USD, đạt 58,2% kế hoạch, tăng 10,9% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 17,5 triệu USD, tăng gấp 3 lần; kinh tế ngoài nhà nước 321,6 triệu USD, giảm 13,3%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.931 triệu USD, tăng 15,4% so cùng kỳ.
- Thủy sản: ước 6 tháng 2023 xuất 51.141 tấn, giảm 10,1% so cùng kỳ; với giá trị xuất 135 triệu USD, đạt 33,8% kế hoạch, giảm 30,1% so cùng kỳ.
- Gạo: ước 6 tháng 2023 xuất 107.244 tấn, tăng 126,7% so cùng kỳ; với giá trị 64 triệu USD, đạt 128% kế hoạch, tăng 172,6% so cùng kỳ.
- Hàng dệt, may: ước 6 tháng 2023 xuất 29.919 ngàn sản phẩm, giảm 55,9% so cùng kỳ; trị giá xuất 382 triệu USD, đạt 61,6% kế hoạch, tăng 42,9% so cùng kỳ.
- Kim loại thường và sản phẩm (kể cả đồng): ước 6 tháng 2023 xuất 60.390 tấn, tăng 18% so cùng kỳ; trị giá xuất 588 triệu USD, tăng 5,9% so cùng kỳ.
* Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2023 thực hiện 1.270 triệu USD, đạt 55,2 % kế hoạch, tăng 11,9% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 52 triệu USD, giảm 23,6%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.218 triệu USD, tăng 14,2% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng như kim loại thường khác 546 triệu USD, tăng 17,6%; sắt, thép các loại 218 triệu USD; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 135 triệu USD, giảm 26,8%; vải các loại 100 triệu USD, giảm 21%... so cùng kỳ.
c. Vận tải:
Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải 6 tháng đầu năm 2023 thực hiện 1.201 tỷ đồng, tăng 18,6% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 309 tỷ đồng, tăng 19,9% so cùng kỳ; vận tải hàng hóa thực hiện 769 tỷ đồng, tăng 18,2% so cùng kỳ. Vận tải đường bộ thực hiện 484 tỷ đồng, tăng 17,3%; vận tải đường thủy thực hiện 594 tỷ đồng, tăng 19,8%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 123 tỷ đồng, tăng 17,3% so cùng kỳ.
Vận chuyển hành khách 6 tháng đầu năm 2023 đạt 8.280 ngàn hành khách, tăng 13,2% và luân chuyển 182.826 ngàn hành khách.km, tăng 10,6% so cùng kỳ; trong đó: vận chuyển đường bộ 2.712 ngàn hành khách, tăng 10,9% và luân chuyển 176.895 ngàn hành khách.km, tăng 10,5% so cùng kỳ; vận chuyển đường thủy 5.568 ngàn hành khách, tăng 14,3% và luân chuyển 5.931 ngàn hành khách.km, tăng 16,2% so cùng kỳ.
Vận tải hàng hóa 6 tháng đầu năm 2023 đạt 7.351 ngàn tấn, tăng 14,5% và luân chuyển 1.427.970 ngàn tấn.km, tăng 23,5% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ thực hiện 1.119 ngàn tấn, tăng 10,3% và luân chuyển được 243.374 ngàn tấn.km, tăng 9,5% so cùng kỳ; vận tải đường thủy thực hiện 6.232 ngàn tấn, tăng 15,3% và luân chuyển 1.184.596 ngàn tấn.km, tăng 26,8% so cùng kỳ.
* Phương tiện giao thông: Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.462.651 chiếc, trong đó mô tô xe máy: 1.412.686 chiếc, 48.803 xe ô tô, 153 xe ba bánh, 438 xe đạp điện và 571 xe khác.
d. Du lịch:
Ước tính 6 tháng đầu năm 2023, ước lượng khách du lịch đến tỉnh 569 ngàn lượt, đạt 45,5% kế hoạch, tăng 94,9% so cùng kỳ; trong đó khách quốc tế 52 ngàn lượt, tăng 5,1 lần. Doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 3.480 tỷ đồng, tăng 37,7% so cùng kỳ; trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm 98,3%.
e. Bưu chính viễn thông:
Doanh thu bưu chính, viễn thông 6 tháng đầu năm 2023, đạt 1.955 tỷ đồng, tăng 3,9% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính 190 tỷ đồng, tăng 10,5%; doanh thu viễn thông 1.765 tỷ đồng, tăng 3,2%; do sự phát triển mạnh từ dịch vụ viễn thông và internet vì vậy nhu cầu tiện ích và tìm hiểu thông tin của người dân càng ngày được nâng lên.
Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 6 năm 2023 là 125.020 thuê bao; thuê bao điện thoại bình quân đạt 7,03 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau).
Số thuê bao Internet phát triển 6 tháng đầu năm 2023 là 48.628 thuê bao. Tổng số thuê bao Internet trên mạng ước tính đến tháng 6 năm 2023 là 373.077 thuê bao; mật độ Internet bình quân ước đạt 20,97 thuê bao/100 dân.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Lao động, giải quyết việc làm:
Tư vấn và giới thiệu việc làm:
Công tác tư vấn, giới thiệu việc làm 6 tháng đầu năm 2023: thực hiện tư vấn nghề, việc làm, pháp luật lao động và tư vấn khác cho 13.094 lượt lao động, giảm 10,3% so cùng kỳ, đạt 65,5% kế hoạch năm; trong đó tư vấn nghề cho 681 lượt lao động; tư vấn việc làm cho 10.656 lượt lao động thất nghiệp; tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác cho 458 lượt lao động. Giới thiệu việc làm cho 1.205 lượt lao động, tăng 4,1% so cùng kỳ, trong đó có 411 lao động có được việc làm ổn định, tăng 16,4% so cùng kỳ.
Công tác đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài: có 226 người xuất cảnh đi làm việc ở nước ngoài đạt 75,3% kế hoạch năm, tăng 23,5% so cùng kỳ: Nhật Bản 195 người, Đài Loan 24 người, Hàn Quốc 02 người, Canada 02 người, Hoa Kỳ 01 người, Hungary 01 người, Hồng Kông - Trung Quốc 01 người.
Tình hình lao động thiếu việc làm và thất nghiệp:
Theo kết quả sơ bộ điều tra lao động việc làm quý II/2023, lao động thiếu việc làm chiếm tỷ lệ 6,8%, giảm 0,6 điểm phần trăm so quý trước và tăng 3,0 điểm phần trăm so cùng kỳ năm trước (từ 3,8% năm 2022 lên 6,8% năm 2023), đã làm cho tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị giảm 1,3 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,7 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước (từ 7,8% năm 2022 lên 8,5% năm 2023). Đối với khu vực nông thôn tỷ lệ thiếu việc làm giảm 0,3 điểm phân trăm so quý trước và tăng 3,8 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước (từ 2,3% năm 2022 lên 6,1% năm 2023). Tình trạng thiếu việc làm quý II năm 2023 chủ yếu ở khu vực nông thôn (chiếm 63,2% trong tổng số số lao động thiếu việc làm của tỉnh).
Tỷ lệ lao động thất nghiệp trong quý II năm 2023 là 1,6% giảm 0,2 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,6 điểm phần trăm so cùng kỳ năm trước (từ 1,0% năm 2022 lên 1,6% năm 2023). Nhưng khi xét về tỷ lệ thất nghiệp chia theo khu vực thì khu vực thành thị tăng 0,5 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 2,5 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước (từ 1,5% năm 2022 lên 4,0% năm 2023). Vì vậy, đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn giảm 0,5 điểm phần trăm so quý trước và giảm 0,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước (từ 0,7% năm 2022 xuống 0,6% năm 2023). Cũng chính vì vậy, đã làm cho tỷ trọng thất nghiệp ở khu vực thành thị chiếm 73,1% so với tổng số lao động thất nghiệp của toàn tỉnh và tỷ trọng số lao động thất nghiệp khu vực thành thị trong quý II năm 2023 tăng 26,4 điểm phần trăm so cùng kỳ năm 2022.
Trong 6 tháng đầu năm 2023, tỷ lệ lao động thiếu việc làm chiếm 7,1%, tăng 3,0 điểm phần trăm so cùng kỳ năm trước (từ 4,1% lên 7,1%), đã làm cho tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị tăng 1,2 điểm phần trăm (từ 8,0% lên 9,2%) và tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn tăng 3,7 điểm phần trăm (từ 2,5% lên 6,2%).
Tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh 6 tháng đầu năm 2023 tăng 0,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2022 ( từ 1,4% lên 1,8%) đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị tăng 0,8 điểm phần trăm (từ 2,9% lên 3,7%) và tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn tăng 0,1 điểm phần trăm (từ 0,8% năm 2022 lên 0,9% năm 2023). Cũng chính vì vậy đã làm cho tỷ trọng thất nghiệp ở khu vực thành thị chiếm 65,5% so với tổng số lao động thất nghiệp của toàn tỉnh.
Nhìn chung, tỷ lệ số lao động thiếu việc làm, tỷ lệ thất nghiệp chung của toàn tỉnh đều tăng so cùng kỳ năm 2022. Nguyên nhân chủ yếu là do trong các tháng đầu năm 2023 tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, đơn hàng tiếp tục bị cắt giảm đã dẫn đến nhiều người lao động bị thiếu, mất việc làm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thu nhập và đời sống của người lao động.
Tình hình thôi việc, mất việc, nghỉ giãn việc:
Tình hình thôi việc, mất việc, từ ngày 01/4/2023 đến ngày 15/6/2023 là 2.427 người. Chia theo trình độ: lao động phổ thông là 1.575 người (chiếm 64,9%), lao động có tay nghề là 852 người (chiếm 35,1%). Chia theo ngành: dệt may là 964 người (chiếm 39,7%); da giày là 825 người (chiếm 34%); chế biến thủy sản là 165 người (chiếm 6,8%); ngành khác là 473 người (chiếm 19,5%)
Về nghỉ giãn việc của các doanh nghiệp tại địa phương từ ngày 01/4/2023 đến ngày 15/6/2023 là 11.887 người. Chia theo trình độ: lao động phổ thông là 9.306 người (chiếm 78,3%), lao động có tay nghề là 2.581 người (chiếm 21,7%). Chia theo ngành: dệt may là 551 người (chiếm 4,6%); da giày là 9.865 người (chiếm 83%); chế biến thủy sản là 414 người (chiếm 3,5%); ngành khác là 1.057 người (chiếm 8,9%).
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thôi việc, mất việc, nghỉ giãn việc do nhiều doanh nghiệp bị ảnh hưởng về đơn hàng từ giữa tháng 6/2022 đến nay. Để duy trì lao động, việc làm, doanh nghiệp đã lựa chọn nhiều giải pháp như: giảm số giờ làm trong ngày, bố trí cho người lao động nghỉ luân phiên các ngày trong tuần, giảm giờ tăng ca, tạm hoãn hợp đồng lao động, không tái ký hợp đồng, khuyến khích người lao động đăng ký nghỉ việc. Một số doanh nghiệp thực hiện phương án nghỉ việc theo nguyện vọng cá nhân, công ty sẽ chấp thuận và hỗ trợ thu nhập cho công nhân, bên cạnh tiền lương, phép năm còn lại (nếu có), trợ cấp thôi việc theo quy định, doanh nghiệp sẽ hỗ trợ thêm cho người lao động theo phương thức: nếu có thâm niên làm việc từ đủ 3 năm đến dưới 7 năm được hỗ trợ 1 tháng lương theo HĐLĐ của tháng nghỉ việc. Nếu có thâm niên làm việc từ 7 năm trở lên được hỗ trợ 2 tháng lương theo HĐLĐ của tháng nghỉ việc.
2. Đời sống dân cư và an sinh xã hội:
Chính sách đối với người có công trong 6 tháng đầu năm 2023 được đảm bảo. Tổ chức thăm, tặng quà, trợ cấp cho người có công, người cao tuổi, hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ có người mất liên quan dịch COVID-19 và các đơn vị tập trung trong dịp Tết Quý Mão năm 2023 cụ thể: Tặng quà của Chủ tịch nước cho người có công với cách mạng (Nguồn kinh phí Trung ương), số lượng 37.292 người với số tiền trên 11,3 tỷ đồng; nguồn kinh phí địa phương trên 27,5 tỷ đồng với số lượng 69.771 người; tổ chức 15 Đoàn Ban Thường vụ Tỉnh ủy thăm 80 hộ gia đình chính sách, 02 hộ gia đình quân nhân đang làm nhiệm vụ và 47 đơn vị tập trung với tổng số tiền là 558 triệu đồng.
Về tình hình thực hiện chế độ tiền lương năm 2022 và thưởng Tết năm 2023 đối với người lao động của các doanh nghiệp: theo số liệu báo cáo của 65 doanh nghiệp với 97.565 lao động đang làm việc (doanh nghiệp FDI là 85.044 lao động, chiếm tỷ 87%), tiền lương thực trả bình quân năm 2022 (bao gồm: mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định pháp luật lao động) là 8,062 triệu đồng/người/tháng, tăng 19% so với năm 2021. Mức thưởng Tết Dương lịch năm 2023: theo báo cáo của 26 doanh nghiệp với 18.054 lao động, mức thưởng bình quân là 1,145 triệu đồng/người. Mức thưởng Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023: theo số liệu của 63 doanh nghiệp với 97.129 lao động, mức tiền thưởng bình quân khoảng 7,638 triệu đồng/người.
Về giải quyết tranh chấp lao động và đình công: từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 02 vụ ngừng việc tập thể tại 02 doanh nghiệp, khoảng 550 người lao động đình công trong số 2.130 người lao động. Trước tình hình đó, các sở, ngành, địa phương, doanh nghiệp đã tổ chức cuộc đối thoại với người lao động nên các vụ ngừng việc đã được giải quyết kịp thời và người lao động đã ổn định làm việc.
Về trợ cấp thất nghiệp: có 10.084 lao động đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 27,1% so cùng kỳ và có 9.741 lao động được quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 23% so cùng kỳ với tổng số tiền chi trả trên 202 tỷ đồng, giảm 14,9% so cùng kỳ.
3. Hoạt động giáo dục:
Ngày 15-6, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Tiền Giang đã công bố điểm thi tuyển sinh lớp 10 năm 2023 cho 20.443 thí sinh ở 38 hội đồng thi. Điểm thi tuyển sinh lớp 10 tại Tiền Giang với môn Ngữ văn có 22 thí sinh đạt điểm 10; Môn Tiếng Anh có 589 thí sinh điểm 10; Môn Toán có 1.012 thí sinh điểm 10. Dự kiến khoảng giữa tháng 7-2023, tỉnh Tiền Giang sẽ công bố kết quả trúng tuyển vào lớp 10.
Tổ chức Kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp quốc gia THPT vào các ngày 24, 25/02/2023. Tổng số thí sinh đăng ký dự thi Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia THPT là 54 thí sinh. Tiền Giang có 18 thí sinh đoạt giải, tăng 09 giải so với năm học 2021 - 2022, bao gồm: Toán (02 giải Ba, 01 giải Khuyến khích); Hóa học (01 giải Nhì, 01 giải Ba); Sinh học (01 giải Nhì, 02 giải Ba, 02 giải Khuyến khích); Ngữ văn (01 giải Khuyến khích); Lịch sử (03 giải Khuyến khích); Tiếng Anh (02 giải Ba, 02 giải Khuyến khích). Đứng hạng 4/13 các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long.
4. Hoạt động y tế:
Hoạt động y tế trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2023 được đảm bảo. Trong tháng 6, có 11/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận. So với cùng kỳ cộng dồn có 12 bệnh tăng (Bệnh liên cầu lợn ở người, Lao phổi, Liệt mềm cấp nghi bại liệt, Quai bị, Sởi, Sốt xuất huyết Dengue, Tay-chân- miệng, Thủy đậu, Tiêu chảy, Uốn ván khác, Viêm gan vi rút B, Viêm gan vi rút C); 01 bệnh giảm (covid-19); 31 bệnh tương đương hoặc không xảy ra ca mắc.
Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết trong 6 tháng ghi nhận 1.753 ca mắc, tăng 87,9% so cùng kỳ, không ghi nhận ca tử vong.
Phòng chống HIV/AIDS tính đến nay, toàn tỉnh có 6.611 người nhiễm HIV; 1.819 người chuyển sang AIDS; 1.306 người tử vong do AIDS.
Tổng số lần khám bệnh là 2.171.315 lượt người, tăng 33,8%; Tổng số lượt người điều trị nội trú là 93.849 lượt người, tăng 32,2%; Công suất sử dụng giường bệnh bình quân tháng 6 đạt 68,5%.
5. Hoạt động văn hóa - thể thao:
Sáu tháng đầu năm 2023, nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao được tổ chức thiết thực, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân nhất là trong dịp lễ, tết. Toàn tỉnh hiện có 447.938/473.270 hộ đạt 3 tiêu chuẩn Gia đình văn hóa, đạt 94,6%; 1.005/1.005 ấp (khu phố) văn hóa, đạt tỷ lệ 100%; 166/172 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới/phường/thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị; 69 chợ văn hóa; 17 công viên văn hóa; 882 con đường văn hóa, 557 cơ sở thờ tự văn hóa.
Hoạt động bảo tàng: Bảo tàng tỉnh và các khu di tích quốc gia đã đón 89.480 lượt khách tham quan. Thực hiện trưng bày cố định các chuyên đề phục vụ khách tham quan: Lịch sử, văn hóa, xã hội Tiền Giang trước năm 1930; Lịch sử Tiền Giang từ khi có Đảng lãnh đạo; Lịch sử Khu 8; “Đảng Cộng sản Việt Nam 92 năm mốc son chói lọi”; “Đèn và đồ dùng sinh hoạt trong cuộc sống”; “Di sản Văn hóa Tiền Giang”; “Sưu tập Tiền Giấy” và trưng bày hiện vật ngoài trời như: hiện vật Óc Eo, hiện vật nông nghiệp. Trưng bày cố định các chuyên đề theo tiến trình lịch sử tại các di tích: Khảo cổ Gò Thành, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Chiến thắng Ấp Bắc, Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút và Đền thờ Trương Định - Gia Thuận, tổ chức các hoạt động phục vụ Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương năm 2023.
Hoạt động văn hóa nghệ thuật: thực hiện 97 cuộc tuyên truyền lưu động, biểu diễn văn nghệ phục vụ Nhân dân và các cuộc lễ; 63 suất nhạc nước tại quảng trường Hùng Vương. Tổ chức công tác tuyên truyền các ngày lễ, sự kiện lớn theo kế hoạch năm 2023 với 120 băng ron, 70 pano, 850 cờ các loại, 76 ụ cờ, 8 lượt xe loa cổ động.
Hoạt động thư viện: trong 6 tháng đầu năm 2023, hệ thống thư viện đã phục vụ hơn 85 nghìn lượt bạn đọc với hơn 186 nghìn lượt sách báo lưu hành. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 20/2020/NQ-HĐND ngày 30 tháng 9 năm 2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh Tiền Giang quy định mức thu phí thư viện trong phạm vi các thư viện công cộng trên địa bàn tỉnh Tiền Giang; Theo đó, mức thu phí thẻ mượn, thẻ đọc tài liệu đối với các thư viện công cộng do cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã quản lý là 0 đồng (không đồng)/thẻ/năm nhằm khuyến khích độc giả tham gia để phát triển văn hóa đọc.
Hoạt động thể dục thể thao:
Trong 6 tháng đầu năm 2023, tổ chức 17 giải thể thao với 04 giải quốc gia và 01 giải mở rộng. Đoàn thể thao Tiền Giang tham dự 34 giải với tổng số huy chương các môn đạt 78 huy chương: 16 HCV, 22 HCB, 40 HCĐ. Trong đó tham dự đại hội thể thao toàn quốc lần thứ IX năm 2022 tại Quảng Ninh với 13 môn, 113 người tham dự 86 nội dung thi đấu (kết quả đạt 05 HCV, 04 HCB, 16 HCĐ).
6. Tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội
(theo báo cáo của ngành Công an):
Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2023 được đảm bảo.
Tội phạm về trật tự xã hội xảy ra 445 vụ, làm chết 10 người, bị thương 84 người, tài sản thiệt hại khoảng 9,6 tỷ đồng; điều tra khám phá 360 vụ (đạt 81%); án rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đạt 83%, bắt xử lý 644 đối tượng, thu hồi tài sản trị giá khoảng 2,1 tỷ đồng.
Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy phát hiện, xử lý 103 vụ với 129 đối tượng tàng trữ, vận chuyển, mua bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trái phép chất ma túy và xử lý hành chính 627 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy.
7. Trật tự an toàn giao thông
(theo báo cáo của ngành Công an):
Từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh ghi nhận 110 vụ giảm 90 vụ so cùng kỳ, làm chết 77 người giảm 66 người so với cùng kỳ và bị thương 65 người giảm 25 người so cùng kỳ. Các nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông chủ yếu do ý thức chấp hành Luật giao thông của người tham gia giao thông như: điều khiển xe khi có rượu bia, phóng nhanh vược ẩu, không làm chủ tốc độ; vượt đèn đỏ, thiếu quan sát…
Giao thông đường thủy: không xảy ra tai nạn giao thông.
Tai nạn giao thông trong Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023:
Trong dịp Tết Nguyên đán xảy ra 06 vụ, giảm 07 vụ so cùng kỳ; làm chết 05 người, giảm 05 người so cùng kỳ; 02 người bị thương, giảm 04 người so cùng kỳ.
Tai nạn giao thông trong 04 ngày nghỉ lễ 30/4 và 01/5/2022
(tính từ ngày 29/4/2023 đến ngày 03/5/2023): Tai nạn giao thông đường bộ xảy ra 08 vụ, giảm 01 vụ so cùng kỳ; làm 05 người chết, giảm 02 người so cùng kỳ và 04 người bị thương, tăng 02 người so cùng kỳ.
8. Tình hình cháy nổ, môi trường và thiên tai:
Cháy, nổ ghi nhận 06 vụ cháy, giảm 02 vụ so cùng kỳ; tài sản sản thiệt hại khoảng 2,6 tỷ đồng; nguyên nhân chủ yếu do sự cố về điện, người dân bất cẩn trong sử dụng lửa. Lĩnh vực môi trường từ đầu năm đến nay, ghi nhận 05 vụ vi phạm đã được xử lý với số tiền phạt khoảng 191,4 triệu đồng.
Tình hình thiên tai: Tính từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh ghi nhận 07 cơn lốc xoáy, 02 căn nhà bị sập, 235 căn nhà bị tốc mái, 14.625 cây bị ngã đổ, 35 điểm sạt lỡ với tổng giá trị thiệt hại khoảng 73,4 tỷ đồng.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG CUỐI NĂM 2023
Để đảm bảo thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023, trên cơ sở phát huy kết quả đã đạt được và khắc phục những hạn chế, những việc chưa thực hiện được trong 6 tháng đầu năm. Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh cần quyết liệt hơn nữa trong lãnh và chỉ đạo, các ngành, các cấp, địa phương chủ động đề ra các giải pháp, vượt qua khó khăn, thách thức, khai thác tốt những cơ hội để phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm cần thực hiện như sau:
Chuẩn bị tốt các điều kiện sản xuất vụ Đông Xuân 2023 - 2024, chú trọng cơ cấu giống và đảm bảo lịch thời vụ phù hợp để tránh thiếu nước vào cuối vụ. Triển khai thực hiện đề án "Cắt vụ, chuyển đổi mùa vụ và cơ cấu cây trồng các huyện phía Đông tỉnh Tiền Giang đến năm 2025". Tăng cường ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong sản xuất, chế biến; quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn lực kinh tế để đáp ứng yêu cầu giữ vững tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, giảm nghèo, bảo vệ môi trường để phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Triển khai hiệu quả các giải pháp phù hợp kích cầu thương mại và dịch vụ, các chương trình xúc tiến, đẩy mạnh quảng bá thúc đẩy phát triển du lịch; các giải pháp để mở rộng, đa dạng hóa thị trường và sản phẩm xuất khẩu.
Thường xuyên rà soát kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh. Cần có giải pháp hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp thiếu vốn, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm và một số ngành, lĩnh vực bị tác động bất lợi do nhu cầu của thị trường suy giảm như: da giày, dệt may, sản xuất và chế biến gỗ...
Đẩy nhanh tiến độ các công trình đang thi công, kịp thời nghiệm thu đưa vào sử dụng và thanh quyết toán các công trình hoàn thành. Các ngành địa phương có công trình xây dựng tập trung theo dõi, đôn đốc việc chuẩn bị hồ sơ, thường xuyên kiểm tra, giám sát đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình; kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình lập hồ sơ và triển khai thi công; thực hiện tốt công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng xây dựng công trình, đảm bảo đúng trình tự, thủ tục theo quy định.
Tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp như: môi trường đầu tư, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tiếp tục rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến nhà đầu tư, doanh nghiệp, thúc đẩy khởi nghiệp, tổ chức Ngày hội khởi nghiệp tỉnh, xây dựng Đề án hỗ trợ khởi nghiệp của tỉnh; phát triển hộ kinh doanh hoạt động theo hình thức doanh nghiệp....
Tăng cường công tác an ninh trật tự, an toàn xã hội, an ninh quốc phòng.
Tập tin : web_solieu_uoc T6-2023.xlsx
Tin khác