Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang Tháng 10 năm 2022
- 18/06/2024 14:51
Trong tháng 10, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh ổn định và tiếp tục tăng trưởng trên hầu hết các ngành lĩnh vực. Kết quả thực hiện trên các lĩnh vực như sau: I. SẢN XUẤT NÔNG - LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN 1. Nông nghiệp Cây lương thực có hạt: trong tháng gieo trồng 64 ha, sản lượng thu hoạch 194 tấn; ước tính đến cuối tháng 10/2022 gieo trồng 137.140 ha, đạt 109,8% kế hoạch, sản lượng thu hoạch 775.568 tấn; trong đó: cây lúa gieo sạ 134.846 ha tăng 2,3% so cùng kỳ, thu hoạch 121.450 ha giảm 3,9% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch 767.364 tấn giảm 4,9% so cùng kỳ. Hình 1. Cây lương thực có hạt tính đến ngày 15/10/2022 - Cây lúa: Vụ Hè thu (Xuân Hè + Hè Thu): Diện tích gieo trồng chính thức 72.258 ha giảm 3,3% so cùng kỳ do chuyển sang đất phi nông nghiệp và một số vùng sản xuất lúa không hiệu quả người dân chuyển sang trồng cây rau màu, cây ăn quả và nuôi trồng thủy sản đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Diện tích thu hoạch 72.258 ha, giảm 3,3% so cùng kỳ; năng suất bình quân 57,7 tạ/ha giảm 1,8%. Sản lượng thu hoạch đạt 417.284 tấn, giảm 5% so cùng kỳ do diện tích gieo trồng và năng suất bình quân đều giảm, nguyên nhân do những cơn mưa lớn vào thời điểm lúa đang trổ bông và thu hoạch nên làm ảnh hưởng đến năng suất. Vụ Thu đông: Diện tích gieo trồng 13.396 ha, tăng 1,4 lần so cùng kỳ. Diện tích gieo trồng tăng so với vụ Thu Đông 2021 do các huyện thị phía Đông linh hoạt gieo trồng theo điều kiện thực tế của địa phương. - Cây ngô: Trong tháng gieo trồng 64 ha. Mười tháng gieo trồng 2.294 ha, đạt 88,3% kế hoạch, tăng 2,5% so cùng kỳ; thu hoạch 2.276 ha, năng suất đạt 36,1 tạ/ha với sản lượng đạt 8.204 tấn, đạt 87,1% kế hoạch, tăng 0,2% so cùng kỳ. Do thời tiết thuận lợi hơn so với năm trước nên người dân tranh thủ trồng ngô để đạt được hiệu quả cao. Cây rau đậu các loại: trong tháng gieo trồng 513 ha, thu hoạch 1.416 ha với sản lượng 34.601 tấn. Mười tháng gieo trồng 54.546 ha, đạt 94,2% kế hoạch, tăng 0,4% so cùng kỳ; thu hoạch 47.359 ha tăng 1,3% so cùng kỳ với sản lượng 982.605 tấn, đạt 84,1% kế hoạch, tăng 1,9% so cùng kỳ; trong đó: rau các loại 54.294 ha tăng 0,4% so cùng kỳ, diện tích rau các loại gieo trồng; nhiều nhất ở huyện Châu Thành 14.390, chiếm 26,8%; kế đến Gò Công Đông 12.318 ha, chiếm 23%; Chợ Gạo 6.459 ha, chiếm 12%; Gò Công Tây 5.164 ha, chiếm 9,6%; thị xã Gò Công 5.077 ha, chiếm 9,5%,… Năng suất bình quân ước đạt 208,2 tạ/ha, tăng 0,6% so cùng kỳ; Sản lượng đạt 982.032 tấn, tăng 1,9% so cùng kỳ do nhiều giống mới năng suất cao nên làm cho sản lượng tăng. Hiện nay bà con nông dân đang dần mở rộng mô hình trồng rau trong nhà màng, nhà lưới nên năng suất cao, chi phí giảm dần, giá bán ổn định, giúp nông dân có thu nhập cao, đời sống ổn định là hướng đi đang được khuyến khích. Chăn nuôi: Ước thời điểm 01/10/2022 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 122,5 ngàn con, tăng 1,4% so cùng kỳ; đàn lợn 293 ngàn con, tăng 6,3% so cùng kỳ; đàn gia cầm (không kể chim cút) 17,3 triệu con, tăng 0,9% so cùng kỳ. Nguyên nhân tổng đàn gia súc, gia cầm tăng do người chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao nhằm kiểm soát tốt dịch bệnh, gia tăng hiệu quả kinh tế và tạo ra sản phẩm chăn nuôi an toàn thực phẩm, hướng đến mục tiêu xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi. Ngành chăn nuôi vẫn gặp khó khăn do giá thức ăn ở mức cao, giá cả thịt lợn hơi hiện nay ở mức không cao nhưng để cải thiện thu nhập người chăn nuôi vẫn ổn định phát triển tổng đàn nhất là trong dịp Tết Nguyên đán. Đàn gia cầm tăng do thị trường tiêu thụ ổn định, có lãi sau khi xuất chuồng, người chăn nuôi yên tâm mở rộng quy mô đàn, trong đó đàn gà phát triển tương đối ổn định. Hình 2. Tình hình chăn nuôi tại thời điểm 01/10/2022 2. Lâm nghiệp: Tổng diện tích rừng hiện có là 1.753,9 ha (Không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng); Trong đó rừng phòng hộ: 1.341,2 ha (huyện Gò Công Đông: 439 ha; huyện Tân Phú Đông: 846,8 ha và huyện Tân Phước: 55,4 ha); rừng sản xuất: 412,7 ha. Trong tháng, diện tích rừng giảm 7 ha do người dân khai thác rừng sản xuất ở huyện Tân Phước. Chủ yếu cây tràm và bạch đàn dùng cho xây dựng công trình, nhà ở. Cộng dồn từ đầu năm đến nay đã giảm 43 ha rừng. Trong tháng 10/2022 toàn tỉnh thực hiện trồng mới được 2,2 ngàn cây phân tán, nâng tổng số cây trồng 512,7 ngàn cây, giảm 38,9% so cùng kỳ. Cây phân tán mới chủ yếu là cây bạch đàn, tràm bông vàng được trồng ở: những xã chuẩn bị lên nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao, trên các tuyến đường giao thông mới nâng cấp, cặp bờ kênh, xung quanh các tuyến đê bao, ven bờ sông chống sạt lở đất trong mùa mưa lũ. 3. Thủy hải sản: Diện tích nuôi thủy sản trong tháng đạt 458 ha, tính chung 10 tháng năm 2022 đạt 15.658 ha, đạt 103,6% kế hoạch, tăng 3,4% so cùng kỳ; trong đó: diện tích nuôi cá đạt 4.564 ha giảm 2,8%, diện tích nuôi tôm đạt 8.074 ha tăng 8,8%; diện tích nuôi thủy sản khác đạt 3.020 ha tương đương so với cùng kỳ. Sản lượng thủy sản thu hoạch trong tháng đạt 32.192 tấn, tính chung 10 tháng năm 2022 đạt 276.854 tấn, tăng 5,9% so cùng kỳ chủ yếu tăng sản lượng nuôi trồng; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 157.716 tấn, tăng 12,5%; sản lượng khai thác 119.138 tấn, giảm 1,7%. Nguyên nhân sản lượng từ nuôi tăng do thị trường dần ổn định và giá cả duy trì ở mức người nuôi có lãi sau khi dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát, đặt biệt là giá tôm và cá tra thương phẩm vẫn duy trì ở mức khá góp phần tạo động lực cho người dân đầu tư sản xuất. Sản lượng khai thác giảm do tình hình khai thác thủy sản biển gặp nhiều khó khăn, thời tiết diễn biến có nhiều bất lợi, giá nguyên liệu tăng; thiếu thuyền viên;.... đã làm ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động khai thác hải sản. II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP Tình hình sản xuất công nghiệp trong tháng thuận lợi hơn so cùng kỳ do kiểm soát được dịch Covid-19 tình hình sản xuất công nghiệp của tỉnh Tiền Giang đã dần hồi phục, có nhiều đơn đặt hàng... Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 10/2022 tăng 2,56% so với tháng trước (một số ngành sản xuất công nghiệp chủ yếu của tỉnh có chỉ số tăng như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 15,16%; sản xuất đồ uống tăng 31,75% Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 29,3%..) và tăng 7,47% so cùng kỳ. Các ngành chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh có chỉ số tăng cao so cùng kỳ, như: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 3,9 lần; Sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 3,1 lần; Sản xuất trang phục tăng 1,8 lần... (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,49%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 29,41%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 35,13%). Chỉ số sản xuất công nghiệp 10 tháng đầu năm 2022 tăng 15,62% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 15,88%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 14,28%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 10,42%. Chỉ số sản xuất sản phẩm trong 10 tháng so cùng kỳ như sau: - Có 29/43 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 261,9%; Đồ chơi hình con vật hoặc sinh vật không phải hình người tăng 137,1%; Áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 108,8%; Tàu thuyền lớn chuyên chở người và hàng hóa có động cơ đẩy tăng 56,9%; Sợi xe từ các loại sợi tự nhiên: bông, đay, lanh, xơ dừa, cói ... tăng 54,5%; Các sản phẩm bằng vật liệu tết bện khác tăng 51,8%; Giày, dép thể thao có đế ngoài và mũ giày bằng cao su và plastic tăng 40,2%; Giấy vệ sinh tăng 38,6%; Bia đóng lon tăng 31,6%; Ống và ống dẫn bằng đồng tăng 30,8%; Bia đóng chai tăng 28%; Phân vi sinh tăng 19,4%; Điện thương phẩm tăng 14,3%; Màn bằng vải khác tăng 11,8%;… - Có 14/43 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu, thuyền giảm 91,8%; Phanh và trợ lực phanh giảm 89,8%; Dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 39,7%; Máy gặt đập liên hợp giảm 30%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng bột/cốm giảm 25,4%; Giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài giảm 19,8%; Thức ăn cho thủy sản giảm 19,6%; Cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép giảm 14,5%; Phi lê đông lạnh giảm 8,9%; Bộ com lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn dệt kim hoặc đan móc giảm 8,4%; Thức ăn cho gia súc giảm 4,9%;… Hình 3. Chỉ số sản xuất công nghiệp Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 10/2022 so với tháng trước tăng 0,94%; trong đó: doanh nghiệp nhà nước bằng 100%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 1,73%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,83%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 10/2022 so với cùng kỳ tăng 31,88%, trong đó: doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 35,16%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 32,3% và doanh nghiệp nhà nước giảm 1,29%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 10 năm 2022 tăng 26,98%, trong đó: doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 7,77%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 31,75% và doanh nghiệp nhà nước giảm 1,87%. Chia theo ngành công nghiệp: Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 10 năm 2022 tăng 26,98%, trong đó ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 27,76%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 1,74%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải giảm 12,5%. * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: - Chỉ số tiêu thụ tháng 10/2022 so với tháng trước tăng 0,81% và tăng 65,42% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 10 năm 2022 tăng 18,86%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất đồ uống tăng 34,66%, trong đó sản xuất bia tăng 34,66%; Dệt tăng 49,6%, trong đó sản xuất hàng may sẳn tăng 27,34%; Sản xuất da tăng 44,28%, trong đó sản xuất giày dép tăng 69,11%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 16,58%; Sản xuất kim loại tăng 68,35%;… Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 12,74%, trong đó chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản giảm 12,04%; Sản xuất thiết bị điện giảm 3,61%, trong đó sản xuất mô tơ giảm 7,56%; … - Chỉ số tồn kho tháng 10/2022 so với tháng trước tăng 1,33% so với tháng trước và tăng 7,7 lần so với cùng kỳ. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng so với cùng kỳ: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 1,04%, trong đó chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thuỷ sản tăng 32,85%; Sản xuất da bằng gấp 313,7 lần, trong đó sản xuất giày dép bằng gấp 592,4 lần; Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu bằng gấp 4,8 lần; Sản xuất thiết bị điện tăng 12,61%, trong đó sản xuất mô tơ điện tăng 11,88%; Chế biến, chế tạo khác bằng gấp 3,3 lần, trong đó sản xuất đồ chơi, trò chơi bằng gấp 3,3 lần;... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ: Sản xuất đồ uống giảm 100%, trong đó sản xuất bia giảm 100%; Dệt giảm 37,57%, trong đó sản xuất sợi giảm 31,77%; Sản xuất trang phục giảm 88,51%; Chế biến gỗ giảm 48,84%; Sản xuất giấy giảm 81,18%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 7,43%; Sản xuất kim loại giảm 16,74%; … * Tình hình thu hút đầu tư và phát triển các khu - cụm công nghiệp: - Khu công nghiệp: Lũy kế đến 10/2022 các Khu công nghiệp đã thu hút được 109 dự án đầu tư; trong đó: có 81 dự án đầu tư nước ngoài. Tổng vốn đầu tư là 2,3 tỷ USD và 4.645,9 tỷ đồng. Diện tích đất thuê là 525 ha/767 ha, chiếm tỷ lệ 68,42% diện tích đất công nghiệp cho thuê. - Cụm công nghiệp: trong tháng không thu hút dự án đầu tư mới. Tổng số dự án đầu tư tại các cụm công nghiệp hiện nay là 79 dự án (trong đó: có 6 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 0,2 tỷ USD và 2.306,2 tỷ đồng, diện tích thuê đất là 88,7 ha/120,6 ha, chiếm 73,6% diện tích đất công nghiệp cho thuê. III. ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện trong tháng là 692 tỷ đồng, tăng 1,1 lần so cùng kỳ. Mười tháng thực hiện 4.049 tỷ đồng, đạt 80% kế hoạch, tăng 56,6% so cùng kỳ, Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh thực hiện 3.172 tỷ đồng, đạt 75,8% kế hoạch, tăng 61,9% so cùng kỳ, chiếm 78,3% tổng số; trong đó: vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 1.085 tỷ đồng, tăng 1,9 lần so cùng kỳ. Ngày 8/7/2022 Hội đồng nhân dân tỉnh Tiền Giang ban hành Nghị quyết số: 19/NQ-HĐND “Về việc bổ sung kế hoạch đầu tư công tỉnh Tiền Giang năm 2022” đã bổ sung điều chỉnh kế hoạch đầu tư công năm 2022 là 1.186 tỷ đồng. Các ngành các cấp yêu cầu các ban quản lý chủ đầu tư tập trung điều kiện đẩy nhanh tiến độ thi công của các dự án công trình trong những tháng cuối năm 2022, nhiều công trình đã hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng, các công trình còn lại thi công đúng theo tiến độ đề ra. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện 593 tỷ đồng, tăng 14,4% kế hoạch, tăng 32,1% so cùng kỳ và chiếm 14,6% tổng số; trong đó: vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 269 tỷ đồng, tăng 16% so cùng kỳ... Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp xã thực hiện 284 tỷ đồng, đạt 79,1% kế hoạch, tăng 58,8% so cùng kỳ, chiếm 7,1% tổng số; trong đó: vốn huyện hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 187 tỷ đồng, tăng 43,3% so cùng kỳ...Hình 4. Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách do địa phương quản lý 10 tháng năm 2022 IV. THƯƠNG MẠI - GIÁ CẢ - DỊCH VỤ 1. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng: Trong tháng 10/2022, hoạt động thương mại và dịch vụ trên địa bàn tỉnh ổn định, lượng hàng hóa cung ứng cho thị trường dồi dào đáp ứng nhu cầu mua sắm của người dân. Các cửa hàng tiện ích tăng lượng dự trữ hàng hóa nên nguồn cung các mặt hàng lương thực, thực phẩm tương đối đầy đủ. Tại các chợ truyền thống, hàng hóa dồi dào, giá cả ổn định (mặc dù một vài mặt hàng có tăng hoặc giảm giá nhưng ở mức biến động không nhiều). Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong tháng thực hiện 6.453 tỷ đồng, tăng 22,9% so cùng kỳ. Mười tháng tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thực hiện 62.612 tỷ đồng, đạt 88,2% kế hoạch, tăng 25,6% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 52.563 tỷ đồng, tăng 22,7%; lưu trú 43 tỷ đồng, tăng 1,1 lần; ăn uống 4.183 tỷ đồng, tăng 42,4%; du lịch lữ hành 40 tỷ đồng, tăng 5,8 lần; dịch vụ tiêu dùng khác 5.785 tỷ đồng, tăng 42,4% so cùng kỳ. Hình 5. Doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng Hoạt động xúc tiến thương mại, Sở Công thương tỉnh đã tổ chức các hoạt động: hỗ trợ 03 Điểm giới thiệu, bán sản phẩm OCOP và sản phẩm đặc trưng trên địa bàn tỉnh (tại Siêu thị Co.opmart Mỹ Tho, Co.opmart Cai Lậy, Go Mỹ Tho); Tổ chức Hội nghị tập huấn “ Nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ phòng vệ thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”; Công nhận 05 xã đạt Tiêu chí số 7 - Cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn đối với xã NTM nâng cao: xã Ngũ Hiệp, huyện Cai Lậy; xã Phú Nhuận, huyện Cai Lậy và xã Long Vĩnh, huyện Gò Công Tây; xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành; xã Tân Mỹ Chánh, TP Mỹ Tho. 2. Xuất - Nhập khẩu: a. Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng thực hiện 217 triệu USD, tương đương so tháng trước; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 41 triệu USD, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 175 triệu USD. Mười tháng xuất khẩu 3.220 triệu USD, đạt 96,1% kế hoạch, tăng 33% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 8 triệu USD, giảm 79,4%; kinh tế ngoài nhà nước 588 triệu USD, tăng 39,9%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2.624 triệu USD, tăng 33,7% so cùng kỳ. Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của tỉnh như sau: - Thủy sản: ước tính tháng 10/2022 xuất 4.257 tấn với trị giá xuất 13,8 triệu USD. Mười tháng xuất 87.569 tấn, tăng 15,7%, về trị giá 297 triệu USD, đạt 92,8% kế hoạch, tăng 83,4% so cùng kỳ. - Gạo: ước tính tháng 10/2022 xuất 3.526 tấn với giá trị 1,7 triệu USD. Mười tháng xuất 79.234 tấn, giảm 59,4%, về trị giá 39,1 triệu USD, đạt 27,9% kế hoạch, giảm 60,5% so cùng kỳ. - Hàng dệt, may:ước tính tháng 10/2022 xuất 2.037 ngàn sản phẩm với giá trị 41,6 triệu USD. Mười tháng xuất 65.173 ngàn sản phẩm, giảm 35,6%, về trị giá 442,7 triệu USD, đạt 73,8% kế hoạch, tăng 20% so cùng kỳ. Tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may những tháng đầu năm 2022 thuận lợi do đơn hàng dồi dào, lực lượng lao động ổn định. - Kim loại thường và sản phẩm (kể cả đồng): ước tính tháng 10/2022 xuất 6.427 tấn với giá trị 59 triệu USD. Mười tháng xuất 78.678 tấn, tăng 33,5%, về trị giá 811 triệu USD, tăng 47,2% so cùng kỳ. b. Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng 10/2022 đạt 109 triệu USD. Mười tháng, kim ngạch nhập khẩu 1.877 triệu USD, đạt 98,7% kế hoạch, tăng 27,8% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước nhập khẩu 111 triệu USD, tăng 17,2%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập 1.766 triệu USD, tăng 28,5% so cùng kỳ. Nhập khẩu tăng hơn so cùng kỳ do nhập nguyên liệu để phục vụ cho sản xuất, chủ yếu các mặt hàng như: Kim loại thường khác 728 triệu USD, tăng 40%; Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 324 triệu USD, tăng 21,7%; Chất dẻo (plastic) nguyên liệu 105 triệu USD, tăng 24,1%... so cùng kỳ. 3. Chỉ số giá: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10/2022 giảm 0,14% so với tháng 9/2022 (thành thị tăng 0,18%, nông thôn giảm 0,21%), tăng 3,05% so với cùng kỳ và tăng 2,37% so với tháng 12/2021. Bình quân mười tháng đầu năm 2022, CPI tăng 3,32% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng 9/2022, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 04 nhóm giảm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,44%, trong đó: lương thực giảm 0,35%, thực phẩm giảm 0,72%; Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,25%; Giao thông giảm 2,8% và Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,34%. Có 06 nhóm tăng: Đồ uống và thuốc lá tăng 0,05%, do giá mặt hàng nước khoáng tăng 0,37% và thuốc hút tăng 0,02%; May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,15%, do giá nguyên phụ liệu sản xuất và chi phí nhân công tăng lên, dẫn đến giá tăng nhẹ; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,13%, chủ yếu ở các mặt hàng như: máy điều hòa nhiệt độ tăng 0,07% do giá đồng đô la Mỹ tăng liên tục; giấy ăn tăng 0,65% và dụng cụ làm vườn tăng 4,72% so với tháng trước; Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02%, tập trung vào mặt hàng thuốc giảm đau, hạ sốt, chống viêm tăng 1,09%; thuốc vitamin và khoán chất tăng 0,03%; Giáo dục tăng 7,03% và Hàng hoá và dịch vụ khác tăng 0,03%. Riêng nhóm Bưu chính viễn thông ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10/2022 giảm so tháng 9/2022 do: - Chỉ số giá nhóm lương thực giảm 0,35%, trong đó chỉ số giá nhóm gạo giảm 0,55% (Gạo tẻ thường giảm 0,69%; gạo nếp giảm 0,16%), do nguồn cung gạo trong nước được bảo đảm. - Giá thịt lợn, thịt bò, thịt gà giảm nhẹ, do địa phương kiểm soát tốt dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm nên tổng đàn tại địa phương được phục hồi tốt, sản lượng thịt xuất chuồng nhiều, giá bán lẻ giảm. - Giá gas giảm 4,9%, từ ngày 01/10/2022, giá gas trong nước điều chỉnh giảm 18.000 đồng/bình 12 kg sau khi giá gas thế giới giảm 65 USD/tấn (từ mức 640 USD/tấn xuống mức 575 USD/tấn). - Giá điện sinh hoạt giảm 0,54%, mưa nhiều thời tiết chuyển sang mát mẻ, nhu cầu người dân sử dụng điện sinh hoạt giảm. - Giá xăng dầu giảm 5,83%, ảnh hưởng của đợt điều chỉnh giảm giá ngày 03/10/2022 (mặc dù mới đây vào ngày 11/10/2022 và 21/10/2022 giá xăng dầu trong nước điều chỉnh tăng, nhưng do chu kỳ tính giá CPI nên giá xăng dầu trong tháng 10/2022 vẫn còn chịu ảnh hưởng của 02 lần giảm giá trước đó là ngày 21/9 và ngày 03/10/2022). Bên cạnh đó, một số mặt hàng có chỉ số giá tăng - Giá rau tươi, khô và chế biến tăng 1,16% so với tháng trước, do một số diện tích gieo trồng hoa màu chuyển sang trồng hoa cúc, hoa vạn thọ để đón tết Nguyên đán, mặt khác trong tháng mưa nhiều nên năng suất rau màu giảm, nên nguồn cung bị hạn chế, giá tăng nhẹ. - Giá học phí giáo dục đại học, cao đẳng, trung cấp và giáo dục mầm non ngoài công lập năm học (2022-2023) điều chỉnh tăng, dẫn đến chỉ số giá giáo dục trong tháng 10/2022 tăng 8,28%, đóng góp vào mức tăng CPI chung khoảng 0,38 điểm phần trăm. Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm bình quân trong tháng tăng 0,92% so tháng trước. Hiện nay giá vàng bình quân duy trì ở mức 5.243.000 đồng/chỉ, tăng 66.000 đồng/chỉ so cùng kỳ. Chỉ số giá đô la Mỹ trong nước bình quân trong tháng tăng 1,89% so tháng trước, hiện nay giá đô la Mỹ bình quân trên thị trường tự do có mức giá biến động tăng liên tục. Hiện nay giá bình quân Đô la Mỹ duy trì ở mức 24.113 đồng/USD, tăng 1.253 đồng/USD so cùng kỳ. 4. Du lịch: Khách du lịch đến trong tháng 10/2022 được 92.550 lượt khách, tăng 7,2% so tháng trước, trong đó khách quốc tế 2.722 lượt khách, tăng 10,9% so tháng trước. Doanh thu lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác trong tháng 10 đạt 1.152 tỷ đồng, tăng 6,5% so tháng trước và tăng 2,6% so cùng kỳ. Tính chung mười tháng đầu năm 2022, lượt khách du lịch đến Tiền Giang là 643,1 ngàn lượt khách, đạt 71,5% kế hoạch và tăng 1,4% so cùng kỳ; trong đó: khách quốc tế 17,6 ngàn lượt khách, tăng 3,7% so cùng kỳ. Tổng doanh thu thu lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác đạt 10.050 tỷ đồng, tăng 43% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 4.225 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 42,1%, tăng 42,9%; lưu trú đạt 43 tỷ đồng, tăng 1,1 lần so cùng kỳ... 5. Vận tải: Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải trong tháng thực hiện 203 tỷ đồng, tăng 2,5% so tháng trước và tăng 89,8% so cùng kỳ. Mười tháng thực hiện 1.818 tỷ đồng, tăng 29,3% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 461,4 tỷ đồng, tăng 30,9%; doanh thu vận tải hàng hóa thực hiện 1.170 tỷ đồng, tăng 28,6% so cùng kỳ. Doanh thu vận tải đường bộ thực hiện 848 tỷ đồng, tăng 28,8%; doanh thu vận tải đường thủy thực hiện 783 tỷ đồng, tăng 29,6%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 187 tỷ đồng, tăng 30,4% so cùng kỳ. Vận tải hành khách trong tháng đạt 3.224 ngàn hành khách, tăng 11,1% so tháng trước và tăng 1,1 lần so cùng kỳ. Luân chuyển 63.484 ngàn hành khách.km, tăng 17,3% so tháng trước và tăng 1,2 lần so cùng kỳ. Mười tháng, vận chuyển 27.663 ngàn hành khách, tăng 34,3% so cùng kỳ; luân chuyển 488.575 ngàn hành khách.km, tăng 27,2% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 13.167 ngàn hành khách, tăng 27,1% và luân chuyển 469.557 ngàn hành khách.km, tăng 26,5% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 14.496 ngàn hành khách, tăng 41,6% và luân chuyển 19.018 ngàn hành khách.km, tăng 46,1% so cùng kỳ Vận tải hàng hóa trong tháng đạt 1.240 ngàn tấn, tăng 0,4% so tháng trước và tăng 87,8% so cùng kỳ; luân chuyển 162.782 ngàn tấn.km, tăng 0,3% so tháng trước và tăng 87,6% so cùng kỳ. Mười tháng, vận tải 11.259 ngàn tấn hàng hóa, tăng 28,5% so cùng kỳ; luân chuyển 1.467.536 ngàn tấn.km, tăng 27,5% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 2.633 ngàn tấn, tăng 31,8% và luân chuyển 273.449 ngàn tấn.km, tăng 30,7% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 8.626 ngàn tấn, tăng 27,6% và luân chuyển 1.194.087 ngàn tấn.km, tăng 26,7% so cùng kỳ. * Công tác quản lý phương tiện giao thông: Trong tháng đăng ký mới 5.083 chiếc xe mô tô xe máy, 326 chiếc xe ô tô, 06 chiếc xe đạp điện và 10 chiếc xe khác. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.423.013 chiếc, trong đó: mô tô xe máy 1.376.214 chiếc, 45.793 chiếc xe ô tô, 153 chiếc xe ba bánh, 313 chiếc xe đạp điện và 540 chiếc xe khác. 6. Bưu chính viễn thông: Doanh thu trong tháng 10/2022 đạt 278 tỷ đồng, tăng 4,2% so tháng trước và tăng 0,7% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 30 tỷ đồng, tăng 2,4% và viễn thông 247 tỷ đồng, tăng 0,5% so tháng trước. Mười tháng doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 2.726 tỷ đồng, tăng 3,3% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 273 tỷ đồng, tăng 14,2% và viễn thông 2.453 tỷ đồng, tăng 2,3% so cùng kỳ. Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 10/2022 là 123.375 thuê bao, mật độ bình quân đạt 6,96 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Thuê bao internet có trên mạng cuối tháng 10/2022 là 341.557 thuê bao, mật độ internet bình quân đạt 19,27 thuê bao/100 dân. Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa dẫn đến khách hàng dần chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Số thuê bao điện thoại di động có sử dụng internet (3G, 4G) đến cuối tháng 9/2022 là 1.464.703 thuê bao. V. TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG 1. Tài chính: Thu ngân sách trên địa bàn trong tháng thực hiện 915 tỷ đồng; trong đó: thu nội địa 875 tỷ đồng. Mười tháng, thu 8.688 tỷ đồng, đạt 98,4% kế hoạch, tăng 22,6% so cùng kỳ; trong đó: thu nội địa 8.345 tỷ đồng, đạt 98% dự toán, tăng 24,4% so cùng kỳ (trong thu ngân sách trên địa bàn: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.567 tỷ đồng, đạt 93,3% dự toán, tăng 15,7% so cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 904 tỷ đồng, đạt 94,2% dự toán, tăng 9,7% so cùng kỳ...). Tổng chi ngân sách nhà nước trong tháng 995 tỷ đồng; trong đó: chi đầu tư phát triển 250 tỷ đồng. Mười tháng, chi 11.012 tỷ đồng, đạt 89,6% dự toán, tăng 4,4% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 3.935 tỷ đồng, đạt 99,9% dự toán, tăng 39,8% so cùng kỳ;chi hành chính sự nghiệp 5.735 tỷ đồng, đạt 76,5% dự toán và giảm 0,4% so cùng kỳ. 2. Ngân hàng: Trong tháng 10/2022, Ngành Ngân hàng tiếp tục hỗ trợ vốn cho các thành phần kinh tế phục hồi và phát triển. Các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn tập trung quyết liệt triển khai thực hiện Nghị định số 31/2022/NĐ-CP về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với các khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh và Thông tư 03/2022/TT-NHNN hướng dẫn các ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện hỗ trợ lãi suất theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP theo tiến độ chung của Ngành và theo hướng dẫn của từng hệ thống ngân hàng thương mại. Đến cuối tháng 9/2022, vốn huy động đạt 87.686 tỷ đồng, tăng 8.197 tỷ, tăng 10,31% so cuối năm 2021; Tổng dư nợ cho vay của các TCTD trong tỉnh đạt 83.462 tỷ, tăng 11.570 tỷ, tỷ lệ tăng 16,09% so với cuối năm 2021. Các tổ chức tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn cho 2.193 doanh nghiệp đang vay vốn với dư nợ 65.649 tỷ đồng, tăng 15,46% so với cuối năm 2021, chiếm 31,93% tổng dư nợ cho vay toàn tỉnh. Ước đến cuối tháng 10/2022, vốn huy động đạt 87.772 tỷ đồng, tăng 10,42% so với cuối năm 2021. Lãi suất tiết kiệm tại hầu hết các ngân hàng có xu hướng tăng so với thời điểm đầu năm do nhu cầu vốn phục hồi kinh tế - xã hội tăng cao và áp lực lạm phát tăng cao tại hầu hết các quốc gia trên thế giới nên ngày 23/9/2022, NHNN điều chỉnh tăng 0,3%-1% lãi suất tiền gửi tối đa bằng VNĐ tại TCTD. Mặt bằng lãi suất cho vay trên địa bàn tỉnh được duy trì ổn định, có xu hướng tăng do phải cân đối giữa chi phí huy động vốn đầu vào và giá vốn cho vay ra. Đến cuối tháng 9/2022 lãi suất như sau: Lãi suất huy động tối đa bằng Việt Nam đồng (VND) đối với tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng 0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng; 5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng áp dụng cho NHTM, 5,5%/năm áp dụng cho QTDND và tổ chức tài chính Việt Nam (TCTCVM). Lãi suất cho vay VND phổ biến ở mức trên 4,5-9%/năm đối với ngắn hạn; trên 11-13%/năm đối với trung dài hạn; Các NHTM chấp hành nghiêm mức trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên theo Thông tư số 39/2016/TT-NHNN là 4,5%/năm. Nợ xấu: đến cuối tháng 9/2022, số dư là 672,8 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 0,81%, giảm 0,24% so với cuối năm 2021. Ước đến cuối tháng 10/2022, nợ xấu là 654 tỷ đồng, tỷ lệ 0,78%, giảm 0,27% so với cuối năm 2021 Hệ thống Quỹ Tín dụng nhân dân trên địa bàn tỉnh hoạt động ổn định, các chỉ tiêu đều đạt mức tăng trưởng. Một số kết quả đạt được đến cuối tháng 9/2022 so với cuối năm 2021 như sau: tổng nguồn vốn hoạt động đạt 1.398 tỷ đồng, tăng 142 tỷ đồng, tăng 11,37% so với cuối năm 2021, trong đó vốn huy động tăng 10,83% chiếm tỷ trọng 88% trong tổng 51%; đáp ứng nhu cầu vốn cho 8.842 lượt thành viên vay vốn từ đầu năm đến nay. Nợ xấu: số dư 3 tỷ đồng, giảm 0,5 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 0,30%, giảm 0,10% so với cuối năm 2021. VI. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Trong tháng, thẩm định nội dung 01 nhiệm vụ khoa hoc và công nghệ (KH&CN) cấp tỉnh; nghiệm thu kết thúc 02 nhiệm vụ KH&CN (01 cấp tỉnh, 01 cấp cơ sở). Ngoài ra trong tháng còn tập trung cho các nội dung công việc như: Tuyển chọn, giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ KH&CN; nghiệm thu kết thúc các nhiệm vụ KH&CN; hướng dẫn lập hồ sơ sở hữu trí tuệ và cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ; đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ KH&CN: Kiểm định phương tiện đo; kiểm nghiệm mẫu môi trường; sản xuất các sản phẩm composite, nấm các loại,... Đến tháng 10/2022, thẩm định nội dung 14 nhiệm vụ (07 cấp tỉnh, 07 cấp cơ sở); quyết định triển khai 11 nhiệm vụ (05 cấp tỉnh, 06 cấp cơ sở); nghiệm thu kết thúc 07 nhiệm vụ (03 cấp tỉnh, 04 cấp cơ sở); quyết định công nhận 13 nhiệm vụ (08 cấp tỉnh, 05 cấp cơ sở); gia hạn 11 nhiệm vụ (08 cấp tỉnh, 03 cấp cơ sở). VII. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Lao động việc làm: Trong tháng tư vấn 1.666 lượt lao động, tăng 191,3% so với cùng kỳ; trong đó: 71 lượt lao động được tư vấn nghề, 275 lượt lao động được tư vấn việc làm, 1.214 lượt lao động thất nghiệp được tư vấn việc làm, 106 lượt lao động được tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác; giới thiệu việc làm cho 311 lượt lao động, tăng 253 lượt lao động so với cùng kỳ; đã giới thiệu cho 295 lao động có được việc làm ổn định, tăng 247 lao động so với cùng kỳ. Tư vấn đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài cho 59 lượt lao động, tăng 57 lượt lao động so với cùng kỳ; có 01 lao động đăng ký tham gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, tương đương so với cùng kỳ năm 2021; có 33 lao động xuất cảnh chính thức (gồm có: sang Nhật Bản 28 người, Đài Loan 05 người), tăng 31 lao động so với cùng kỳ. Tiếp nhận 1.117 người lao động đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp, tăng 89% so với cùng kỳ; 1.383 người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp, tăng 4,9 lần so với cùng kỳ, với tổng số tiền chi trả 28,3 tỷ đồng, tăng 4 lần so với cùng kỳ. 2. Chính sách xã hội: Trong tháng, các chế độ ưu đãi cho người có công được thực hiện: + Trợ cấp 1 lần cho thân nhân thờ cúng liệt sĩ, số lượng 60 hồ sơ, chuyển thờ cúng 94 hồ sơ; người có thành tích tham gia kháng chiến được tặng Bằng khen theo Quyết định số 24/2016/QĐ-TTg: 02 trường hợp; Người hoạt động kháng chiến và Dân có công gia đình cách mạng: 08 trường hợp, đối tượng hưởng theo các Quyết định 290/2005/QĐ-TTg, 62/2011/QĐ-TTg: 02 trường hợp. + Trợ cấp mai táng phí: 187 trường hợp; trợ cấp mai táng phí theo các Quyết định 290/2005/QĐ-TTg, 62/2011/QĐ-TTg, 49/2015/QĐ-TTg, 40/2011/QĐ-TTg: 96 trường hợp. + Giải quyết chế độ cho người hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày, bị nhiễm chất độc hóa học mới được công nhận: 04 trường hợp. + Trợ cấp hàng tháng đối với 02 con liệt sĩ tàn tật; hưởng thêm chế độ thương binh, bệnh binh đối với 23 đối tượng. + Cấp mới 02 sổ dụng cụ chỉnh hình và cấp lại 40 giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, chất độc hóa học. + Trợ cấp 06 trường hợp ưu đãi học sinh. + Chuyển hồ sơ người có công đi tỉnh khác và tiếp nhận hồ sơ người có công do tỉnh khác chuyển đến: 25 trường hợp. 3. Hoạt động y tế: Trong ghi nhận 11/44 bệnh truyền nhiễm. So với số cộng dồn cùng kỳ về số mắc có 6 bệnh tăng (Bệnh do liên cầu lợn ở người, Sốt xuất huyết, Viêm gan vi rút C, Sốt Tây sông Nin, Viêm gan vi rút B,Viêm gan vi rút khác), 11 bệnh giảm (Lao phổi, Quai bị, Rubella (Rubeon), Sởi, Tay - chân - miệng, Thương hàn, Thủy đậu, Tiêu chảy, Uốn ván khác, Viêm não vi rút khác, Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona) 27 bệnh không xảy ra ca mắc hoặc bệnh tương đương. Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết: Trong tháng ghi nhận 1.389 người mắc giảm 21,3% so với cùng kỳ; không ghi nhận tử vong. Phòng chống HIV/AIDS: Tính đến thời điểm hiện tại có 6.352 người nhiễm HIV; 1.819 người chuyển sang AIDS; tử vong do AIDS: 1.263 người. Tổng số lần khám bệnh trong tháng 371.289 lượt người tăng 87,2% so với cùng kỳ; Tổng số người điều trị nội trú 17.607 lượt người tăng 70,6% so cùng kỳ. Công suất sử dụng giường bệnh bình quân đạt 73,8% . COVID – 19: Hiện nay toàn tỉnh đang ở trạng thái cấp độ 1 (bình thường mới), có 220 giường bệnh điều trị bệnh nhân thuộc tầng 3, trong đó Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang bố trí 100 giường, Bệnh viện Đa khoa khu vực Cai Lậy và Gò Công bố trí 50 giường/mỗi bệnh viện, Bệnh viện Lao và Bệnh phổi 20 giường. Các bệnh viện và trung tâm y tế còn lại, mỗi nơi bố trí sẵn sàng từ 50 – 100 giường bệnh điều trị bệnh nhân thuộc tầng 1 và 2 Trong tháng không ghi nhận ca nhiễm covid – 19, trong 10 tháng năm 2022 ghi nhận 11.312 ca nhiễm Covid – 19; tử vong 685 ca. 4. Hoạt động giáo dục: Kết quả thực hiện chỉ tiêu theo kế hoạch năm 2022: Trường Mầm non đạt chuẩn 57.98% (kế hoạch là 54%); Trường Tiểu học đạt chuẩn 83,23% (kế hoạch là 79%); Trường Trung hoc cơ sở đạt chuẩn 54,47% (kế hoạch là 57%); Trường trung học phổ thông đạt chuẩn 57,89% (kế hoạch là 57%); Tỉ lệ huy động nhà trẻ 14,6% (kế hoạch là 16,5%); Tỉ lệ quy động mẫu giáo 81,6% (kế hoạch là 86%). Trường đại học Tiền Giang: tuyển sinh đến ngày 11/10/2022: được 913/1.359 chỉ tiêu đạt 67% so với kế hoạch, chia ra: đại học được 780/1.159 chỉ tiêu đạt 67% so với kế hoạch, cao đẳng giáo dục mầm non được 133/200 chỉ tiêu đạt 67% so với kế hoạch. Giáo dục nghề nghiệp: tuyển sinh đến ngày 11/10/2022: Trung cấp cao đẳng: 2.505 học sinh, sinh viên đạt 81,6%, trong đó trung cấp 1.876 học sinh đạt 92,2%; Trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng: 4.297 học viên đạt 50,5% kế hoạch năm. Tổ chức coi thi lập đội tuyển chọn học sinh giỏi dự thi cấp Quốc Gia năm học 2022- 2023 vào các ngày 04, 05/10/2022. Chấm thi từ ngày 06/10 đến 08/10/2022. Kết quả chọn ra 54 học sinh dự thi cấp quốc gia các môn Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Tin học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Tiếng Anh (mỗi đội tuyển 6 học sinh), gồm học sinh các Trường THPT Chuyên (48 học sinh), Chợ Gạo (02 học sinh), Nguyễn Đình Chiểu (01 học sinh), Vĩnh Bình (01 học sinh), Vĩnh Kim (01 học sinh), Trương Định (01 học sinh). 5. Hoạt động văn hóa - thể thao: Hoạt động bảo tàng: trưng bày cố định các chuyên đề phục vụ khách tham quan tại Bảo tàng tỉnh và trưng bày cố định các chuyên đề theo tiến trình lịch sử tại các di tích trực thuộc: Khảo cổ Gò Thành, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Chiến thắng Ấp Bắc, Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút. Trong tháng 10, lượng khách tham quan đến Bảo tàng và các di tích trực thuộc là 2.986 lượt khách. Hoạt động văn hóa nghệ thuật: Tổ chức biểu diễn chương trình Dạ khúc tri âm tại rạp Thầy Năm Tú. Phục vụ 10 suất nhạc nước, tại Quảng trường Hùng Vương, thu hút hơn 1.400 lượt người xem. Hoạt động thư viện: Thực hiện 03 “Chuyến xe tri thức” và 02 cuộc Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam năm 2022 với chủ đề: “Khai trường cùng vui đọc sách” nhân dịp khai giảng năm học mới 2022-2023. Thư viện tỉnh tham gia Ban Giám khảo Hội thi "Văn hóa giao tiếp, ứng xử" trong phạm nhân năm 2022 tại Trại giam Phước Hòa và trại giam Mỹ Phước. Thư viện Tiền Giang phối hợp Tỉnh Đoàn tổ chức triển lãm sách ASEAN chào mừng Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Tiền Giang lần thứ XI, nhiệm kỳ 2022-2027. Trong tháng, Thư viện tỉnh phục vụ 10.683 lượt bạn đọc với 24.377 lượt sách, báo, tạp chí được lưu hành. Hệ thống thư viện huyện, thư viện xã đã tiếp được 37.194 lượt bạn đọc, với 85.341 lượt sách báo lưu hành. Hoạt động thể dục - thể thao: Diễn ra những hoạt động thể thao nổi bậc như Hội thi thể thao Người cao tuổi tỉnh Tiền Giang năm 2022; giải Cầu lông Công đoàn viên chức tỉnh Tiền Giang năm 2022; chương trình phát triển bơi năm 2022; Đội Vovinam tham dự Giải Vovinam đồng bằng sông Cửu Long lần thứ I từ ngày 02/10 đến ngày – 09/10/2022, kết quả đạt 10 huy chương vàng, 13 huy chương bạc, 18 huy chương đồng. 6. Trật tự an toàn giao thông: Theo báo cáo của ngành Công an Giao thông đường bộ: Tai nạn giao thông trong tháng xảy ra 29 vụ, giảm 08 vụ so tháng trước và tăng 22 vụ so cùng kỳ, làm chết 26 người, tăng 02 người so tháng trước và tăng 23 người so cùng kỳ, bị thương 16 người, giảm 04 người so tháng trước và tăng 14 người so cùng kỳ. Nâng tổng số vụ từ đầu năm đến nay 322 vụ, làm chết 230 người và bị thương 158 người. Ước thiệt hại tài sản chung trị giá khoảng 3.943 triệu đồng. Các nguyên nhân gây tai nạn giao thông như: đi không đúng phần đường, làn đường; uống rượu say; không nhường đường; chuyển hướng không đúng quy định; vượt không đảm bảo an toàn… Giao thông đường thủy:Trong tháng không xảy ra tai nạn, tương đương so tháng trước và tương đương so cùng kỳ. Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 vụ tai nạn, làm 02 người chết, không phát sinh người bị thương. 7. Tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội: (theo báo cáo ngành Công an) Tội phạm về trật tự xã hội ghi nhận 71 vụ tăng 08 vụ so với tháng 9/2022 và tháng 10/2019, làm bị thương 17 người, tài sản thiệt hại khoảng 1,4 tỷ đồng; xảy ra chủ yếu là tội phạm cố ý gây thương tích 15 vụ, cướp giật tài sản 06 vụ, hủy hoại tài sản 05 vụ và trộm cắp tài sản 32 vụ,... Khám phá 60 vụ (đạt 84,5%), bắt xử lý 83 đối tượng, thu hồi tài sản khoảng 532 triệu đồng. Cộng dồn đến tháng 10 ghi nhận 565 vụ giảm 87 vụ, giảm 13,3% so cùng kỳ năm 2019; giảm 422 vụ, giảm 42,8% so với cùng kỳ năm 2021; khám phá 447 vụ đạt 79,1%, xử lý 596 đối tượng. Phát hiện, xử lý 09 tụ điểm, 43 đối tượng cờ bạc; 09 vụ, 10 đối tượng có hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy và xử lý vi phạm hành chính 58 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; 10 vụ, 12 đối tượng vi phạm pháp luật về kinh tế. 8. Tình hình cháy nổ, môi trường: Trong tháng ghi nhận 01 vụ cháy xe ô tô đầu kéo (thành phố Mỹ Tho), thiệt hại ước tính khoảng 2,5 tỷ đồng đang điều tra nguyên nhân. Tính đến tháng 10/2022 ghi nhận 13 vụ cháy, giảm 15 vụ so cùng kỳ; ghi nhận 01 vụ nổ (thị xã Cai Lậy), làm chết 01 người đang điều tra nguyên nhân; tổng giá trị thiệt hại tài sản ước tính trên 34,8 tỷ đồng. Lĩnh vực môi trường trong tháng xảy ra 01 vụ vi phạm tăng 01 vụ vi phạm so với cùng kỳ. Nâng tổng số vụ vi phạm từ đầu năm đến nay 24 vụ giảm 13 vụ vi phạm đã xử lý. Thiên tai trong tháng xảy ra 01 vụ lốc xoáy, làm tốc mái 10 căn nhà ở huyện Tân Phú Đông, ước tổng giá trị thiệt hại là 200 triệu đồng. Tính từ đầu năm đến nay xảy ra 18 cơn lốc xoáy làm 01 căn nhà bị sập, 229 nhà bị tốc mái, 148 điểm đê sạt lở với tổng giá trị thiệt hại gần 171,7 tỷ đồng.
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang 9 tháng đầu năm 2022
- 18/06/2024 14:58
Trong nước, tình hình dịch bệnh Covid-19 cơ bản được kiểm soát nhưng số ca nhiễm vẫn còn ghi nhận do đó nguy cơ dịch bùng phát trở lại tiềm ẩn rất cao. Trong tỉnh, dịch covid - 19 cơ bản được kiểm soát; Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh tập trung chỉ đạo các ngành, các cấp kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm 2022 của tỉnh đạt được nhiều kết quả tích cực hầu hết các ngành, lĩnh vực có xu hướng phục hồi và tăng trưởng tốt. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực 9 tháng đầu năm 2022 như sau: I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ 1. Tài chính - Ngân hàng: a. Tài chính: Thu ngân sách nhà nước: 9 tháng đầu năm 2022 ước thu được 15.033 tỷ đồng; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 7.562 tỷ đồng, đạt 85,7% dự toán và tăng 15,9% so cùng kỳ; thu nội địa 7.347 tỷ đồng, đạt 86,3% dự toán, tăng 19,3% so cùng kỳ. Các khoản thu chủ yếu như sau: + Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.304 tỷ đồng, đạt 83,8% dự toán, tăng 12,6% so cùng kỳ. + Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết 1.243 tỷ đồng, đạt 80,3% dự toán, tăng 16,4% so cùng kỳ. + Thu thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh 826 tỷ đồng đạt 86,1% dự toán, tăng 16,7% so cùng kỳ. Chi ngân sách nhà nước: Tổng chi ngân sách 9 tháng đầu năm 2022 là 9.808 tỷ đồng đạt 79,8% dự toán, tăng 3,9% so cùng kỳ, trong đó: chi đầu tư phát triển 3.255 tỷ đồng, đạt 82,6% dự toán, tăng 24,2%; chi hành chính sự nghiệp 5.230 tỷ đồng, đạt 69,6% dự toán và tăng 6,6% so cùng kỳ. b. Ngân hàng: Với vai trò hỗ trợ vốn cho các thành phần kinh tế phục hồi và phát triển sản xuất, các Tổ chức tín dụng (TCTD) tập trung quyết liệt triển khai thực hiện Nghị định số 31/2022/NĐ-CP về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với các khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh và Thông tư 03/2022/TT-NHNN hướng dẫn các ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện hỗ trợ lãi suất. Đến cuối tháng 8/2022, vốn huy động đạt 86.040 tỷ, tăng 6.550 tỷ, tăng 8,24% so với cuối năm 2021; tổng dư nợ cho vay thực hiện là 82.142 tỷ đồng (tăng 10.251 tỷ) tăng 14,3% so với cuối năm 2021. Các tổ chức tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn cho 2.440 doanh nghiệp đang vay vốn với dư nợ 26.246 tỷ đồng, tăng 13,72% so với cuối năm 2021, chiếm 31,95% tổng dư nợ cho vay toàn tỉnh. Ước tính đến cuối tháng 9/2022, nguồn vốn huy động đạt 86.238 tỷ, tăng 5.749 tỷ, tăng 8,49% so với cuối năm 2021; tổng dư nợ đạt 82.230 tỷ, tăng 10.388 tỷ, tăng 14,4% so với cuối năm 2021. Nợ xấu: đến cuối tháng 8/2022 là 622,1 tỷ đồng, tỷ lệ 0,76%, giảm 0,29% so với cuối năm 2021. Ước đến cuối tháng 9/2022, nợ xấu là 614 tỷ, tỷ lệ nợ xấu 0,75%, giảm 0,30% so với cuối năm 2021. Tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp, nằm trong sự kiểm soát, có chuyển biến tích cực theo chiều hướng giảm. Quỹ tín dụng nhân dân: đến cuối 8/2022, tổng nguồn vốn huy động 1.460 tỷ đồng, tăng 205 tỷ, tăng 16,33% so với cuối năm 2021, trong đó vốn huy động tăng 17,61%, chiếm tỷ trọng 89,31% trong tổng nguồn vốn hoạt động. Dư nợ cho vay đạt 1.030 tỷ đồng, tăng 152 tỷ, tỷ lệ tăng 17,31%. Nợ xấu là 4,1 tỷ đồng, tăng 600 triệu đồng, tỷ lệ nợ xấu 0,39%, bằng với tỷ lệ nợ xấu của năm 2021. 2. Giá cả, lạm phát: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2022 giảm 0,2% so với tháng 8/2022, do giá xăng dầu trong nước điều chỉnh giảm liên tục (thành thị tăng 0,12%, nông thôn tăng 0,21%), tăng 3,47% so với cùng kỳ và tăng 2,51% so với tháng 12/2022. Bình quân chín tháng đầu năm 2022, CPI tăng 3,34% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng 8/2022, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 02 nhóm giảm: nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,17% và nhóm giao thông giảm 2,72%. Có 08 nhóm tăng: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,08% (lương thực giảm 0,16%, thực phẩm tăng 0,06%, ăn uống ngoài gia đình tăng 0,27%); đồ uống và thuốc lá tăng 0,19%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,15%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,22%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%; giáo dục tăng 0,57%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 0,12% và nhóm hàng hóa dịch vụ khác tăng 0,13%. Riêng nhóm Bưu chính viễn thông ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2022 giảm so tháng 8/2022 do: - Tỉnh vừa thu hoạch xong vụ Hè Thu, sản lượng lúa dồi dào, dẫn đến giá gạo tẻ thường giảm 0,24%, gạo tẻ ngon giảm 0,72%, gạo nếp giảm 0,4% so với tháng trước. - Giá thịt gia cầm giảm 1,18% do các trang trại chăn nuôi đồng loạt xuất chuồng, dẫn đến sản lượng thịt bày bán ở các chợ nhiều; Cùng với đó, giá trứng gia cầm các loại giảm 4,52% (trong đó trứng vịt giảm nhiều nhất là 6,07%) do qua mùa chế biến bánh Trung thu, sức mua giảm trở lại như những ngày bình thường - Giá xăng dầu liên tục giảm, dẫn đến chi phí vận chuyển hàng hóa giá giảm; mặc khác thời tiết tại tỉnh Tiền Giang đang vào mùa mưa nên không thuận lợi cho ngành xây dựng hoạt động, dẫn đến nhu cầu một số mặt vật liệu xây dựng giảm, giá bán lẻ giảm nhẹ như: sắt, thép, xi măng. - Giá gas trong nước tháng này giảm 1,87%, so với tháng 8/2022, tương ứng giảm 7.000 đồng/bình 12kg vào ngày 01/9/2022. - Giá nhiên liệu trong tháng giảm 5,73% so với tháng trước, do giá xăng dầu trong nước được điều chỉnh giảm theo giá thế giới vào ngày 05/9/2022; 12/9/2022 và ngày 21/9/2022, làm (CPI) chung trong tháng 9/2022 giảm 0,26 điểm phần trăm. Bên cạnh đó, nhiều mặt hàng có chỉ số giá tăng - Giá các loại đậu và hạt tăng 0,27%; giá rau tươi, khô và chế biến tăng 0,44%; giá quả tươi và chế biến tăng 3,28% so với tháng trước là do cuối vụ thu hoạch, sản lượng giảm, giá bán lẻ ở các chợ tăng lên. - Giá nước khoáng và đồ uống có gas tăng 0,07%, trong đó: nước quả ép trái cây tăng 1,84%, nguyên nhân là do học sinh bước vào năm học mới, nhu cầu tiêu dùng tăng, giá tăng nhẹ. Cùng với đó, giá ăn uống ngoài gia đình tăng 0,27% (trong đó: đồ uống ngoài gia đình tăng 1,06%, đồ ăn nhanh mang đi tăng 0,92%). - Giá đồ dùng học tập và văn phòng phẩm tháng này tăng 3,92% do các cấp bậc học đang bước vào năm học mới (2022-2023). Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm bình quân trong tháng giảm 2,29% so tháng trước. Hiện nay giá vàng bình quân duy trì ở mức 5.195.000 đồng/chỉ, tăng 16.000 đồng/chỉ so cùng kỳ. Chỉ số giá đô la Mỹ trong nước bình quân trong tháng tăng 0,59% so tháng trước, do Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) nâng lãi suất đồng đô la Mỹ lên 0,75 điểm phần trăm nhằm hạ nhiệt mức lạm phát tăng cao của một số quốc gia trên thế giới. Hiện nay giá bình quân Đô la Mỹ duy trì ở mức 23.665 đồng/USD, tăng 785 đồng/USD so cùng kỳ. 3. Đầu tư và Xây dựng: Vốn đầu tư toàn xã hội quý III/2022, ước thực hiện được 10.629 tỷ đồng, tăng 23,9% so cùng kỳ; trong đó: vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 6.644 tỷ đồng, chiếm 62,5%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 830 tỷ đồng, chiếm 7,8%; vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 2.066 tỷ đồng, chiếm 19,4%. Chín tháng đầu năm 2022, vốn đầu tư toàn xã hội ước thực hiện 27035 tỷ đồng, đạt 64,8% kế hoạch, tăng 10,9% so cùng kỳ; trong đó: vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 18.198 tỷ đồng, tăng 12,4%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.191 tỷ đồng, giảm 2,4%, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 4.104 tỷ đồng, tăng 43,7% so cùng kỳ.Hình 1. Vốn đầu tư phát triển trên toàn xã hội (tỷ đồng) Chín tháng đầu năm 2022, vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý là 3.351 tỷ đồng, đạt 86,5% kế hoạch, tăng 48,7% so cùng kỳ; gồm có: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 2.605 tỷ đồng, tăng 51,6%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 515 tỷ đồng, tăng 31%; vốn ngân sách nhà nước cấp Trong 09 tháng đầu năm 2022, Ban Quản lý khu công nghiệp đã cấp 05 Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tổng vốn đầu tư đăng ký 36,48 triệu USD. Điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư cho 19 dự án tăng 18,75% so với cùng kỳ, trong đó có 02 dự án điều chỉnh tăng vốn đầu tư (tổng vốn đầu tư tăng thêm 43 triệu USD). Tổng vốn đầu tư 9 tháng đầu năm là 79,5 triệu USD, đạt 99,4 kế hoạch và giảm 55,6% so với cùng kỳ, tổng diện tích đất cho thuê tăng thêm là 8,56 ha. Giá trị sản xuất ngành xây dựng (giá so sánh 2010), chín tháng đầu năm 2022 thực hiện 8.093 tỷ đồng, tăng 9,72% so cùng kỳ. Theo giá hiện hành, giá trị sản xuất ngành xây dựng 9 tháng đầu năm 2022 thực hiện 13.272 tỷ đồng, tăng 20,89% so cùng kỳ. Các ngành các cấp tiếp tục triển khai kịp thời, đồng bộ, hiệu quả Kế hoạch phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang hai năm 2022 - 2023 gắn với triển khai thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP. Hiện nay các địa phương đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, tháo gỡ vướng mắc nhằm thúc đẩy thu hút đầu tư, phát triển doanh nghiệp, gia tăng xuất khẩu và tiêu dùng để thúc đẩy tăng trưởng. 4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp: Trong 9 tháng đầu năm 2022, tiếp tục triển khai các giải pháp hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp như: tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp trong quá trình phục hồi sản xuất, kinh doanh; tổ chức Hội nghị Chủ tịch UBND tỉnh gặp gỡ tiếp xúc với các doanh nghiệp; xây dựng các Kế hoạch hỗ trợ doanh nghiệp như: hỗ trợ chuyển đổi số giai đoạn 2022-2025,hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; tổ chức Hội nghị phát triển doanh nghiệp tại một số địa phương để phổ biến các chính sách, vận động hỗ trợ hộ kinh doanh có quy mô lớn để phát triển thành doanh nghiệp; tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp trong quá trình phục hồi sản xuất, kinh doanh; triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động như: miễn, giảm thuế, phí, lệ phí; gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất... theo Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ; hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động theo Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ; triển khai thực hiện Chương trình hỗ trợ lãi suất theo NĐ 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 của Chính phủ về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2023 gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp; tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 26/7/2021 của Tỉnh ủy về lãnh đạo nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đến năm 2025 và Kế hoạch hành động số 262/KH-UBND ngày 27/8/2021 thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TT, tập trung cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh, cải cách hành chính, thúc đẩy khởi nghiệp, chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp,... Tình hình phát triển doanh nghiệp đạt kết quả tích cực, đến tháng 9/2022 số doanh nghiệp thành lập mới đã vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Theo số liệu báo cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư, tổng số doanh nghiệp thành lập mới, ước thực hiện chín tháng đầu năm 2022 là 695 doanh nghiệp; tổng vốn đăng ký 5.078 tỷ đồng tăng 3,7% so với kế hoạch phát triển doanh nghiệp năm 2022, tăng 81% về số doanh nghiệp và tăng 84% về vốn đăng ký so cùng kỳ 2021, Vốn đăng ký bình quân là 7,3 tỷ đồng/doanh nghiệp. có 749 đơn vị trực thuộc đăng ký hoạt động (161 chi nhánh, 571 địa điểm kinh doanh, 19 văn phòng đại diện), tăng 69,5% so cùng kỳ. Tính đến cuối tháng 9/2022, toàn tỉnh hiện có khoảng 6.570 doanh nghiệp hoạt động. Tổng số hộ kinh doanh thành lập mới từ ngày 01/01/2022 đến 17/9/2022 là 5.183 hộ, tăng 128% so cùng kỳ 2021; ước thực hiện 9 tháng năm 2022, số hộ kinh doanh thành lập mới là 5.300 hộ kinh doanh, tăng 130% so cùng kỳ. Lũy kế 9 tháng năm 2022 toàn tỉnh có 66.660 hộ kinh doanh đăng ký hoạt động. 5. Sản xuất nông - lâm nghiệp và thủy sản: a. Nông nghiệp * Trồng trọt: Cây lương thực có hạt trong 9 tháng năm 2022, gieo trồng 137.076 ha, đạt 109,8% kế hoạch, tăng 2,2% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch 776.451 tấn, đạt 101,3% kế hoạch, giảm 4,7% so cùng kỳ; trong đó: cây lúa gieo sạ 137.846 ha, tăng 2,3% so cùng kỳ, thu hoạch 121.450 ha, giảm 3,9% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch đạt 768.441 tấn, giảm 4,7% so cùng kỳ. - Cây lúa: Vụ Đông Xuân 2021 - 2022: chính thức gieo trồng 49.192 ha, giảm 4,8% so cùng kỳ. Diện tích gieo trồng giảm hầu hết ở các huyện, trong đó: Huyện Cái Bè giảm 950 ha, TX. Gò Công giảm 380 ha, Gò Công Đông giảm 376 ha, Cai Lậy giảm 293 ha, Gò Công Tây giảm 175 ha,.... Nguyên nhân giảm do chuyển từ diện tích trồng lúa sang làm đường và trồng cây ăn quả cho giá trị kinh tế cao như: sầu riêng, mít, thanh long, bưởi. Năng suất thu hoạch đạt 71,2 tạ/ha, tăng 0,1% so cùng kỳ (vùng lúa phía đông năng suất bình quân gần 66 tạ/ha; phía tây là 75,3 tạ/ha, cao nhất là 78,6 tạ/ha, thấp nhất là 72,9 tạ/ha). Sản lượng thu hoạch đạt 350.080 tấn, giảm 4,7% so cùng kỳ do diện tích gieo trồng giảm. Vụ Đông Xuân 2021- 2022 được triển khai thực hiện sớm hơn so cùng kỳ để né hạn mặn trong mùa khô và thời tiết thuận lợi hơn giúp cây lúa sinh trưởng, phát triển tốt, sâu bệnh ít, thời gian lúa trổ gặp thời tiết tương đối thuận lợi giúp thụ phấn và đậu hạt tốt, mưa trái mùa giúp đủ nước cung cấp cho cây lúa trong suốt quá trình sinh trưởng, phát triển nên cho năng suất cao. Vụ Hè thu (Xuân Hè + Hè Thu): Diện tích gieo trồng chính thức 72.258 ha giảm 3,3% so cùng kỳ, trong đó vụ Xuân hè 23.931 ha, Hè thu 48.327 ha. Diện tích giảm ở các huyện: TX. Gò Công 221 ha, TX Cai Lậy 76 ha, Tân Phước 48 ha, Cái Bè 1.058 ha, Cai Lậy 49 ha, Châu Thành 456 ha, Chợ Gạo 45 ha, Gò Công Tây 415 ha và Gò Công Đông 102 ha, do chuyển sang đất phi nông nghiệp và một số vùng sản xuất lúa không hiệu quả người dân chuyển sang trồng cây rau màu, cây ăn quả và nuôi trồng thủy sản đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Diện tích thu hoạch 72.258 ha, giảm 3,3% so cùng kỳ; năng suất bình quân 57,9 tạ/ha. Sản lượng thu hoạch đạt 418.361 tấn, giảm 4,8% so cùng kỳ do diện tích gieo trồng giảm và năng suất bình quân giảm 1,5% so cùng kỳ do những cơn mưa lớn vào thời điểm lúa đang trổ bông và thu hoạch nên làm ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất. Vụ Thu đông: Diện tích gieo trồng 13.396 ha, bằng 2,4 lần so cùng kỳ, diện tích gieo trồng ở các huyện như sau: TX. Gò Công 3.484 ha, Tân Phước 1.166 ha, Châu Thành 776 ha, Chợ Gạo 168 ha, Gò Công Tây 7.404 ha, Gò Công Đông 325 ha và Tân Phú Đông 75 ha. Diện tích gieo trồng tăng so với vụ Thu Đông 2021 do các huyện thị phía Đông linh hoạt gieo trồng theo điều kiện thực tế của địa phương.Hình 2. Lúa tính đến ngày 15/9/2022 - Cây ngô: Diện tích trồng trong tháng đạt 87 ha, nâng tổng diện tích gieo trồng 2.230 ha, giảm 0,3% so cùng kỳ; năng suất bình quân 36,1 tạ/ha tăng 1,2% so cùng kỳ, sản lượng 8.010 tấn tăng 1,3% so cùng kỳ. Nguyên nhân diện tích ngô giảm do đô thị hóa và một số diện tích chuyển sang trồng cây ăn quả. Diện tích ngô trồng hầu hết ở các huyện nhưng nhiều nhất là huyện Chợ Gạo 1.152 ha, chiếm 51,7% diện tích ngô toàn tỉnh. Đây cũng là địa phương có tốc độ chuyển dịch cơ cấu sản xuất từ trồng lúa sang các cây trồng khác mạnh nhất tỉnh. - Cây rau, đậu các loại: 9 tháng năm 2022 gieo trồng 51.883 ha, đạt 89,6% kế hoạch, giảm 3,6% so cùng kỳ; thu hoạch 45.943 ha, tăng 1,3% so cùng kỳ; sản lượng 948.005 tấn, đạt 81,1% kế hoạch, tăng 3,1% so cùng kỳ, trong đó diện tích gieo trồng rau các loại đạt 51.634 ha, chiếm 99,5% diện tích cây rau dậu các loại, giảm 3,6% so cùng kỳ do chuyển đổi diện tích sang trồng cây ăn quả và đất phi nông nghiệp, năng suất đạt 207 tạ/ha tăng 1,8% so cùng kỳ, sản lượng 947.496 tấn tăng 3,1% so cùng kỳ do nông hộ tăng cường ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong sản xuất, mở rộng quy mô trồng rau trong nhà lưới kiểm soát được sâu bệnh, nhiều loại giống mới được đưa vào sản xuất nên năng suất, sản lượng tăng. Chăn nuôi: Tại thời điểm 01/9/2022 tổng đàn gian súc, gia cầm của tỉnh như sau: Đàn bò hiện có 122 nghìn con, tăng 1,4% so cùng kỳ; Đàn lợn có 290 nghìn con, tăng 5,9% so cùng kỳ; Đàn gia cầm của tỉnh có 17,3 triệu con tăng 0,6% so cùng kỳ. Nguyên nhân tổng đàn bò tăng so cùng kỳ do giá cả ổn định, hộ dân tái đàn nhiều sau dịch bệnh Covid -19, bên cạnh đó một số hộ nông dân chuyển đổi canh tác từ trồng lúa sang trồng cỏ chăn nuôi bò. Chăn nuôi lợn hồi phục do dịch bệnh kiểm soát tốt, người chăn nuôi chủ động được nguồn giống và nhu cầu thị trường tăng cao; chủ yếu tổng đàn tăng ở các trang trại nuôi quy mô lớn. Chăn nuôi gia cầm tăng do thị trường tiêu thụ ổn định, giá đầu ra ở mức cao, người nuôi có lãi, sau khi thu hoạch người chăn nuôi yên tâm mở rộng quy mô đàn, trong đó đàn gà phát triển tương đối ổn định, thời gian nuôi gà ngắn, vốn đầu tư chuồng trại không cao.Hình 3. Tình hình chăn nuôi tại thời điểm 01/9/2022 Tình hình dịch bệnh:Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang, tình hình dịch bệnh trong chăn nuôi như sau: Gia cầm: Trong tháng ghi nhận 01 trường hợp gà bệnh cúm gia cầm tại xã Hậu Thành, huyện Cái Bè với số gà bệnh là 1.180 trên tổng đàn 3.300 con; đã tiêu hủy 3.300 con. Gia súc: Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi: Từ ngày 14/12/2021, trên địa bàn toàn tỉnh ghi nhận 116 hộ có lợn mắc bệnh Dịch tả lợn Châu Phi với tổng số lợn bệnh là 1.769 trên tổng đàn 4.706 con (Cái Bè; Chợ Gạo; Cai Lậy; Châu Thành; Mỹ Tho; Tân Phước; TX. Gò Công; Gò Công Đông; Gò Công Tây; Tân Phú Đông). Đối với bệnh viêm da nổi cục: Từ ngày 14/12/2021, trên địa bàn tỉnh ghi nhận bò có dấu hiệu điển hình của bệnh viêm da nổi cục 16 con bò bệnh/tổng đàn 69 con. b. Lâm nghiệp: Tổng diện tích rừng hiện có là 1.760,9 ha (Không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng), trong đó rừng phòng hộ 1.341,2 ha (huyện Gò Công Đông: 439 ha; huyện Tân Phú Đông: 846,8 ha và huyện Tân Phước: 55,4 ha); Rừng sản xuất: 419,7 ha. Trong tháng 9/2022 diện tích rừng sản xuất không khai thác, tính từ đầu năm đến nay giảm 36 ha rừng. Ngoài ra, trong tháng toàn tỉnh thực hiện trồng mới được 2,9 ngàn cây phân tán, nâng tổng số cây trồng đạt 510,5 ngàn cây các loại, giảm 38% so với cùng kỳ. Khai thác gỗ: 9 tháng đầu năm 2022 sản lượng khai thác gỗ đạt 25.694 m3 giảm 6,7% so cùng kỳ. Các loại gỗ được khai thác chủ yếu từ các loại cây như: Bạch đàn, bạch đàn cao sản, dầu gió, tràm lanh. Nguyên nhân giảm là do diện tích rừng và số lượng trồng cây qua các năm chuyển đổi sang trồng các loại cây ăn quả khác như cây khóm (dứa), mít, sầu riêng. Khai thác củi: 9 tháng năm 2022, toàn tỉnh khai thác được 103.489 Ste củi các loại giảm 4,9% so cùng kỳ. Sản lượng củi khai thác giảm do hộ dân ở các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Tân Phước, chuyển đổi cây trồng sang trồng cây ăn trái (ăn quả) như Sầu riêng, mít, khóm (dứa). c. Thủy hải sản: Diện tích nuôi thủy sản trong tháng đạt 386 ha, trong quý III/2022 đạt 1.651 ha tăng 19,1% so cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2022 đạt 15.200 ha, đạt 100,6% kế hoạch, tăng 2,9% so cùng kỳ chủ yếu là tăng diện tích nuôi tôm; trong đó: diện tích nuôi cá đạt 4.359 ha giảm 1,6% so cùng kỳ, diện tích nuôi tôm đạt 7.821 ha tăng 6,7% so cùng kỳ; diện tích nuôi thủy sản khác đạt 3.020 ha tương đương so với cùng kỳ. Sản lượng thủy sản thu hoạch trong tháng đạt 29.196 tấn, trong quý III/2022 đạt 91.952 tấn tăng 2,3% so cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2022 đạt 244.701 tấn, đạt 85,2% kế hoạch, tăng 4,3% so cùng kỳ chủ yếu tăng sản lượng nuôi trồng; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 136.027 tấn, tăng 12,2% so cùng kỳ; sản lượng khai thác 108.674 tấn, giảm 4,1% so cùng kỳ. Nguyên nhân sản lượng nuôi trồng tăng do những tháng đầu năm 2022 khi tình hình dịch Covid-19 được kiểm soát, thị trường dần ổn định, giá thủy sản ổn định và duy trì ở mức người nuôi có lãi, người dân trên địa bàn đầu tư sản xuất trở lại với kỳ vọng được mùa, được giá; Sản lượng khai thác giảm do gặp nhiều khó khăn như: thời tiết diễn biến có nhiều bất lợi (Sóng, gió mạnh, nước chảy xiết xuất hiện nhiều ở các ngư trường), thiếu thuyền viên, giá nguyên nhiên liệu tăng, đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động khai thác hải sản ngư dân. 6. Sản xuất công nghiệp: Nhìn chung tình hình sản xuất công nghiệp trong tháng 9 năm 2022 thuận lợi hơn so cùng kỳ (do năm 2021 ảnh hưởng dịch Covid-19 tỉnh Tiền Giang thực hiện Chỉ thị 15, Chỉ thị -16/TTg của Thủ tướng Chính phủ về giãn cách xã hội). Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2022 tăng 1,1 lần so cùng kỳ nhưng so tháng trước giảm 0,6%, trong đó: Công nghiệp chế biến chế tạo tăng 1,3 lần; sản xuất thiết bị điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 47,3% và cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 28,2%. Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm 2022 tăng 16,58% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 17,14% (tập trung ở một số ngành chủ yếu sau: sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 62,8%, sản xuất kim loại tăng 25,5%, dệt tăng 21,5%...); ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 12,76%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 7,31%.Hình 4. Chỉ số sản xuất công nghiệp Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 9/2022 so với tháng trước tăng 0,45%, trong đó doanh nghiệp nhà nước bằng 100%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 2,22%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,17%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 9/2022 so với cùng kỳ tăng 2,8 lần, trong đó doanh nghiệp nhà nước tăng 3,5%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 2,8 lần; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 2,9 lần. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 9 năm 2022 tăng 26,65%, trong đó doanh nghiệp nhà nước giảm 1,92%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 5,69%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 31,87%. Chia theo ngành công nghiệp: Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 9 năm 2022 tăng 26,65%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 1,68%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải giảm 12,46%. Sản phẩm sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2022: có 28/43 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 253,5%; Đồ chơi hình con vật hoặc sinh vật không phải hình người tăng 145,2%; Giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài tăng 141,6%; Áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 125,9%; Bia đóng lon tăng 91%; Tàu thuyền lớn chuyên chở người và hàng hóa có động cơ đẩy tăng 35,7%; Giày, dép thể thao có đế ngoài và mũ giày bằng cao su và plastic tăng 29,1%; Ống và ống dẫn bằng đồng tăng 25,7%; Điện thương phẩm tăng 12,8%; Nước uống được tăng 8,2%; Màn bằng vải khác tăng 5,8%; Cáp đồng trục và dây dẫn điện đồng trục tăng 1,6%;…Có 15/43 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu, thuyền giảm 93,7%; Phanh và trợ lực phanh giảm 89,5%; Dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 43,9%; Máy gặt đập liên hợp giảm 33,3%; Máy chế biến thịt gia súc hoặc gia cầm giảm 28,6%; Cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép giảm 19,9%; Thức ăn cho thủy sản giảm 18,6%; Phi lê đông lạnh giảm 8,7%; Dịch vụ thu gom rác thải không độc hại có thể tái chế giảm 3,2%;… * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: - Chỉ số tiêu thụ tháng 9/2022 so tháng trước giảm 1,25% và tăng 70,53% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 9 năm 2022 tăng 16,17%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất đồ uống tăng 42,51%; Dệt tăng 35,84%; Sản xuất da tăng 39,32%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 15,99%; Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 15,24%; Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 53,19%; Sản xuất sản phẩm cao su và plastic tăng 69,78%; Sản xuất kim loại tăng 62,71%;… Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ là: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 12,29%; Sản xuất thiết bị điện giảm 11,01%... - Chỉ số tồn kho tháng 9/2022 so với tháng trước tăng 11,91% và giảm 45,2% so với cùng kỳ. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ là: Dệt giảm 19,96%; Sản xuất trang phục giảm 92,58%; Sản xuất giấy giảm 62,94%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 25,08%; Sản xuất kim loại giảm 53,76%; … Bênh cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng so với cùng kỳ là: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 11,35%; Sản xuất da tăng 75,62%; Chế biến gỗ bằng gấp 2,1 lần; Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu bằng gấp 4,6 lần; Sản xuất thiết bị điện tăng 24,82%; Chế biến, chế tạo khác bằng gấp 2,3 lần, trong đó sản xuất đồ chơi, trò chơi bằng gấp 2,3 lần;... * Tình hình hoạt động các khu - cụm công nghiệp: Nhìn chung 9 tháng đầu năm 2022, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong các khu - cụm công nghiệp hoạt động ổn định đạt và vượt kế hoạch đề ra. - Khu công nghiệp: đến nay tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương quy hoạch 7 khu công nghiệp với tổng diện tích 2.083,5 ha; trong đó có 4 khu công nghiệp được thành lập và đi vào hoạt động. Trong 9 tháng đầu năm 2022, Ban Quản lý các khu công nghiệp cấp 05 giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới, tổng vốn đầu tư đăng ký 36,48 triệu USD, diện tích đất cho thuê là 8,56 ha. Luỹ kế đến nay các khu công nghiệp Tiền Giang đã thu hút được 109 dự án (trong đó có 81 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 2,3 tỷ USD và 4.645,9 tỷ đồng, diện tích thuê 525 ha/767,2 ha, đạt 68,4% diện tích đất công nghiệp cho thuê. - Cụm công nghiệp: trên địa bàn tỉnh có 27 cụm công nghiệp được quy hoạch; trong đó có 5 cụm công nghiệp đang hoạt động. Tổng số dự án đầu tư tại các cụm công nghiệp đến nay là 79 dự án (trong đó: có 6 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 0,2 tỷ USD và 2.306 tỷ đồng, diện tích thuê đất là 88,7 ha, tỷ lệ lắp đầy đạt 73,6%. 7. Thương mại, dịch vụ: a. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng: Chín tháng đầu năm 2022, hoạt động kinh doanh trên địa bàn tỉnh diễn ra ổn định và có xu hướng tăng hơn so cùng kỳ, lượng hàng hóa dồi dào, các đơn vị kinh doanh chủ động dự trữ hàng hóa để phục vụ nhu cầu mua sắm của người dân. Hiện tại tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuận lợi hơn so với cùng kỳ, đơn hàng tăng do các giải pháp hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đã đươc phát huy. Công tác phòng, chống dịch Covid-19 được thực hiện tốt, công tác đảm bảo ổn định về giá đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu dùng, sức mua tăng so với cùng kỳ, nhất là trong các dịp Lễ. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng quý III/2022 thực hiện 17.959 tỷ đồng, tăng 57,3% so cùng kỳ, do quý 3/2021 dịch Covid-19 bùng phát mạnh tỉnh đã thực hiện các biện pháp phòng chống dịch như: phong tỏa và giãn cách xã hội, vì vậy doanh thu của hầu hết các ngành hàng giảm mạnh. Chín tháng đầu năm 2022, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 56.024 tỷ đồng, đạt 78,9% kế hoạch, tăng 25,6% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 47.240 tỷ đồng, tăng 24,6%; lưu trú, ăn uống 3.773 tỷ đồng, tăng 30,1%; du lịch lữ hành 32 tỷ đồng, tăng 4,5 lần; dịch vụ tiêu dùng khác 4.979 tỷ đồng, tăng 31,1% so cùng kỳ.Hình 5. Doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng Hoạt động xúc tiến thương mại trong 9 tháng đầu và dự kiến 3 tháng cuối năm 2022 trên địa bàn tỉnh, + Xây dựng Kế hoạch hành động thực hiện Quyết định số 1968/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Đề án đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong hoạt động xúc tiến thương mại giai đoạn 2021-2030” và kế hoạch khung giai đoạn 2022-2025; + Tổ chức 07 lớp hội thảo và tập huấn. 02 lớp hội thảo về: Thúc đẩy xuất khẩu nông thủy sản vào thị trường Trung Quốc (110 đại biểu tham dự), Tuyên truyền phổ biến pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (50 đại biểu); 05 lớp tập huấn về: Quản lý chợ” (154 đại biểu), Hỗ trợ đào tào tư vấn kỹ năng bán hàng Việt cho doanh nghiệp hợp tác xã hộ sản xuất kinh doanh” (65 đại biểu), Quy tắc xuất xứ hàng hoá và thủ tục chứng nhận xuất xứ hàng hoá trong Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), Tổng quan về thương mại điện tử và đẩy mạnh việc sử dụng các giải pháp số trong thương mại điện tử trên địa bàn tỉnh Tiền Giang (80 đại biểu), Chuyển đổi số - Kinh tế số hiệu quả năm 2022 (145 đại biểu) và 01 Hội nghị kết nối cung cầu hàng hóa tỉnh Tiền Giang năm 2022 (100 đại biểu). + Hoàn thành tổ chức 04 Điểm bán hàng Việt Nam năm 2022 từ ngân sách tỉnh (65 triệu đồng): Cửa hàng Bách hóa Tân Mỹ Chánh tại Cụm Công nghiệp Tân Mỹ Chánh, phường 9, thành phố Mỹ Tho; Cửa hàng Bách hóa Chợ Cũ tại đường Học Lạc, phường 8, thành phố Mỹ Tho; Trung tâm Bách hóa Dưỡng Điềm tại xã Dưỡng Điềm, huyện Châu Thành; Cửa hàng Bách hóa Út Hường tại Ấp Lợi Nhơn, xã Mỹ Lợi B, huyện Cái Bè. + Thông báo đến các doanh nghiệp: tạm dừng thông quan hàng hóa qua cửa khẩu Bắc Luân II (Móng Cái, Quảng Ninh); hạn chế việc đưa hàng nông, thủy sản ra xuất khẩu qua các lối mở biên giới của tỉnh Quảng Ninh; thông quan hàng hoá tại các lối mở biên giới của tỉnh Quảng Ninh; thông tin về tình hình xuất, nhập khẩu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn;… (thời điểm quý 1/2022 khi Trung Quốc thực hiện giãn cách và phong tỏa để phòng chống dịch Covid-19). + Xây dựng Kế hoạch “Tổ chức tháng khuyến mãi tập trung quốc gia 2022 - Vietnam Grand Sale 2022 ” trên địa bàn tỉnh Tiền Giang (từ ngày 15/11/2022 đến ngày 22/12/2022). b. Xuất - Nhập khẩu: * Xuất khẩu: Trong bối cảnh cuộc chiến giữa Nga và Ukraine đang căng thẳng, chuỗi cung ứng toàn cầu đang bị đứt đoạn thì đồng Euro mất giá làm cho hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt hơn, chi phí cao, tạo thêm gánh nặng cho các gia đình và các doanh nghiệp tại châu Âu… Đó là những đối tượng đang chịu tác động lớn bởi lạm phát tăng cao. Như vậy trong thời gian tới, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ càng khó khăn khi xuất khẩu sang châu Âu. Trong diễn biến thay đổi liên tục những ngày qua, có thời điểm đồng Euro đã rơi xuống mức chưa đổi được 1 USD. Giá năng lượng cao và lạm phát kỷ lục là nguyên nhân cho những dự đoán khó khăn cho việc việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 9 tháng đầu năm 2022 ước 2.947,4 triệu USD, đạt 88% kế hoạch, tăng 27,3% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 527,2 triệu USD, tăng 33,1%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2.415 triệu USD, tăng 28,2% và kinh tế nhà nước 5,2 triệu USD, giảm 85,4% so cùng kỳ. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh trong 9 tháng đầu năm 2022 như sau: - Thủy sản: ước xuất 81.856 tấn, tăng 16,1% so cùng kỳ với giá trị xuất 281,9 triệu USD, đạt 88,1% kế hoạch, tăng 86,1% so cùng kỳ. Mỹ được xem là một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, nhưng vẫn còn nhiều rào cản để các doanh nghiệp Việt tăng thêm kim ngạch xuất khẩu; để chuẩn bị cho việc xuất khẩu cá tra sang Mỹ những tháng tới các doanh nghiệp vẫn đang cập nhật danh sách các nhà máy của công ty để chờ phía Mỹ xác nhận trước khi xuất khẩu, đây có thể là bước cuối sau 3 năm làm các thủ tục pháp lý, chuẩn bị cho việc đưa hàng vào thị trường lớn nhưng khó tính này do cách tính thuế hồi tố của Mỹ rất khắt khe nhằm chống bán phá giá. Chẳng hạn, khi được phép xuất khẩu sang thị trường Mỹ, doanh nghiệp được hưởng thuế suất 0%. Tuy nhiên bán phá giá sẽ đánh thuế suất từ 30-40%. Đây chính là điều mà các doanh nghiệp đang lo ngại. - Gạo: ước xuất 73.163 tấn, giảm 57,6% so cùng kỳ; với giá trị 36,3 triệu USD, đạt 25,9% kế hoạch, giảm 59,1% so cùng kỳ. Ngày 8/9/2022, Ấn Độ chính thức ban hành lệnh cấm tấm và áp thuế 20% đối với các loại gạo xuất khẩu. Mức thuế mới này có thể các nhà nhập khẩu "rời" Ấn Độ và chuyển hướng sang các đối thủ như Thái Lan, Việt Nam và những quốc gia đang gặp khó khăn trong việc tăng lượng xuất khẩu và tăng giá. Không chỉ Ấn Độ mà hiện nay nguồn cung gạo tại nhiều nước xuất khẩu gạo đang suy giảm, do đó, việc áp thuế 20% với gạo xuất khẩu sẽ mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam. Sản lượng giảm, giá gạo tại nhiều nước tăng cao, để dự trữ và hạ nhiệt giá nội địa, nhiều quốc gia lên kế hoạch nhập khẩu gạo. Đây là cơ hội lớn để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo qua các thị trường này trong thời gian tới. Tuy nhiên, về mặt đơn hàng, Việt Nam sẽ không được hưởng lợi nhiều. Nguyên nhân là do chi phí vận chuyển của Việt Nam đi các thị trường của gạo Ấn Độ rất cao. - Hàng dệt, may: ước xuất 62.970 ngàn sản phẩm, giảm 35,9%; trị giá xuất 416,2 triệu USD, đạt 69,4% kế hoạch, tăng 17,2% so cùng kỳ. Tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may 9 tháng đầu năm 2022 khá thuận lợi. Đơn hàng dồi dào, lực lượng lao động dần ổn định sau khi Việt Nam triển khai tiêm vaccine thần tốc và chuyển sang trạng thái bình thường mới, thích ứng linh hoạt với dịch Covid-19. Ngành dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với thách thức lớn, đó là Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan… vẫn đang áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt chống dịch và ảnh hưởng không nhỏ đến chuỗi cung ứng nguyên, phụ liệu và tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh đó, kinh tế khó khăn và tỷ lệ lạm phát tăng cao tại các thị trường tiêu thụ lớn như Mỹ, châu Âu… làm cho sức mua các mặt hàng tiêu dùng, trong đó có hàng dệt may, giảm đáng kể, ảnh hưởng đến đơn hàng và đơn giá của các doanh nghiệp dệt may từ nay đến cuối năm 2022, nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng thiếu đơn hàng. Căng thẳng Nga - Ukraine vẫn đang diễn biến phức tạp, chưa có hồi kết ảnh hưởng đến một số thị trường của dệt may Việt Nam như tại Nga, Ukraine và các nước khác trong khu vực. - Kim loại thường và sản phẩm (kể cả đồng): ước xuất 67.008 tấn, tăng 15,4%; trị giá xuất 706,5 triệu USD, tăng 30,6% so cùng kỳ. b. Nhập khẩu: Với các doanh nghiệp, việc đơn hàng nhiều là tín hiệu hết sức tích cực, tuy nhiên chi phí đầu vào như logistics, nguyên phụ liệu, xăng dầu… liên tục tăng đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của họ. Dù chi phí tăng cao nhưng giá bán sản phẩm không tăng hoặc nếu tăng cũng không thể theo được tốc độ tăng của nguyên liệu đầu vào đây là cái khó của doanh nghiệp. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 9 tháng đầu năm 2022 thực hiện 1.771 triệu USD, đạt 93,2% kế hoạch, tăng 30,1% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 94 triệu USD, tăng 9,5%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.677 triệu USD, tăng 31,4% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng như kim loại thường khác 687 triệu USD, tăng 40,5%; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 304 triệu USD, tăng 32,3%; chất dẻo nguyên liệu 94 triệu USD, tăng 11%; vải các loại 154 triệu USD, giảm 2,4%,... so cùng kỳ. c. Vận tải: Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải quý III/2022 thực hiện 609 tỷ đồng, tăng 1,2 lần so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 153 tỷ đồng, tăng 5,1 lần so cùng kỳ; vận tải hàng hóa thực hiện 394 tỷ đồng, tăng 87,3% so cùng kỳ. Vận tải đường bộ thực hiện 285 tỷ đồng, tăng 2,2 lần; vận tải đường thủy thực hiện 262 tỷ đồng, tăng 79,2%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 62 tỷ đồng, tăng 64,7% so cùng kỳ. Chín tháng đầu năm 2022, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải thực hiện 1.622 tỷ đồng, tăng 34,1% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 411 tỷ đồng, tăng 42,4% so cùng kỳ; vận tải hàng hóa thực hiện 1.047 tỷ đồng, tăng 32,8% so cùng kỳ. Vận tải đường bộ thực hiện 753 tỷ đồng, tăng 34,9%; vận tải đường thủy thực hiện 702 tỷ đồng, tăng 35,9%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 167 tỷ đồng, giảm 24,1% so cùng kỳ. Vận chuyển hành khách chín tháng đầu năm 2022 đạt 24.550 ngàn hành khách, tăng 41,8% và luân chuyển 427.181 ngàn hành khách.km, tăng 39,4% so cùng kỳ, Trong đó: vận chuyển đường bộ 11.460 ngàn hành khách, tăng 44,3% và luân chuyển 409.943 ngàn hành khách.km, tăng 39,4% so cùng kỳ; vận chuyển đường thủy 13.090 ngàn hành khách, tăng 39,6% và luân chuyển 17.238 ngàn hành khách.km, tăng 39,4% so cùng kỳ. Vận tải hàng hóa chín tháng đầu năm 2022 đạt 11.068 ngàn tấn, tăng 33,1% và luân chuyển 1.310.993 ngàn tấn.km, tăng 34,2% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ thực hiện 2.333 ngàn tấn, tăng 32,2% và luân chuyển được 243.843 ngàn tấn.km, tăng 30,5% so cùng kỳ; vận tải đường thủy thực hiện 7.735 ngàn tấn, tăng 33,4% và luân chuyển 1.067.150 ngàn tấn.km, tăng 35,1% so cùng kỳ. Hiện nay hầu hết các hoạt động vận tải đã trở lại bình thường doanh thu tăng cao hơn so cùng kỳ. * Phương tiện giao thông: trong tháng đăng ký mới 3.791 chiếc mô tô xe máy, 340 chiếc ô tô, 07 chiếc xe đạp điện và xe khác 20 chiếc. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.417.414 chiếc, trong đó mô tô xe máy: 1.370.997 chiếc, 45.424 xe ô tô, 153 xe ba bánh, 307 xe đạp điện và 533 xe khác. d. Du lịch: Từ đầu năm 2022, tỉnh đã ban hành Phương án mở cửa du lịch trong điều kiện bình thường mới trên phương châm "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19". Lượng khách du lịch trong 9 tháng đầu năm hồi phục và khởi sắc. Chín tháng đầu năm 2022, lượng khách du lịch đến tỉnh 542,7 ngàn lượt, đạt 60,3% kế hoạch, tăng 1,1 lần so cùng kỳ; trong đó khách quốc tế 14 ngàn lượt, tăng 2,8 lần so cùng kỳ. Doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 3.805 tỷ đồng, tăng 30,9% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm 99,1%. e. Bưu chính - Viễn thông: Doanh thu tháng 9 đạt 276 tỷ đồng, tăng 0,6% so tháng trước và tăng 3,9% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính 29 tỷ đồng, tăng 4,5% so tháng trước và tăng 15,1% so cùng kỳ; viễn thông 246 tỷ đồng, tăng 0,1% so tháng trước và tăng 2,7% so cùng kỳ. Cộng dồn 9 tháng doanh thu 2.449 tỷ đồng, đạt 84,8% so kế hoạch và tăng 3,2% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính 243 tỷ đồng, tăng 13,9% so cùng kỳ và đạt 97,7% so kế hoạch, doanh thu viễn thông 2.206 tỷ đồng, tăng 2,2% so cùng kỳ và đạt 83,6% so kế hoạch. Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng ước tính đến cuối tháng 9 năm 2022 là 120.854 thuê bao, mật độ bình quân đạt 6,8 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây từ đầu năm 2022 đến nay tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa và giá cước điện thoại ngày càng giảm cho nên khách hàng dần chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Chín tháng đầu năm 2022 số thuê bao internet phát triển 12.710 thuê bao, trong đó ADSL giảm 76 thuê bao và thuê bao FTTH tăng 12.786 thuê bao. Tổng số thuê bao internet trên mạng ước tính đến tháng 9 năm 2022 là 331.411 thuê bao, mật độ internet bình quân ước đạt 18,7 thuê bao/100 dân. Thuê bao điện thoại phát triển trong tháng tăng nhẹ so tháng trước. Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng ước đến cuối tháng 9 năm 2022 là 120.854 thuê bao. Thuê bao điện thoại bình quân đạt 6,82 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Lao động, giải quyết việc làm: Trong 9 tháng năm 2022, tư vấn nghề, việc làm, pháp luật lao động và tư vấn khác cho 22.617 lượt lao động, tăng 21% so cùng kỳ; giới thiệu việc làm cho 2.396 lượt lao động, tăng 19% so với cùng kỳ; đã giới thiệu cho 835 lao động có được việc làm ổn định, tăng 10,7% so cùng kỳ. Tư vấn cho 919 lượt lao động có nguyện vọng làm việc ở nước ngoài, tăng 63,5% so cùng kỳ; có 19 lao động đăng ký tham gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, giảm 17,4% so cùng kỳ; có 333 lao động xuất cảnh chính thức (sang Nhật Bản 293 người, Hàn Quốc 01 người, Đài Loan 37 người và thị trường khác 02 người), tăng 132,9% so cùng kỳ. Ghi nhận 16.795 người người lao động đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp, tăng 47,2% so cùng kỳ; 16.304 người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp, tăng 21,1% so cùng kỳ với tổng số tiền chi trả 314,7 tỷ đồng. Tình hình thiếu việc làm, thất nghiệp: Kết quả sơ bộ điều tra lao động việc làm chọn mẫu quý III/2022 cho thấy, lao động thiếu việc làm của tỉnh chiếm tỷ lệ 7,0% trên tổng số lao động đang làm việc, tăng 3,2 điểm phần trăm so quý trước và giảm 9,2 điểm phần trăm so cùng kỳ (từ 16,2% năm 2021 xuống 7,0% năm 2022), đã làm cho tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị tăng 0,7 điểm phần trăm so quý trước và giảm 10,4 điểm phần trăm so cùng kỳ (từ 18,8% năm 2021 xuống 8,5% năm 2022). Đối với khu vực nông thôn tỷ lệ thiếu việc làm tăng 4,1 điểm phân trăm so quý trước và giảm 8,8 điểm phần trăm so với cùng kỳ (từ 15,2% năm 2021 xuống 6,4% năm 2022). Tình trạng thiếu việc làm quý III năm 2022 chủ yếu ở khu vực nông thôn (chiếm 64,7% trong tổng số lao động thiếu việc làm của tỉnh). Tỷ lệ lao động thất nghiệp trong quý III năm 2022 là 1,4% tăng 0,4 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 13,1 điểm phần trăm so cùng kỳ (từ 14,5% năm 2021 xuống 1,4% năm 2022), làm cho tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị tăng 1,5 điểm phần trăm so quý trước và giảm 15,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ (từ 18,6% năm 2021 xuống 3,0% năm 2022). Vì vậy, làm cho tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn tăng 0,1 điểm phần trăm so quý trước và giảm 11,9 điểm phần trăm so cùng kỳ (từ 12,7% năm 2021 xuống 0,8% năm 2022). Tỷ trọng thất nghiệp ở khu vực thành thị chiếm 62,5% và tỷ trọng số lao động thất nghiệp khu vực thành thị trong quý III năm 2022 tăng 23,9 điểm phần trăm so cùng kỳ. Trong 9 tháng năm 2022, tỷ lệ lao động thiếu việc làm chiếm 5,1%, giảm 2,3 điểm phần trăm so cùng kỳ (từ 7,4% xuống 5,1%), đã làm cho tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị giảm 1,0 điểm phần trăm (từ 9,2% xuống 8,2%) và tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn giảm 2,7 điểm phần trăm (từ 6,6% xuống 3,9%). Tình hình tỷ lệ thất nghiệp 9 tháng năm 2022 giảm 4,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ (từ 5,6% xuống 1,4%) đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị giảm 4,4 điểm phần trăm (từ 7,3% xuống 2,9%) và tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn giảm 4,0 điểm phần trăm (từ 4,8% năm 2021 xuống 0,8% năm 2022). Do đó đã làm cho tỷ trọng thất nghiệp ở khu vực thành thị chiếm 60,3% so với tổng số lao động thất nghiệp của toàn tỉnh. Nhìn chung, tỷ lệ số lao động thiếu việc làm, tỷ lệ thất nghiệp trong quý III và 9 tháng đầu năm 2022 đều giảm so cùng kỳ, nhưng tỷ trọng số lao động thiếu việc làm và thất nghiệp khu vực thành thị quý III và 9 tháng năm 2022 tăng so với quý III và 9 tháng năm 2021. Lý do đa số lao động làm việc ở khu vực thành thị bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nên đã về quê sinh sống, làm cho số lao động thiếu việc làm và thất nghiệp của khu vực nông thôn trong quý III, 9 tháng đầu năm 2021 tăng cao. Hiện nay, tình hình dịch bệnh đã được kiểm soát tốt nên người lao động quay trở lại khu vực thành thị để tiếp tục làm việc. vì vậy tỷ trọng lao động thiếu việc làm và thất nghiệp khu vực thành thị tăng trở lại. 2. Đời sống dân cư và an sinh xã hội: Theo Nghị quyết số 28/2021/NQ-HĐND ngày 08/12/2021 của Hội đồng nhân dân tỉnh, quy định mức hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở cho người có công và thân nhân người có công với cách mạng trên địa bàn tỉnh với tổng số nhà phê duyệt 1.209 căn (xây mới: 325 căn, sửa chữa: 884 căn), giai đoạn 2022-2025. Riêng năm 2022, thực hiện là 387 căn (xây mới: 115 căn; sửa chữa: 272 căn). Ngoài ra, thực hiện bàn giao 11 căn nhà tình nghĩa kinh phí từ nguồn Quỹ Đền ơn đáp nghĩa tỉnh hỗ trợ, với mức kinh phí 60 triệu đồng/căn (trong đó: Quỹ Đền ơn đáp nghĩa tỉnh hỗ trợ 50 triệu đồng/căn; từ nguồn Quỹ Đền ơn đáp nghĩa của địa phương hỗ trợ 10 triệu đồng/căn). 3. Hoạt động giáo dục: Trong 9 tháng năm 2022, trong lĩnh vực Giáo dục và Đào tạo đã có một số điểm nổi bậc sau: Hướng dẫn tổ chức Kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp huyện THCS vào ngày 15/02/2022 với 3.086 thí sinh dự thi. Kết quả đạt 1.274 giải, trong đó có 84 giải nhất, 189 giải nhì, 364 giải ba và 637 giải khuyến khích. Tổ chức coi và chấm thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh THCS khóa ngày 22/3/2022 với 882 thí sinh dự thi tại 03 Hội đồng coi thi THCS Đoàn Thị Nghiệp, THCS Lê Ngọc Hân và THCS Nguyễn Đắc Thắng. Kết quả đạt 432 giải, trong đó có 37 giải nhất, 91 giải nhì, 114 giải ba và 190 giải khuyến khích. Tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh THPT khóa ngày 22/02/2022 tại 03 Hội đồng thi THPT Nguyễn Đình Chiểu, THPT Vĩnh Bình và THPT Đốc Binh Kiều (ra đề thi cách ly từ ngày 19/02/2022 đến 22/02/2022 tại Nhà khách Công an tỉnh, coi thi vào ngày 22/02/2022, chấm thi từ ngày 23/02/2022 tại Trường THPT Chuyên). Tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia (HSG) THPT năm học 2021-2022 từ ngày 02 đến ngày 05/3/2022 tại trường THPT Chuyên Tiền Giang với 54 thí sinh dự thi ở 09 môn Ngữ văn, Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Lịch sử, Địa lý, Tin học, Tiếng Anh. Tiếp các đoàn coi thi chọn HSG quốc gia THPT năm học 2021-2022 tại tỉnh Tiền Giang theo phân công của Bộ GDĐT. Kết quả: Tiền Giang đạt 09 giải gồm 01 giải Nhì (môn Sinh học), 02 giải Ba (môn Ngữ Văn), 06 giải Khuyến khích (Môn Sinh học, Hóa học, Tiếng Anh, Toán). Xếp hạng 6/13 các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long, hạng 55/70 đơn vị đăng ký dự thi toàn quốc. Tổ chức coi thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2022 khóa ngày 7,8/7/2022. Có 15.074 đăng ký dự thi (giảm 1.349 thí sinh so với năm 2021), được bố trí 30 điểm thi với 654 phòng thi, 19 phòng chờ. Trong đó, tổng số thí sinh GDPT là 14.588, thí sinh GDTX là 486; Tổng số thí sinh tự do là 430 (hệ GDPT là 397, hệ GDTX là 33). Hướng dẫn xét tốt nghiệp THCS năm 2022; Tổ chức thi tuyển sinh lớp 10 năm học 2022 – 2023 vào các ngày 16, 17, 18/6/2022. Tổ chức thi và xét tốt nghiệp THPT vào 02 ngày 17, 18/7/2022. 4. Hoạt động y tế: Trong 9 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh ghi nhận 14/44 bệnh truyền nhiễm. So với cùng kỳ có 06 bệnh tăng (Liên cầu lợn ở người, sốt xuất huyết, tay chân miệng, viêm não siêu vi B, Tiêu chảy, viêm gan do vi rút khác); 08 bệnh giảm (Sởi, lao phổi, thương hàn, uốn ván khác, viêm não vi rút khác, Quai bị, thủy đậu, Covid-19); 31 bệnh tương đương và hoặc không xảy ra. Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết: 9 tháng đầu năm ghi nhận 5.351 ca mắc, tăng hơn 2 lần so với cùng kỳ, 04 trường hợp tử vong; Phòng chống HIV/AIDS: toàn tỉnh có 6.321 người nhiễm HIV, 1.819 người chuyển sang AIDS, 1.256 người tử vong do AIDS; An toàn thực phẩm: không ghi nhận ngộ độc thực phẩm xảy ra trên đại bàn. Tình hình khám chữa bệnh trong 9 tháng năm 2022: Tổng số lần khám bệnh 2.723.688 giảm 8,7% so cùng kỳ; Tổng số người điều trị nội trú 122.424 lượt người giảm 11,6% so cùng kỳ; Công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong 9 tháng đạt 59%. COVID-19: Sở Y tế đã ban hành Kế hoạch số 4360/KH-SYT ngày 26/7/2022 nhằm tổ chức lại cơ cấu giường bệnh tại các tầng điều trị, đặc biệt là 220 giường bệnh điều trị bệnh nhân thuộc tầng 3; trong đó Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang bố trí 100 giường; Bệnh viện Đa khoa khu vực Cai Lậy và Gò Công bố trí 50 giường/bệnh viện; Bệnh viện Lao và Bệnh phổi 20 giường. Các bệnh viện và trung tâm y tế còn lại, mỗi nơi bố trí sẵn sàng từ 50 – 100 giường bệnh điều trị bệnh nhân thuộc tầng 1 và 2. Công tác tiêm chủng: Tính đến ngày 15/9/2022, tiêm được 4.967.066 liều cho người từ 5 tuổi trở lên không bao gồm các trường hợp tiêm tại các điểm tiêm ngoài tỉnh: + Người từ 18 tuổi trở lên: 4.242.214 liều (Mũi 1: 100%; Mũi 2: 97,6%; Mũi bổ sung: 8,1%; Mũi 3: 78,6%; Mũi 4: 46,7%). + Trẻ em từ 12 đến dưới 18 tuổi: 436.685 liều (Mũi 1: 107,8%; Mũi 2: 104,7%; Mũi 3: 76,8%). + Trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi: 288.167 liều (Mũi 1: 96,9%; Mũi 2: 80,8%). Từ ngày 16/12/2021 đến 15/9/2022 trên địa bàn tỉnh ghi nhận 2.480 ca nhiễm Covid – 19; tử vong 290 ca. 5. Hoạt động văn hóa - thể thao: Toàn tỉnh có 439.637/464.764 hộ đạt 3 tiêu chuẩn Gia đình văn hóa, đạt 94,6%; 1.005/1.005 ấp (khu phố) văn hóa, đạt 100%; 163/172 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới/phường/thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị; 65 chợ văn hóa; 17 công viên văn hóa; 824 con đường văn hóa, 543 cơ sở thờ tự văn hóa. Hoạt động văn hóa nghệ thuật: Tham gia hội thi Múa không chuyên toàn quốc năm 2022 tại An Giang; kết quả đạt 01 huy chương vàng, 02 huy chương bạc, đạt huy chương vàng toàn đoàn, xếp thứ 10/27 đoàn tham gia. Tham gia Hội diễn Tiếng hát hẹn hò 9 dòng sông năm 2022 tại Bến Tre, đạt 01 huy chương vàng và 02 huy chương bạc tiết mục. Thực hiện 98 cuộc buổi biểu diễn tuyên truyền các ngày lễ lớn và phục vụ Nhân dân tỉnh nhà; 109 xuất nhạc nước tại quảng trường Hùng Vương. Hoạt động thư viện: Trong 9 tháng năm 2022, Thư viện tỉnh phục vụ được 61.520 lượt bạn đọc với 234.827 lượt sách lưu hành, tổ chức Hội báo xuân Nhâm Dần năm 2022 tại Thư viện tỉnh. Hệ thống thư viện huyện và các phòng đọc cơ sở đã tiếp được 74.633 lượt bạn đọc với 216.029 lượt sách báo lưu hành. Hoạt động bảo tàng: Tổ chức Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương năm 2022; kết hợp kết hợp trao Quyết định của Thủ tướng Chính phủ công nhận bảo vật quốc gia đối với 18 hiện vật vàng lá chạm khắc hình voi văn hóa Óc Eo và Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh đối với nhà trung bày số 1- Bảo tàng tỉnh. Thực hiện trưng bày cố định các chuyên đề phục vụ khách tham quan tại Bảo tàng và tại các di tích Rạch Gầm - Xoài Mút, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Ấp Bắc, Óc Eo Gò Thành và Đền thờ Trương Định - Gia Thuận. Trong 9 tháng đầu năm năm 2022, Bảo tàng tỉnh và các di tích trực thuộc đã đón hơn 25.572 lượt khách tham quan; sưu tầm 137 hiện vật, hình ảnh quý. Hoạt động thể dục, thể thao: Tổ chức khánh thành và đưa vào khai thác Khu thể thao dưới nước; Tổ chức thành công Lễ Khai mạc, Bế mạc Đại hội Thể dục - Thể thao tỉnh Tiền Giang lần thứ IX năm 2022; chuẩn bị lực lượng tham gia Đại hội Thể dục - Thể thao toàn quốc vào tháng 12 năm 2022. Cấp tỉnh tổ chức 03 giải Quốc gia, mở rộng (Giải vô địch Boxing các đội mạnh toàn quốc; Giải Bóng bàn Trẻ, Thiếu niên, Nhi đồng toàn quốc Khu vực miền Đông Nam Bộ và miền Tây lần thứ 3 năm 2022 và giải Bóng bàn tỉnh Tiền Giang mở rộng lần thứ VIII năm 2022 – Tranh Cúp SANWEI); 11 giải thể thao cấp tỉnh, liên tịch và 03 lớp tập huấn, bồi dưỡng. Trong 9 tháng năm 2022, tham gia 51 Giải với tổng số huy chương các môn đạt được: 61 HCV, 67 HCB, 94 HCĐ; trong đó Giải Cúp CLB, các đội mạnh (10 giải): đạt 12 HCV, 26 HCB, 30 HCĐ; Giải Vô địch toàn quốc (13 giải): đạt 6 HCV, 9 HCB, 13 HCĐ; Giải Trẻ, Thiếu niên toàn quốc (19 giải): đạt 31 HCV, 20 HCB, 40 HCĐ; Giải Mở rộng (03 giải): đạt 9 HCV, 9 HCB, 8 HCĐ; Giải Quốc tế (06 giải): đạt 3 HCV, 3 HCB, 3 HCĐ; Ngoài ra, vận động viên Taekwondo Phạm Minh Bảo Kha được Tổng cục thể dục thể thao cử tham gia đoàn thể thao Việt Nam tham dự Saegames 31 tại Hà Nội, Kết quả đạt 01 HCB hạng cân dưới 80kg. 6. Trật tự an toàn giao thông (theo báo cáo của ngành Công an): Giao thông đường bộ: Tai nạn giao thông trong tháng xảy ra 37 vụ tăng 12 vụ so tháng trước và tăng 28 vụ so cùng kỳ, làm chết 24 người tăng 09 người so tháng trước và tăng 18 so cùng kỳ, bị thương 20 người tăng 04 người so tháng trước và tăng 13 người so cùng kỳ. Nâng tổng số vụ từ đầu năm đến nay 293 vụ, làm chết 204 người và bị thương 142 người. Các nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông chủ yếu vẫn do ý thức chấp hành Luật giao thông đường bộ của người tham gia giao thông như: điều khiển xe khi có rượu bia, phóng nhanh vược ẩu, không làm chủ tốc độ; không đi đúng phần đường, làn đường; không nhường đường, vượt đèn đỏ, thiếu quan sát… Giao thông đường thủy: Trong tháng không xảy nâng tổng số vụ từ đầu năm đến nay 03 vụ, làm chết 02 người, không có người bị thương. 7. Tình hình an ninh trật tự an toàn xã hội (theo báo cáo ngành Công an): Tội phạm về trật tự xã hội ghi nhận 494 vụ giảm 98 vụ so cùng kỳ năm 2019, giảm 441 vụ so với cùng kỳ năm 2021, làm chết 19 người, bị thương 82 người, tài sản thiệt hại khoảng 10,9 tỷ đồng. Khám phá 364 vụ (đạt 73,7%), bắt xử lý 498 đối tượng, thu hồi tài sản khoảng 2,5 tỷ đồng. Phát hiện 83 vụ, 103 đối tượng có hành vi tàng trữ, mua bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và xử lý vi phạm hành chính 519 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; 75 trường hợp phạm tội, vi phạm pháp luật về trật tự quản lý kinh tế; Tệ nạn xã hội: phát hiện, xử lý 258 tụ điểm, 1.631 đối tượng cờ bạc, mại dâm. 8. Tình hình cháy nổ, môi trường và thiên tai: Trong 9 tháng năm 2022, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 12 vụ cháy, giảm 15 vụ so cùng kỳ, thiệt hại ước tính khoảng 32,3 tỷ đồng. Lĩnh vực môi trường: trong tháng, xảy ra 11 vụ vi phạm với tổng số tiền xử phạt trên 105 triệu đồng; tăng 11 vụ so với tháng trước; tăng 10 vụ so cùng kỳ. Nâng tổng số vụ từ đầu năm đến nay là 23 vụ, giảm 14 vụ so cùng kỳ, với số tiền phạt gần 1,9 tỷ đồng. Thiên tai: Trong tháng xảy ra 02 vụ lốc xoáy làm tốc mái 04 căn nhà (huyện: Chợ Gạo: 03 căn và huyện Cai Lậy: 01 căn) và 93 điểm đê bị sạt lở trên địa bàn huyện Cái Bè, huyện Cai Lậy, thị xã Cai Lậy và huyện Châu Thành với giá trị thiệt hại là 69 tỷ đồng. Tính chung 9 tháng năm 2022 ghi nhận 17 cơn lốc xoáy, 01 căn nhà bị sập, 219 căn nhà bị tốc mái, 148 điểm đê bị sạt lở với tổng giá trị thiệt hại trên 171 tỷ đồng. III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI QUÝ IV NĂM 2022 Để đảm bảo thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo kế hoạch năm 2022, trong quý IV/2022 cần có sự nỗ lực, quyết liệt hơn nữa của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh trong lãnh và chỉ đạo, các ngành, các cấp, địa phương chủ động đề ra các giải pháp, vượt qua khó khăn, thách thức, khai thác tốt những cơ hội để phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm cần thực hiện như sau: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TU của Tỉnh ủy về “phát triển kinh tế - đô thị 03 vùng của tỉnh Tiền Giang đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030”, Quyết định số 1090/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang về việc “phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch phát triển thương mại tỉnh Tiền Giang đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”. Tích cực tìm kiếm, mở rộng thị trường, gặp gỡ, tìm hiểu, tháo gỡ kịp thời các vướng mắc của doanh nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi trong cung cấp nguyên liệu đầu vào ổn định để tăng cường sản xuất. Tích cực theo dỏi giám sát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị tác động bởi dịch Covid -19. Tháo dỡ rào cản khó khăn, phục hồi các ngành bị tác động bởi dịch Covid -19. Kiểm soát giá cả trên địa bàn thông qua các chương trình bình ổn giá của tỉnh, tăng cường kiểm tra giám sát và xử lý sai phạm pháp luật về giá. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, nhằm thu hút nhà đầu tư FDI lớn, chú trọng cải cách chỉ số PCI, PAR InDex; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong tất cả các hoạt động hành chính của cơ quan nhà nước, nhất là những nơi thực hiện dịch vụ hành chính công, xem đây là nhiệm vụ cấp bách, từ đó thay đổi tư duy quản lý, phương pháp quản trị điều hành trong toàn xã hội Đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình trên địa bàn tỉnh; kiểm tra, giám sát trong quá trình thực hiện, nhằm đảm bảo tiến độ và hiệu quả theo kế hoạch đề ra. Tiếp tục phối hợp nhà đầu tư xử lý những khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh các giải pháp bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, hoàn thành công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu. Tiếp tục phát triển xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế; chuyển dần sang xuất khẩu sản phẩm chế biến sâu, phát triển xuất khẩu sản phẩm có chất lượng cao, có sức cạnh tranh và có thương hiệu mạnh. Tiếp tục thực hiện các giải pháp phòng, chống dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi; tăng cường công tác kiểm tra hoạt động giết mổ, kinh doanh, vận chuyển gia súc, gia cầm, sản phẩm gia súc, gia cầm. Duy trì kiểm tra định kỳ về điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm của các cơ sở sản xuất, kinh doanh nông lâm thủy sản. Các NHTM trên địa bàn tỉnh cần tiếp tục đẩy mạnh triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các thương nhân, doanh nghiệp, người dân sản xuất, kinh doanh bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 như mở rộng, tăng hạn mức tín dụng; tiết giảm mọi chi phí hoạt đông không cần thiết để dành nguồn lực giảm lãi suất cho vay; các giải pháp chính sách về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi phí, giữ nguyên nhóm nợ…
Tăng trưởng kinh tế tỉnh Tiền Giang 9 tháng đầu năm 2022 đạt 7,57%
- 18/06/2024 14:53
Kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2022 của tỉnh diễn ra trong bối cảnh triển vọng kinh tế thế giới trở nên khó khăn hơn khi xung đột quân sự giữa Nga và U-crai-na kéo dài; lạm phát duy trì ở mức cao, nhất là ở châu Âu và Mỹ; xu hướng tăng lãi suất, thu hẹp chính sách tiền tệ, tài khóa ở nhiều quốc gia; thời tiết diễn biến bất thường ở nhiều châu lục… Trong nước, kinh tế - xã hội hồi phục nhanh ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực; lạm phát được kiểm soát tốt nhưng cũng còn nhiều khó khăn, thách thức như: giá nhiên liệu, nguyên liệu đầu vào tăng cao, các chuỗi cung ứng toàn cầu tiếp tục bị gián đoạn, những biến chủng Covid-19 mới tiếp tục xuất hiện ... là những rủi ro cho tăng trưởng kinh tế nước ta trong thời gian tới. Trên địa bàn tỉnh với sự tập trung lãnh đạo của Tỉnh ủy, chỉ đạo điều hành toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm của Ủy ban nhân dân tỉnh, giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh, cùng với sự nổ lực và đồng thuận của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân nên kinh tế của tỉnh từng bước phục hồi, tăng trưởng quí sau cao hơn quí trước. Các hoạt động văn hóa, xã hội, vui chơi giải trí dần được khởi sắc trở lại; công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 thực hiện tốt theo đúng tinh thần chỉ đạo của Trung ương, thúc đẩy nhanh tiến độ tiêm phòng vacxin mũi 3 - 4, đã khống chế được dịch trên địa bàn tỉnh. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh 9 tháng đầu năm ước đạt 46.333 tỷ đồng (giá so sánh 2010), tăng 7,57% so cùng kỳ (quí 1 tăng 3,5%, quí 2 tăng 5,13%, quí III tăng 14,41%); khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,19%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 13,96% và khu vực dịch vụ tăng 7,35 % (bao gồm thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); Nếu tách riêng thuế sản phẩm thì khu vực dịch vụ tăng 9,13 % và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm giảm 0,74% so cùng kỳ. Trong 7,57% tăng trưởng thì khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 16%, khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 50,1%, khu vực dịch vụ đóng góp 34,5% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm làm giảm 0,6%. Tăng trưởng 9 tháng đầu năm 2022 của tỉnh đã vượt kế hoạch năm (tăng từ 6 đến 7%), nguyên nhân tăng cao là do quí III năm 2021 trên địa bàn tỉnh thực hiện giãn cách xã hội kéo dài để phòng chống dịch covid – 19, năm nay dịch bệnh được khống chế, nhiều ngành đã khôi phục mạnh mẽ và đạt mức tăng trưởng cao hơn trước khi dịch Covid-19 xảy ra. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: 9 tháng đầu năm 2022 tăng 3,19% so với 9 tháng đầu năm 2021; trong đó nông nghiệp tăng 2,95%. Trồng trọt có nhiều thuận lợi, mưa đến sớm hơn cùng kỳ năm 2021, công tác phòng chống hạn mặn được lãnh đạo các ngành, các cấp triển khai sớm, nên diện tích bị thiệt hại do hặn, mặn không nhiều. Trà lúa Đông Xuân năm nay phát triển tốt, năng suất bình quân ước tính đạt 71,2 tạ/ha, tăng 0,1 tạ/ha so cùng kỳ; tuy nhiên do diện tích gieo sạ giảm 2.455 ha nên sản lượng thu hoạch giảm 4,7% so cùng. Lúa hè thu diện tích gieo trồng 72.258 ha, giảm 3,3% so cùng kỳ tương ứng giảm 2.470 ha; sản lượng ước đạt 418.361 tấn, giảm 4,8% so cùng kỳ tương ứng giảm 21.035 tấn. Riêng lúa vụ Thu Đông gieo trồng 13.396,4 ha, tăng 144,8% so cùng kỳ, do thời tiết dự báo thuận lợi nên các huyện thị phía Đông gieo trồng linh hoạt theo điều kiện thực tế của địa phương, sẽ thu hoạch vào tháng 12. Các vườn cây ăn trái ở các huyện phía Tây chịu tác động của hạn, mặn năm 2020 được nông dân chăm sóc, từng bước được phục hồi. Giá phân bón tăng cao so cùng kỳ, trong khi giá bán sản phẩm đầu ra lại giảm nhất là Thanh long và Mít do xuất khẩu sang Trung quốc gặp khó khăn, nên nông dân có lãi không nhiều, thậm chí lỗ, mức độ đầu tư cho sản xuất của nông dân có giảm. Huyện Chợ Gạo là vùng chuyên trồng thanh long của tỉnh, nhưng giá bán thấp, kéo dài, nên nông dân phá bỏ chuyển sang trồng cây khác, diện tích gieo trồng 9 tháng đầu năm giảm 677 ha so cùng kỳ (diện tích thanh long hiện tại 9.262ha). Trong lĩnh vực chăn nuôi, dịch tả lợn châu Phi tuy được kiểm soát tốt nhưng còn xảy ra ở một số địa phương, tổng đàn tăng so cùng kỳ, đến thời điểm 1/9 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 122 ngàn con, tăng 1,4% so cùng kỳ; đàn lợn 290 ngàn con, tăng 5,9% so cùng kỳ; đàn gia cầm 17,3 triệu con, tăng 0,6% so cùng kỳ. Giá thức ăn tăng cao, ảnh hưởng đến lợi nhuận của người nuôi. Ngành thủy sản tăng 4,71% so cùng kỳ, tăng chủ yếu ở sản lượng nuôi trồng; Giá thủy sản ổn định và duy trì ở mức người nuôi có lãi, đặt biệt là giá tôm và cá tra thương phẩm, từ sau tết Nguyên đán cho đến nay vẫn đang duy trì ở mức khá cao đã góp phần tạo động lực cho người dân trên địa bàn tỉnh đầu tư sản xuất, sản lượng nuôi trồng tăng 12,2%. Hoạt động khai thác thủy sản còn nhiều khó khăn do giá nhiêu liệu tăng cao, chi phí nhiên liệu cho hoạt động khai thác chiếm khoảng 70% trong tổng chi phí đánh bắt thủy sản, do giá nhiên liệu tăng nên ảnh hưởng đến thu nhập ngư dân. Lượng tàu ra khơi những tháng đầu năm 2022 thấp hơn so với cùng kỳ năm 2021 khoảng 20 - 30% do ảnh hưởng của dịch Covid-19 (quí I) dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp, thiếu thuyền viên,... Sản lượng khai thác giảm 4,1% so cùng kỳ. Khu vực công nghiệp - xây dựng: tăng 13,96% so với 9 tháng đầu năm 2021; trong đó công nghiệp tăng 14,82%. Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh từng bước phục hồi, 6 tháng đầu năm tăng 6,56%, quí III tăng 38,05%; quí III năm nay tăng cao là do sản xuất của các doanh nghiệp khởi sắc hơn cộng với quí III năm 2021 tỉnh Tiền Giang thực hiện Chỉ thị 15, Chỉ thị -16/TTg của Thủ tướng Chính phủ về giản cách xã hội. Một số ngành có chỉ số tăng cao so cùng kỳ như: sản xuất đồ uống tăng 28,3%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan 61,7%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 83,3%; sản xuất kim loại tăng 25,5% ... Nhưng cũng còn khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, tuyển dụng lao động, nguyên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất, ... do tác động của dịch Covid – 19 và giá nhiên liệu tăng. Ngành xây dựng tăng 9,36%, hoạt động xây dựng tăng cao là do 6 tháng cuối năm 2021 trên địa bàn tỉnh thực hiện giản cách xã hội để phòng chống dịch Covid – 19 nên các công trình tạm dừng hoạt động hoặc chỉ hoạt động cầm chừng. Đến quí I năm 2022 tiêm ngừa vacin phòng chống covid đã được bao phủ, các hoạt động được phép mở cửa trở lại nên nhu cầu xây dựng trong dân tăng. Mặc khác, trên địa bàn tỉnh có nhiều công trình trọng điểm của địa phương và trung ương đang được triển khai như: các công trình thuộc dự án cao tốc Trung lương – Mỹ Thuận, Bệnh viện đa khoa tỉnh, Dự án điện gió Tân Phú Đông 1, dự án thành phần xây dựng Cầu Mỹ Thuận 2 ... Khu vực dịch vụ: Thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, các hoạt động thương mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh được phép hoạt động trở lại theo lộ trình với qui mô phù hợp nhằm đảm bảo công tác phòng chống dịch. Chín tháng đầu năm hầu hết các ngành thuộc khu vực dịch vụ tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ tăng 9 tháng năm 2022 đạt 9,13%, quí I tăng 1,93%, quí II tăng 6,35% và quí III tăng 19,42%. Thời điểm tháng 1, tháng 2 dịch Covid-19 diễn biến phức tạp tại nhiều tỉnh, thành phố trước biến chủng mới Omiron xuất hiện, do đó nhiều chương trình du lịch của các hãng lữ hành chưa hút khách, hoạt động của các cơ sở du lịch trên địa bàn tỉnh chưa được phép hoạt động. Đến tháng 3 tình hình dịch Covid 19 dần được kiểm soát, Ủy ban nhân dân tỉnh cho phép các cơ sở du lịch hoạt động trở lại, lượt khách đến tỉnh liên tục tăng qua từng tháng, nhất là dịp lễ 30 tháng 4, 1 tháng 5, 2 tháng 9 năm 2022, tốc độ tăng trưởng của ngành du lịch lịch lữ hành 9 tháng đầu năm tăng 5,8 lần so cùng kỳ. Các ngành tăng cao so cùng kỳ như: dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 47,19%; Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 36,45%; Nghệ thuật vui chơi và giải trí tăng 25,48%; Bán buôn, bán lẽ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy tăng 11,45% ... Riêng ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm 8,43%, do dịch Covid-19 đã được kiểm soát. Cơ cấu kinh tế: Tiếp tục chuyển dịch theo đúng định hướng, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 37,4% (cùng kỳ 39,7%); khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 28% (cùng kỳ 25,2%); khu vực dịch vụ chiếm 28,8% (cùng kỳ 28,9%); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,8% (cùng kỳ 6,2%). N.V.Tròn
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang tháng 8 năm 2022
- 18/06/2024 15:08
Trong tháng 8, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh tiếp tục tăng trưởng. Các hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định, các ngành các lĩnh vực đều tăng hơn so cùng kỳ. Kết quả thực hiện trên các lĩnh vực như sau: I. SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN 1. Nông nghiệp Cây lương thực có hạt: trong tháng gieo trồng 235 ha, diện tích thu hoạch 266 ha với sản lượng 959 tấn; ước tính đến cuối tháng 8/2022, gieo trồng được 123.593 ha, đạt 99% kế hoạch, giảm 3,8% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch 635.275 tấn, đạt 82,9% kế hoạch tăng 7,8% so cùng kỳ; trong đó: cây lúa gieo sạ 121.450 ha giảm 3,9% so cùng kỳ, thu hoạch 96.985 ha tăng 9,7% so cùng kỳ, sản lượng 628.080 tấn tăng 7,8% so cùng kỳ. - Cây lúa: Vụ Hè Thu: Diện tích gieo trồng chính thức 72.258 ha giảm 3,3% so cùng kỳ, trong đó vụ Xuân hè 23.931 ha, Hè thu 48.327 ha. Diện tích thu hoạch 47.793 ha (ở các huyện: thị xã Gò Công 4.227 ha, thị xã Cai Lậy 3.085 ha, Tân Phước 5.600 ha, Cái Bè 8.468 ha, Cai Lậy 6.529 ha và Châu Thành 2.834 ha, Gò Công Tây 8.134 và Gò Công Đông 8.916 ha) phần diện tích còn lại sẽ thu hoạch hết vào giữa tháng 9; năng suất 58,2 tạ/ha, giảm 0,7% so cùng kỳ do đến giai đoạn lúa chín, xuất hiện nhiều cơn mưa lớn nên lúa bị đổ ngã nhiều, dẫn đến năng suất giảm; sản lượng 278.000 tấn, tăng 29,2% so cùng kỳ, do diện tích thu hoạch tăng. Hiện nay, nông dân khu vực phía Đông đang trong giai đoạn thu hoạch lúa hè thu, nhiều diện tích đã thu hoạch xong được người dân khẩn trương thuê máy cày xới để xuống giống lúa thu đông. Sau 2 năm thực hiện cắt vụ lúa thu đông để né mặn, trong năm 2022 nguồn nước thuận lợi nên ngành Nông nghiệp có chủ trương cho một số khu vực tại các huyện, thị phía Đông của tỉnh xuống giống lúa vụ này. - Cây ngô: trong tháng gieo trồng 235 ha, thu hoạch 266 ha với sản lượng 959 tấn. Đến nay gieo trồng được 2.143 ha, đạt 82,5% kế hoạch, giảm 0,4% so cùng kỳ, thu hoạch 1.992 ha tăng 0,1% so cùng kỳ, năng suất quy thóc 36,1 tạ/ha tăng 1,2% so cùng kỳ với sản lượng quy thóc 7.195 tấn, tăng 1,2% so cùng kỳ. Cây rau đậu các loại: trong tháng gieo trồng 4.502 ha, thu hoạch 3.498 ha với sản lượng 69.882 tấn. Đến nay gieo trồng được 48.715 ha, đạt 84,2% kế hoạch, giảm 5,9% so cùng kỳ, thu hoạch 43.019 ha tăng 1,2% so cùng kỳ, năng suất đạt 204,2 tạ/ha tăng 3,5% với sản lượng 878.506 tấn, đạt 75,2% kế hoạch, tăng 4,7% so cùng kỳ (trong đó: rau các loại 48.465 ha giảm 5,9%, thu hoạch 42.824 ha tăng 1,1% với sản lượng 877.882 tấn tăng 4,7% so cùng kỳ). Hiện nay bà con nông dân đang dần mở rộng mô hình trồng rau trong nhà màng, nhà lưới nên năng suất cao, tiết kiệm chi phí sản xuất, giá bán ổn định. Chăn nuôi: Ước thời điểm 01/8/2022 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 123,2 ngàn con, tăng 1,7% so cùng kỳ; đàn lợn 287 ngàn con, tăng 2,7% so cùng kỳ; đàn gia cầm (không kể chim cút) 17,1 triệu con, giảm 3,9% so cùng kỳ. Tình hình dịch bệnh trên gia súc cơ bản được kiểm soát tốt, cùng với đó người chăn nuôi tỉnh Tiền Giang linh hoạt áp dụng các giải pháp chăn nuôi an toàn sinh học nên đàn bò, lợn vẫn duy trì và phát triển tốt. Đàn gia cầm giảm chủ yếu ở đàn vịt do từ đầu năm đến nay, giá thức ăn chăn nuôi và giá thuốc thú y vẫn ở mức cao, làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của người chăn nuôi dẫn đến nhiều hộ giảm đàn, thậm chí ngừng chăn nuôi.Hình 1. Tình hình chăn nuôi tại thời điểm 01/8/2022 * Tình hình dịch bệnh trên vật nuôi: Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang Gia cầm: Trong tháng không ghi nhận dịch bệnh trên gia cầm. Tính từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 01 trường hợp gà có biểu hiện bệnh cúm gia cầm với số gà bệnh là 1.180 trên tổng đàn 3.300 con. Chính quyền địa phương tiêu hủy 3.150 con, chiếm 95,5% (hộ chăn nuôi tự tiêu hủy 150 con). Gia súc: Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi: Trong tháng không ghi nhận dịch bệnh. Tính từ đầu năm đến nay (từ ngày 14/12/2021) trên địa bàn toàn tỉnh ghi nhận 113 hộ có lợn mắc bệnh Dịch tả lợn Châu Phi với tổng số lợn bệnh là 1.688 con trên tổng đàn 4.481 con (Cái Bè: 12 xã; Chợ Gạo: 10 xã; Cai Lậy: 08 xã; Châu Thành: 08 xã; Mỹ Tho: 02 xã; Tân Phước: 02 xã; TXGC: 01 xã; Gò Công Đông: 01 xã; Gò Công Tây: 04 xã; Tân Phú Đông: 02 xã). Số lợn được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 3.556 con, trọng lượng 157.042 kg. Ngoài ra, địa phương còn tiêu hủy 354 con tại các hộ bệnh trước ngày 14/12/2021 với trọng lượng 18.015 kg. Bệnh viêm da nổi cục: Trong tháng không ghi nhận dịch bệnh. Tính từ đầu năm đến nay (Từ ngày 14/12/2021) ghi nhận bò có dấu hiệu điển hình với 10 con bò bệnh/tổng đàn 47 con. Chính quyền địa phương tiêu hủy 03 con với trọng lượng 304 kg. 2. Lâm nghiệp Tổng diện tích rừng hiện có trên địa bàn tỉnh Tiền Giang là 1.760,9 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng), cụ thể: 1.341,2 ha rừng phòng hộ và 419,7 ha rừng sản xuất. Trong tháng, giảm 14 ha rừng sản xuất ở huyện Tân Phước do người dân khai thác cây tràm và bạch đàn sử dụng cho xây dựng công trình, nhà ở. Tính từ đầu năm đến nay diện tích rừng giảm 36 ha. Ngoài ra, trong tháng toàn tỉnh thực hiện trồng mới được 37,6 ngàn cây nâng tổng số cây trồng 507,6 ngàn cây các loại, giảm 38,1% so với cùng kỳ. 3. Thủy hải sản Diện tích nuôi thủy sản trong tháng đạt 431 ha, tính chung 8 tháng năm 2022 đạt 14.814 ha, đạt 98% kế hoạch, tăng 5,3% so cùng kỳ; trong đó: diện tích nuôi cá đạt 4.182 ha giảm 0,3% so cùng kỳ, diện tích nuôi tôm đạt 7.612 ha tăng 11,1% so cùng kỳ; diện tích nuôi thủy sản khác đạt 3.020 ha tương đương so với cùng kỳ. Sản lượng thủy sản thu hoạch trong tháng đạt 28.708 tấn, tính chung 8 tháng năm 2022 đạt 210.576 tấn, tăng 6,1% so cùng kỳ chủ yếu tăng sản lượng nuôi trồng; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 120.349 tấn, tăng 12,8% so cùng kỳ; sản lượng khai thác 90.227 tấn, giảm 1,7% so cùng kỳ. Nguyên nhân sản lượng từ nuôi tăng do tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thủy sản ổn định, giá bán thủy sản vẫn duy trì ở mức người nuôi có lãi; nông dân trong tỉnh đã mạnh dạn đầu tư nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh mật độ cao, áp dụng những tiến bộ khoa học vào thực tiễn sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế. Tình hình khai thác thủy sản vẫn tiếp tục gặp khó khăn, hiệu quả khai thác biển thấp vì một số nguyên nhân như: tình trạng thiếu hụt lao động lành nghề; thuyền viên chưa qua đào tạo cấp chứng chỉ theo quy định; ảnh hưởng của thời tiết, nguồn lợi ngư trường suy giảm, các quy định ràng buộc về chống khai thác IUU, chi phí nhiên liệu tăng. II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8/2022 tăng 4,21% so với tháng trước, do tình hình sản xuất công nghiệp trong tháng nhìn chung thuận lợi hơn so với cùng kỳ. Một số ngành sản xuất công nghiệp chủ yếu của tỉnh như: Sản xuất đồ uống; Dệt; Sản xuất trang phục; Sản xuất da; Sản xuất kim loại... tăng so với tháng trước; (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,32%, sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 3,7 4%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,32%) và tăng 86,2% so cùng kỳ. Các ngành chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh có chỉ số tăng so cùng kỳ, như: sản xuất chế biến thực phẩm tăng 18,6%, sản xuất kim loại tăng 2,5 lần, sản xuất thiết bị điện tăng 84,32%... (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 93,94%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 40,26%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,4%). Chỉ số sản xuất công nghiệp 8 tháng đầu năm 2022 tăng 13,25% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,81%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 9,44%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,04%.Hình 2. Chỉ số sản xuất công nghiệp Chỉ số sản xuất sản phẩm trong 8 tháng so cùng kỳ như sau: Có 27/43 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 207,1%; Giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài tăng 112,6%; Đồ chơi hình con vật hoặc sinh vật không phải hình người tăng 104,7%; Áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 81,2%; Bia đóng lon tăng 73,9%; Các sản phẩm bằng vật liệu tết bện khác tăng 51,9%; Bao và túi (kể cả loại hình nón) từ plastic khác tăng 44,4%; Nước uống được tăng 3,6%;… - Có 16/43 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu, thuyền giảm 94,1%; Phanh và trợ lực phanh giảm 89,5%; Dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 46,9%; Máy chế biến thịt gia súc hoặc gia cầm giảm 35,7%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng bột/cốm giảm 28,1%; Máy gặt đập liên hợp giảm 25%; Thức ăn cho thủy sản giảm 22,8%; Phi lê đông lạnh giảm 6,7%; Cáp đồng trục và dây dẫn điện đồng trục giảm 5,5%; Thức ăn cho gia súc giảm 4,9%; Dịch vụ thu gom rác thải không độc hại có thể tái chế giảm 4%;… Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 8/2022 so với tháng trước tăng 0,4%, trong đó doanh nghiệp nhà nước tương đương cùng kỳ; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 0,41%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,4%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 8/2022 so với cùng kỳ tăng 56,23%, trong đó doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 56,67%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 65,93% và doanh nghiệp nhà nước giảm 1,52%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 8 năm 2022 tăng 18,2%, trong đó doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 23,07%; doanh nghiệp nhà nước giảm 2,57%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 2,26%. Chia theo ngành công nghiệp: chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 8 năm 2022 tăng 18,2%, trong đó ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 18,73%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 1,6%; cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải giảm 12,35%. * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: - Chỉ số tiêu thụ tháng 8/2022 so với tháng trước tăng 2,24% và tăng gấp 2 lần so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 8 năm 2022 tăng 12,38%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: sản xuất đồ uống tăng 36,74%, trong đó sản xuất bia tăng 36,74%; dệt tăng 24,14%, trong đó sản xuất hàng may sẳn tăng 13,22%; Sản xuất da tăng 23,74%, trong đó sản xuất giày dép tăng 43,51%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 13,44%; Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 49,08%; Sản xuất kim loại tăng 63,58%;… Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 13,82%, trong đó chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản giảm 11,76%; Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 3,35%; Sản xuất thiết bị điện giảm 20,77%, trong đó sản xuất mô tơ giảm 29,3%; … - Chỉ số tồn kho tháng 8/2022 so với tháng trước tăng 15,97% và giảm 32,78% so với cùng kỳ. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ: dệt giảm 4,74%, trong đó sản xuất sợi giảm 25,6%; sản xuất trang phục giảm 92,01%; sản xuất giấy giảm 25,88%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 30,5%; sản xuất kim loại giảm 23,33%; …Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ: sản xuất chế biến thực phẩm tăng 53,09%, trong đó chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thuỷ sản tăng gấp 2,5 lần; sản xuất da tăng 21,03%, trong đó sản xuất giày dép tăng 43,44%; chế biến gỗ tăng gấp 5 lần; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng gấp 3,9 lần; Sản xuất thiết bị điện tăng 34,21%, trong đó sản xuất mô tơ điện tăng 34,41%; Chế biến, chế tạo khác tăng 92,06%, trong đó sản xuất đồ chơi, trò chơi tăng 92,06%;… * Tình hình thu hút đầu tư và phát triển các khu - cụm công nghiệp: - Khu công nghiệp: đến nay tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương quy hoạch 7 khu công nghiệp với tổng diện tích 2.083,5 ha; trong đó có 4 khu công nghiệp đi vào hoạt động. Trong tháng, Ban Quản lý các khu công nghiệp không cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới. Điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 02 lượt dự án tại các khu công nghiệp, các dự án chủ yếu điều chỉnh tăng vốn. Tám tháng cấp giấy chứng nhận cho 03 dự án FDI, tổng vốn đầu tư đăng ký 23,3 triệu USD, diện tích đất cho thuê là 4,43 ha. Điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 18 lượt dự án, trong đó có 01 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn đầu tư với tổng vốn đầu tư tăng thêm là 33,0 triệu USD. Tổng vốn đầu tư luỹ kế đến tháng 8/2022 là 56,3 triệu USD, diện tích đất cho thuê là 4,43 ha. Đến cuối tháng 8/2022, tổng số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp là 106 dự án, trong đó: có 79 dự án đầu tư nước ngoài; tổng vốn đầu tư là 2,3 tỷ USD và 4.545,8 tỷ đồng. Diện tích cho thuê của các doanh nghiệp đạt 522 ha/770 ha, chiếm tỷ lệ 67,8% diện tích các khu công nghiệp đang cho thuê. - Cụm công nghiệp: trên địa bàn tỉnh có 27 cụm công nghiệp được quy hoạch; trong đó có 5 cụm công nghiệp đang hoạt động. Tổng số dự án đầu tư tại các cụm công nghiệp đến nay là 79 dự án (trong đó: có 7 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 0,2 tỷ USD và 2.306 tỷ đồng, diện tích thuê đất là 88,7 ha, tỷ lệ lắp đầy đạt 73,6%. III. ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện trong tháng là 584 tỷ đồng, tăng 1,2 lần so cùng kỳ. Tám tháng đầu năm 2022 thực hiện 2.675 tỷ đồng, đạt 52,9% kế hoạch, tăng 34,6% so cùng kỳ. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh thực hiện 2.064 tỷ đồng, đạt 49,3% kế hoạch, tăng 36,4% so cùng kỳ, chiếm 77,2% tổng số; trong đó: vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 441,9 tỷ đồng, tăng 56,8%, vốn xổ số kiến thiết thực hiện 1.018 tỷ đồng, tăng 28,3% so cùng kỳ... Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện 439 tỷ đồng, đạt 84,6% kế hoạch, tăng 24% so cùng kỳ, chiếm 16,4% tổng số; trong đó: vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 196 tỷ đồng, tăng 9,9% so cùng kỳ... Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp xã thực hiện 173 tỷ đồng, đạt 48% kế hoạch, tăng 43,7% so cùng kỳ, chiếm 6,4% tổng số; trong đó: vốn huyện hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 110 tỷ đồng, tăng 33% so cùng kỳ...Hình 3. Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách do địa phương quản lý IV. THƯƠNG MẠI - GIÁ CẢ - DỊCH VỤ 1. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng: Trong tháng hoạt động thương mại và dịch vụ trên địa bàn tỉnh ổn định, lượng hàng hóa dồi dào đáp ứng nhu cầu mua sắm của người dân. Các cửa hàng tiện ích tăng dự trữ hàng hóa nên nguồn cung các mặt hàng đầy đủ và phong phú không xảy ra khang hiếm hàng. Các chợ truyền thống, hàng hóa dồi dào, giá cả ổn định. Ngoài hình thức kinh doanh truyền thống một số nhà phân phối sử dụng kênh phân phối trực tuyến. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong tháng thực hiện 6.340 tỷ đồng, tăng 0,8% so tháng trước và tăng 67,1% so cùng kỳ. Cụ thể các nhóm hàng có tỉ trọng tăng hơn so tháng trước như: lương thực thực phẩm tăng 3,50%; đồ dùng trang thiết bị gia đình tăng 3,77%, nhóm gỗ và vật liệu xây dựng tăng 3,66%, hàng hóa khác tăng 1,91%,... Tám tháng đầu năm 2022, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thực hiện 50.693 tỷ đồng, đạt 71,4% kế hoạch, tăng 24,5% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 42.277 tỷ đồng, tăng 23,9%; lưu trú 30 tỷ đồng, tăng 60%; ăn uống 3.381 tỷ đồng, tăng 17,5%; du lịch lữ hành 24 tỷ đồng, tăng 4,2%; dịch vụ tiêu dùng khác 4.981 tỷ đồng, tăng 34,7% so cùng kỳ.Hình 4. Doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 2. Xuất - Nhập khẩu: a. Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng thực hiện 307 triệu USD, tăng 9,3% so với tháng trước; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 52,7 triệu USD, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 254,2 triệu USD. Tám tháng xuất khẩu 2.762 triệu USD, đạt 82,5% kế hoạch, tăng 28,4% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 4,4 triệu USD, giảm 84,5%; kinh tế ngoài nhà nước 508,9 triệu USD, tăng 41,9%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2.249,2 triệu USD, tăng 27,5% so cùng kỳ. Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của tỉnh như sau: - Thủy sản: ước tính tháng 8/2022 xuất 5.979 tấn với trị giá xuất 21,7 triệu USD. Tám tháng xuất 75.140 tấn, tăng 27,6%, về trị giá 260,2 triệu USD, đạt 81,3% kế hoạch, tăng 100,8% so cùng kỳ. - Gạo: ước tính tháng 8/2022 xuất 7.354 tấn với giá trị 3,9 triệu USD. Tám tháng xuất 78.634 tấn, giảm 30,7%, về trị giá 39,1 triệu USD, đạt 27,9% kế hoạch, giảm 55,2% so cùng kỳ. - Hàng dệt, may: ước tính tháng 8/2022 xuất 2.316 ngàn sản phẩm với giá trị 46,9 triệu USD. Tám tháng xuất 60.916 ngàn sản phẩm, giảm 37,6%, về trị giá 376,9 triệu USD, đạt 62,8% kế hoạch, tăng 10,9% so cùng kỳ. - Kim loại thường và sản phẩm (kể cả đồng): ước tính tháng 8/2022 xuất 7.548 tấn với giá trị 73 triệu USD. Tám tháng xuất 67.560 tấn, tăng 24,9%, về trị giá 714 triệu USD, tăng 42,3% so cùng kỳ. Ngoài các mặt hàng chủ yếu, trị giá xuất khẩu một số mặt hàng trong 8 tháng đầu năm 2022 như: giày dép các loại 489 triệu USD, tăng 34,3%; túi xách, ví, vali, mũ và ô dù 152 triệu USD, giảm 9,7%; sản phẩm từ chất dẻo 183 triệu USD, giảm 4,2% so cùng kỳ... b. Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng 8/2022 đạt 220 triệu USD, tăng 1,4 lần so cùng kỳ, chủ yếu ở thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tám tháng, kim ngạch nhập khẩu 1.638 triệu USD, đạt 86,2% kế hoạch, tăng 33,8% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước nhập 89 triệu USD, tăng 25,6%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập 1.548,7 triệu USD, tăng 34,3% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu 8 tháng chủ yếu các mặt hàng như: Kim loại thường khác 644 triệu USD, tăng 32,8%; Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 264 triệu USD, tăng 23,1%; Chất dẻo (plastic) nguyên liệu 89 triệu USD, tăng 20,2%;... so cùng kỳ. 3. Chỉ số giá: Trong tháng 8/2022, giá một số mặt hàng điều chỉnh giảm như: dịch vụ giao thông công cộng; sắt thép xây dựng giảm theo giá của thế giới, đặc biệt giá xăng dầu trong nước điều chỉnh giảm 03 đợt vào các ngày 01/8; 11/8 và 22/8/2022..., tác động đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8/2022 giảm 0,27% so với tháng 7/2022 (thành thị giảm 0,34%, nông thôn giảm 0,26%), tăng 3,44% so với cùng kỳ và tăng 2,71% so với tháng 12/2021. Bình quân Tám tháng đầu năm 2022, CPI tăng 3,33% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng 7/2022, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 08 nhóm tăng: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1% (trong đó: Lương thực tăng 0,27%, thực phẩm tăng 1,51% và ăn uống ngoài gia đình tăng 0,12%); Đồ uống và thuốc lá tăng 0,23%; May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,35%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,1%; Bưu chính viễn thông tăng 0,02%; Giáo dục tăng 0,04%; Văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,05% và Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,34%. Có 02 nhóm giảm: Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,03%; Giao thông giảm 6,89%. Riêng nhóm Đồ uống và thuốc lá; Nhóm Thuốc, dịch vụ y tế chỉ số giá ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8/2022 giảm so tháng 7/2022 do: - Giá gas giảm 4,59% so với tháng trước do từ ngày 01/8/2022, giá gas trong nước điều chỉnh giảm 18.000 đồng/bình 12 kg sau khi giá gas thế giới giảm 60 USD/tấn so với tháng 7/2022 (từ mức 725 USD/tấn xuống mức 665 USD/tấn). - Giá dầu hỏa giảm 9,99%, tương ứng giảm 1.190 đồng/lít so với tháng trước do ảnh hưởng của 03 đợt điều chỉnh giảm giá ngày 01/8/2022, 11/8/2022 và 22/8/2022. - Giá sắt, thép xây dựng giảm bình quân từ 500-1.000 đồng/kg so với tháng trước, do giá nhiên liệu và chi phí vận chuyển giảm. - Giá dịch vụ giao thông công cộng giảm 0,49%, trong đó: giá vận tải hành khách bằng đường bộ giảm 0,26%, giá vận tải hành khách bằng xe buýt giảm 5,12%, giá vận tải hành khách bằng xe taxi giảm 2,37% so với tháng trước, nguyên nhân do giá xăng dầu trong nước đang trên đà giảm mạnh. - Giá điện giảm 0,8%, do tại tỉnh Tiền Giang có mưa, thời tiết mát mẽ hơn tháng trước nên nhu cầu sử dụng điện để làm mát giảm, tác động giá động giá giảm. - Do ảnh hưởng của 03 đợt điều chỉnh giảm giá xăng, dầu vào các ngày: Ngày 01/8/2022; 11/8/2022 và 22/8/2022, trong đó giá xăng A95-III giảm 15,25%, tương ứng giảm 1.410 đồng/lít so với tháng trước, giá xăng E5 sinh học giảm 13,85%, tương ứng giảm 1.350 đồng/lít, giá dầu diezen 0,05S giảm 12,9%, tương ứng giảm 1.100 đồng/lít, làm CPI chung giảm 0,68 điểm phần trăm. Bên cạnh đó, một số mặt hàng lương thực, thực phẩm có chỉ số giá tăng: - Chỉ số giá nhóm lương thực tháng 8/2022 tăng 0,27% so với tháng trước, trong đó chỉ số giá nhóm gạo tẻ tăng 0,34% (Gạo tẻ ngon tăng 0,64%; gạo tẻ thường tăng 0,3%). Nguyên nhân do các địa phương đã thu hoạch xong vụ lúa hè thu; mặc khác tình hình xuất khẩu gạo đang thuận lợi, giá gạo tăng theo giá gạo xuất khẩu và giá vật tư phân bón, nguyên liệu đầu vào sản xuất ở mức cao. - Chỉ số giá thực phẩm tăng 1,51%, trong đó giá thịt lợn tăng 4,95%, thịt gia cầm tăng 1%, giá thuỷ hải sản tươi sống tăng 0,06%... nguyên nhân do giá thức ăn tăng cao… Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm bình quân trong tháng giảm 0,88%. Hiện nay giá vàng bình quân duy trì ở mức 5.317.000 đồng/chỉ, tăng 136.000 đồng/chỉ so cùng kỳ. Chỉ số giá đô la Mỹ trong nước bình quân trong tháng tăng 0,2% so tháng trước. Hiện nay giá bình quân Đô la Mỹ duy trì ở mức 23.526 đồng/USD, tăng 513 đồng/USD so cùng kỳ. 4. Du lịch: Khách du lịch đến trong tháng 8/2022 ước tính được 90 ngàn lượt khách, tăng 3,7% so tháng trước. Doanh thu lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác trong tháng 8 đạt 1.161 tỷ đồng, giảm 1,5% so tháng trước và tăng 5,7 lần so cùng kỳ. Tính chung tám tháng đầu năm 2022, lượt khách du lịch đến Tiền Giang là 469 ngàn lượt khách, đạt 52,1% kế hoạch và tăng 78% so cùng kỳ; trong đó: khách quốc tế 13 ngàn lượt khách, đạt 12,5% kế hoạch, tăng 2,3 lần so cùng kỳ. Tổng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác đạt 8.417 tỷ đồng, tăng 27,5% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ ăn uống chiếm tỷ trọng 40,2%, ước đạt 3.381 tỷ đồng, tăng 17,5%; lưu trú đạt 30 tỷ đồng, tăng 60% so cùng kỳ... 5. Vận tải: Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải trong tháng thực hiện 206 tỷ đồng, tăng 3,1% so tháng trước và tăng 1,8 lần so cùng kỳ. Tám tháng thực hiện 1.420 tỷ đồng, tăng 25,8% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 361 tỷ đồng, tăng 27,8%; doanh thu vận tải hàng hóa thực hiện 913 tỷ đồng, tăng 26% so cùng kỳ. Doanh thu vận tải đường bộ thực hiện 659 tỷ đồng, tăng 23,5%; doanh thu vận tải đường thủy thực hiện 615 tỷ đồng, tăng 30%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 146 tỷ đồng, tăng 19,7% so cùng kỳ. Vận tải hành khách trong tháng đạt 3.056 ngàn hành khách, tăng 4,2% so tháng trước; luân chuyển 56.989 ngàn hành khách.km, tăng 4,3% so tháng trước. Tám tháng, vận chuyển 21.613 ngàn hành khách, tăng 30,1% so cùng kỳ; luân chuyển 372.417 ngàn hành khách.km, tăng 23,4% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 9.983 ngàn hành khách, tăng 27,8% và luân chuyển 357.037 ngàn hành khách.km, tăng 23,2% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 11.630 ngàn hành khách, tăng 32,2% và luân chuyển 15.380 ngàn hành khách.km, tăng 29,1% so cùng kỳ. Ngày 10/8/2022 chính thức đưa vào khai thác tuyến xe buýt Tân Phú - Bến xe Tiền Giang do Công ty CP Xe khách Phương Trang làm chủ đầu tư. Trung bình khoảng 15 phút một chuyến, giá vé dao động từ 12.000 - 70.000 đồng/lượt. Riêng hành khách là học sinh sinh viên di chuyển nội tỉnh Tiền Giang, Long An hoặc nội thành TP.HCM, giá vé là 7.000 đồng/lượt. Tuyến xe buýt mới cung cấp cho người dân dịch vụ vận chuyển chất lượng cao, văn minh. Qua đó, khuyến khích thói quen sử dụng phương tiện công cộng của người dân, góp phần hạn chế phương tiện cá nhân, giải quyết ùn tắc giao thông giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Vận tải hàng hóa trong tháng đạt 1.288 ngàn tấn, tăng 3,3% so tháng trước và tăng 1,2 lần so cùng kỳ; luân chuyển 168.991 ngàn tấn.km, tăng 3,1% so tháng trước và tăng 1,1 lần so cùng kỳ. Tám tháng, vận tải 8.806 ngàn tấn hàng hóa, tăng 27,2% so cùng kỳ; luân chuyển 1.145.058 ngàn tấn.km, tăng 28,5% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 2.042 ngàn tấn, tăng 24,1% và luân chuyển 213.777 ngàn tấn.km, tăng 23,3% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 6.764 ngàn tấn, tăng 28,2% và luân chuyển 931.281 ngàn tấn.km, tăng 29,8% so cùng kỳ. * Công tác quản lý phương tiện giao thông: Trong tháng đăng ký mới 4.319 chiếc xe mô tô xe máy, 284 chiếc xe ô tô, 02 chiếc xe đạp điện và 05 chiếc xe khác. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.413.190 chiếc, trong đó: mô tô xe máy 1.367.186 chiếc, 45.037 chiếc xe ô tô, 153 chiếc xe ba bánh, 298 chiếc xe đạp điện và 516 chiếc xe khác. 6. Bưu chính viễn thông: Doanh thu trong tháng 8/2022 đạt 284 tỷ đồng, tăng 0,8% so tháng trước và tăng 3,9% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 28 tỷ đồng, tăng 3% và viễn thông 256 tỷ đồng, tăng 0,6% so tháng trước. Tám tháng doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 2.219 tỷ đồng, tăng 4,5% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 214 tỷ đồng, tăng 13,7% và viễn thông 2.005 tỷ đồng, tăng 3,6% so cùng kỳ. Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 8/2022 là 115.627 thuê bao, mật độ bình quân đạt 6,52 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Thuê bao internet có trên mạng cuối tháng 8/2022 là 321.562 thuê bao, mật độ internet bình quân đạt 18,14 thuê bao/100 dân. Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa dẫn đến khách hàng dần chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 8 năm 2022 là 115.627 thuê bao. Số thuê bao điện thoại di động có sử dụng internet (3G, 4G) đến cuối tháng 8/2022 là 1.448.797 thuê bao. V. TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG 1. Tài chính: Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn trong tháng thực hiện 795 tỷ đồng; trong đó: thu nội địa 770 tỷ đồng. Tám tháng, thu 6.627 tỷ đồng, đạt 75,1% kế hoạch, tăng 4,8% so cùng kỳ; trong đó: thu nội địa thực hiện 6.447 tỷ đồng, đạt 75,7% dự toán và tăng 7,5% so cùng kỳ; (trong thu nội địa: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.085 tỷ đồng, đạt 75,8% dự toán, tăng 2,9% so cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 713 tỷ đồng, đạt 74,2% dự toán, tăng 5,4% so cùng kỳ...). Tổng chi ngân sách nhà nước trong tháng 1.090 tỷ đồng; trong đó: chi đầu tư phát triển 350 tỷ đồng. Tám tháng, chi 8.473 tỷ đồng, đạt 68,9% dự toán, tăng 0,3% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 2.565 tỷ đồng, đạt 65,1% dự toán, tăng 2,2% so cùng kỳ; chi hành chính sự nghiệp 4.635 tỷ đồng, đạt 61,7% dự toán và tăng 9,7% so cùng kỳ. 2. Ngân hàng: Đến cuối tháng 7/2022, vốn huy động đạt 86.221 tỷ đồng, tăng 6.732 tỷ với tỷ lệ tăng 8,47% so với cuối năm 2021; tổng dư nợ toàn tỉnh đạt 80.411 tỷ đồng, tăng 8.519 tỷ, tỷ lệ tăng 11,85% so với cuối năm 2021. Các tổ chức tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn cho 2.367 doanh nghiệp đang vay vốn với dư nợ 25.580 tỷ đồng, tăng 10,83% so với cuối năm 2021, chiếm 31,82% tổng dư nợ cho vay toàn tỉnh. Ước đến cuối tháng 8/2022, nguồn vốn huy động đạt 86.333 tỷ đồng, tăng 8,61% so với cuối năm 2021; tổng dư nợ đạt 80.519 tỷ đồng, tăng 12% so với cuối năm 2021. Nợ xấu: Đến cuối tháng 7/2022, nợ xấu là 634,76 tỷ đồng, tỷ lệ 0,79%, giảm 0,26% so với cuối năm 2021. Ước đến cuối tháng 8/2022, nợ xấu là 621 tỷ, tỷ lệ nợ xấu 0,77%, giảm 0,28% so với cuối năm 2021. Quỹ tín dụng nhân dân: Đến cuối tháng 7/2022, tổng nguồn vốn hoạt động thực hiện là 1.411 tỷ đồng, tăng 156 tỷ, tỷ lệ tăng 12,45% so với cuối năm 2021, trong đó vốn huy động tăng 14,14% chiếm tỷ trọng 90% trong tổng nguồn vốn hoạt động. Dư nợ cho vay đạt 948 tỷ đồng, tăng 70 tỷ, tỷ lệ tăng 8,03%; đáp ứng nhu cầu vốn cho 6.758 lượt thành viên vay vốn từ đầu năm đến nay; trong đó dư nợ ngắn hạn giảm 2,97% chiếm tỷ trọng 43% tổng dư nợ, dư nợ trung dài hạn tăng 18,05% chiếm tỷ trọng 57%. Nợ xấu là 3,5 tỷ đồng, giảm 26 triệu đồng, tỷ lệ nợ xấu 0,37%, giảm 0,03% so với cuối năm 2021. VI. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Trong tháng, trình Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét phê duyệt danh mục nhiệm vụ khoa học và công nghệ triển khai năm 2022-2023 theo Quyết định số 2617/QĐ-UBND ngày 03/8/2022. Hội đồng tư vấn thẩm định nội dung 01 nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở; nghiệm thu giai đoạn 02 nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở, kiểm tra tiến độ thực hiện 01 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh. Đến tháng 8/2022, thẩm định nội dung 12 nhiệm vụ (05 cấp tỉnh, 07 cấp cơ sở); Quyết định triển khai 07 nhiệm vụ (03 cấp tỉnh, 04 cấp cơ sở); Nghiệm thu kết thúc 03 nhiệm vụ (01 cấp tỉnh, 02 cấp cơ sở); Quyết định công nhận 13 nhiệm vụ (08 cấp tỉnh, 05 cấp cơ sở); Gia hạn 10 nhiệm vụ (07 cấp tỉnh, 03 cấp cơ sở). VII. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Lao động việc làm: Trong tháng, tư vấn việc làm 2.002 lượt lao động, tăng 2,9 lần so cùng kỳ; trong đó 194 lượt lao động được tư vấn nghề, 261 lượt lao động được tư vấn việc làm, 1.465 lượt lao động thất nghiệp được tư vấn việc làm, 82 lượt lao động được tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác; giới thiệu việc làm cho 321 lượt lao động; đã giới thiệu cho 128 lao động có được việc làm ổn định. Ngoài ra, tư vấn cho 71 lượt lao động đi làm việc ở nước ngoài; có 03 lao động đăng ký tham gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, tăng 50% so cùng kỳ; 59 lao động xuất cảnh chính thức (Nhật Bản 44 người, Đài Loan 15 người), tăng 59 người so cùng kỳ. Tình hình lao động nghỉ việc, thất nghiệp: tiếp nhận 1.514 người lao động đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp, tăng gần 2 lần so với cùng kỳ; 1.943 người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 50,2% so với cùng kỳ với số tiền chi trả tương đương 40 tỷ đồng; 8.518 lượt lao động thất nghiệp được tư vấn, giới thiệu việc làm và không có người lao động thất nghiệp đăng ký học nghề. 2. Chính sách xã hội: Thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động theo Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ: Tính đến nay, trên địa bàn tỉnh có 584 lượt đơn vị đề nghị hỗ trợ cho 25.627 người lao động với số tiền là 31,8 tỷ đồng, trong đó 24.552 người lao động đã được phê duyệt hỗ trợ (đạt 95,8% so với số lao động đề nghị hỗ trợ) của 456 lượt đơn vị, với số tiền là 30,4 tỷ đồng. 3. Hoạt động y tế: Trong tháng có 10/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận. Cộng dồn số ca mắc, có 06 bệnh tăng so cùng kỳ (Bệnh liên cầu lợn ở người, Sốt Tây sông Nin, Sốt xuất huyết, viêm gan siêu vi C, viêm gan khác, Covid-19); 11 bệnh giảm so cùng kỳ (Lao phổi, quai bị, Rubella, sởi, tay chân miệng, thương hàn, thủy đậu, tiêu chảy, uốn ván khác, viêm gan siêu vi B, viêm não vi rút khác); 27 bệnh tương đương và hoặc không xảy ra ca mắc. Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết: Trong tháng ghi nhận 1.591 ca, tính từ đầu năm 2022 ghi nhận 3.705 ca, tăng 40,1% so với cùng kỳ và 04 trường hợp tử vong (huyện Chợ Gạo: 01 ca, huyện Cái Bè: 02 ca, thị xã Cai Lậy 01 ca). Phòng chống HIV/AIDS: Tính đến nay, toàn tỉnh có 6.290 người nhiễm HIV; 1.819 người chuyển sang AIDS; tử vong do AIDS: 1.253 người. Tình hình khám chữa bệnh: Tổng số lần khám bệnh 346.296 lượt người tăng 113,4% so cùng kỳ; tổng số người điều trị nội trú 16.934 lượt người tăng 81,6% so cùng kỳ. Công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong tháng đạt 72,2%. Phòng chống COVID-19: Ngày 26/7/2022, Sở Y tế đã ban hành Kế hoạch số 4360/KH-SYT nhằm tổ chức lại cơ cấu giường bệnh tại các tầng điều trị, đặc biệt là 220 giường bệnh điều trị bệnh nhân thuộc tầng 3, trong đó Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang bố trí 100 giường, Bệnh viện Đa khoa khu vực Cai Lậy và Gò Công bố trí 50 giường/mỗi bệnh viện, Bệnh viện Lao và Bệnh phổi 20 giường. Các bệnh viện và trung tâm y tế còn lại, mỗi nơi bố trí sẵn sàng từ 50 – 100 giường bệnh điều trị bệnh nhân thuộc tầng 1 và 2. Hiện tại tỉnh Tiền Giang ghi nhận 02 trường hợp nhiễm biến thể BA.05 của chủng vi rút Omicron nhập cảnh từ Thụy sĩ. Tiêm chủng COVID-19: Đến nay đã tiêm 4.702.549 liều cho người từ 5 tuổi trở lên không bao gồm các trường hợp tiêm ngoài tỉnh: + Người từ 18 tuổi trở lên: 4.060.032 liều (Mũi 1: 100,9%; Mũi 2: 98,4%; Mũi bổ sung: 8,2%; Mũi 3: 75,9%; Mũi 4: 16,0%). + Trẻ em từ 12 đến dưới 18 tuổi: 411.559 liều (Mũi 1: 100,1%; Mũi 2: 96,7%; Mũi 3: 58,6%). + Trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi: 230.958 liều (Mũi 1: 77,9%; Mũi 2: 56,4%). 4. Hoạt động giáo dục: Ngày 15/8/2022, UBND tỉnh Tiền Giang ban hành Quyết định số 2267/QĐ-UBND về Kế hoạch thời gian năm học 2022- 2023 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên. Theo đó cấp mầm non sẽ bắt đầu từ ngày 29/8/2022; cấp tiểu học bắt đầu từ ngày 22/8/2022; cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông bắt đầu từ ngày 29/8/2022; Các lớp 6,7, 10 hệ giáo dục thường xuyên bắt đầu từ ngày 5/9/2022 và các lớp 8, 9, 11, 12 hệ giáo dục thường xuyên bắt đầu từ ngày 12/9/2022. Hiện nay, toàn tỉnh số trường đạt chuẩn quốc gia các bậc học là 320/516 trường, đạt tỷ lệ 62,02% so tổng số trường mầm non, phổ thông; chia ra như sau: mầm non 100 trường (đạt tỷ lệ 53,2%), tiểu học 134 trường (đạt tỷ lệ 80,2%), trung học cơ sở 65 trường (đạt tỷ lệ 52,9%), trung học phổ thông 21 trường (đạt tỷ lệ 55,3%). Đã xây dựng nhiều trường học vùng nông thôn khang trang, sạch đẹp với đầy đủ các phòng thư viện, phòng thực hành thí nghiệm, phòng chức năng, 100% trường phổ thông có thư viện, trong đó có 331 trường có thư viện đạt chuẩn, chiếm tỉ lệ 100%. Kết quả thi tốt nghiệp Trung học phổ thông 2022 đạt tỉ lệ 99,5%, điểm bình quân của thí sinh Tiền Giang là 6,554 điểm, xếp hạng thứ 16/63 tỉnh thành toàn quốc, xếp thứ 3 khu vực đồng bằng sông Cửu Long sau tỉnh An Giang và Bạc Liêu; xếp thứ 10 toàn quốc tổng điểm 03 môn Toán, Văn, Ngoại ngữ (16,09 điểm). Trong đó, điểm thi trung bình môn Toán của thí sinh Tiền Giang nằm trong top 10 cả nước (6,821 điểm), môn Ngữ Văn xếp thứ 11 (7,026 điểm), môn Giáo dục công dân xếp thứ 16 (8,279 điểm). 5. Hoạt động văn hóa - thể thao: Hoạt động bảo tàng: trưng bày cố định các chuyên đề phục vụ khách tham quan tại Bảo tàng tỉnh và trưng bày cố định các chuyên đề theo tiến trình lịch sử tại các di tích trực thuộc: Khảo cổ Gò Thành, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Chiến thắng Ấp Bắc, Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút. Sưu tầm hiện vật chuyên đề “Đồ Gia dụng trong sinh hoạt ẩm thực của người dân trên địa bàn tỉnh tiền Giang” tại Thị xã Cai Lậy và một số hình ảnh phục vụ trưng bày kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Ấp Bắc (02/01/1963 – 02/01/2023). Trong tháng, Bảo tàng tỉnh và 4 di tích trực thuộc đã đón 2.231 lượt khách. Hoạt động văn hóa nghệ thuật: tổ chức Hội thi Tuyên truyền lưu động tỉnh Tiền Giang năm 2022 từ ngày 15/7/2022 – 25/7/2022 tại các huyện, thị xã, thành phố. Thực hiện 40 băng-rôn, 120 cờ các loại, 02 ụ cờ, 12 giá đỡ trụ cờ, 13 buổi chiếu phim lưu động, 07 chương trình văn nghệ và 12 suất nhạc nước tại quảng trường Hùng Vương. Hoạt động thư viện: Trong tháng Thư viện tỉnh đã phục vụ được 4.510 lượt bạn đọc, với 17.771 lượt sách báo được đưa ra lưu hành. Hệ thống thư viện huyện, thư viện xã đã tiếp được 35.712 lượt bạn đọc, với 92.031 lượt sách báo lưu hành. Hoạt động Thể dục, Thể thao: Tổ chức thành công các môn Đại hội TDTT tỉnh Tiền Giang lần thứ IX: Cầu lông, Taekwondo, Quần vợt, Bóng bàn từ ngày 11/7 – 03/8/2022; Tổ chức thành công Giải Cầu lông Các lứa tuổi và CNVCLĐ&LLVT tỉnh Tiền Giang, từ ngày 18/7 – 23/7/2022; Tổ chức Giải Bóng đá nam Đại hội TDTT tỉnh Tiền Giang lần thứ IX, từ ngày 08/8 – 29/8/2022; Đội Võ Cổ truyền tham dự giải VĐ Cúp các Câu lạc bộ Võ Cổ truyền toàn quốc lần thứ XI năm 2022, từ ngày 08/7 – 18/7/2022, kết quả đạt 01 Huy chương Đồng; Đội Boxing tham dự giải Vô địch Boxing trẻ toàn quốc năm 2022, từ ngày 08/7 – 24/7/2022 tại Đắk Lắk, kết quả đạt 02 Huy chương Bạc, 06 Huy chương Đồng; Cử 03 VĐV Cử tạ tham dự Giải Vô địch Cử tạ Thanh Thiếu niên và Vô địch Trẻ Châu Á năm 2022 tại Uzbekistan, từ ngày 13/7 – 26/7/2022, kết quả đạt 03 Huy chương Bạc; Đội Bóng bàn tham dự Giải Vô địch Bóng bàn Trẻ, Thiếu niên, Nhi đồng quốc gia năm 2022, từ ngày 21/7 – 01/8/2022 tại Bắc Kạn, kết quả đạt 01 Huy chương Vàng, 01 Huy chương Bạc; Đội Cầu lông tham dự Giải Cầu lông các cây vợt Thiếu niên, Trẻ xuất sắc quốc gia năm 2022 – Tranh Giải Donexpro, từ ngày 06/8 – 14/8/2022 tại Ninh Bình, kết quả đạt 01 Huy chương Vàng, 01 Huy chương Đồng; Đội Thể hình tham dự Giải Vô địch Thể hình Nam Cổ điển, Nữ Fitness và Nữ Body Fitness quốc gia năm 2022, từ ngày 08/8 – 12/8/2022 tại Đà Nẵng, kết quả đạt 02 Huy chương Đồng; Cử huấn luyện viên, vận động viên tham dự Giải Vô địch Muay trẻ Thế giới năm 2022, từ ngày 09/8 – 21/8/2022 tại Malaysia; Đội Rowing tham dự Giải Đua thuyền Rowing Vô địch trẻ quốc gia năm 2022, từ ngày 12/8 – 24/8/2022 tại Hà Nội. 6. Tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội: (Theo báo cáo ngành công an) Trong tháng, tội phạm về trật tự xã hội ghi nhận 82 vụ tăng 26 vụ so với tháng 7/2022, giảm 08 vụ so với tháng 8/2019, làm chết 03 người, bị thương 14 người, tài sản thiệt hại khoảng 1,7 tỷ đồng. Khám phá 52 vụ (đạt 63,4%), bắt xử lý 62 đối tượng, thu hồi tài sản khoảng 326 triệu đồng. Tám tháng năm 2022 ghi nhận 431 vụ giảm 99 vụ, giảm 18,7% so với cùng kỳ năm 2019; khám phá 312 vụ đạt 72,4%,xử lý 416 đối tượng. Phát hiện, xử lý 23 tụ điểm, 138 đối tượng có liên quan hành vi đánh bạc và tổ chức đánh bạc; 05 vụ, 07 đối tượng có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và xử lý vi phạm hành chính 72 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, 03 cơ sở kinh doanh để xảy ra hoạt động sử dụng trái phép chất ma túy; 05 vụ, 05 đối tượng vi phạm pháp luật về kinh tế. 7. Trật tự an toàn giao thông: (Theo báo cáo ngành công an) Tai nạn giao thông đường bộ: Tai nạn giao thông trong tháng xảy ra 25 vụ, giảm 06 vụ so tháng trước và giảm 11 vụ so cùng kỳ, làm chết 15 người, giảm 07 người so tháng trước và giảm 04 người so cùng kỳ, bị thương 16 người, tương đương so tháng trước và giảm 05 người so cùng kỳ. Nâng tổng số vụ từ đầu năm đến nay 256 vụ, làm chết 180 người và bị thương 122 người. Ước thiệt hại tài sản chung trị giá khoảng 3,3 tỷ đồng. Các nguyên nhân gây nên tai nạn giao thông chủ yếu vẫn do ý thức chấp hành Luật giao thông đường bộ của người tham gia giao thông như: Không làm chủ tốc độ 02 vụ; đi không đúng phần đường, làn đường; uống rượu say; lỗi do người đi bộ; chuyển hướng không đúng quy định; vượt không đảm bảo an toàn… Tai nạn giao thông đường thủy: Trong tháng xảy ra 01 vụ tai nạn tăng 01 vụ so tháng trước và tăng 01 vụ so cùng kỳ. Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 vụ tai nạn, làm 02 người chết, không phát sinh người bị thương. 8. Tình hình cháy nổ, môi trường: Trong tháng 8 năm 2022 trên địa bàn tỉnh ghi nhận 01 vụ cháy ô tô tải, tài sản thiệt hại khoảng 1,7 tỷ đồng; nguyên nhân xác định ban đầu do sự cố điện. Nâng tổng số vụ cháy 8 tháng năm 2022 là 11 vụ, thiệt hại 32,2 tỷ đồng. Lĩnh vực môi trường trong tháng, không xảy ra vụ vi phạm về môi trường trên địa bàn tỉnh. So với cùng kỳ năm trước, giảm 19 vụ vi phạm đã xử lý. Cộng dồn so với cùng kỳ năm trước, ghi nhận 12 vụ, giảm 24 vụ vi phạm đã xử lý. Tình hình thiên tai trong tháng 8 ghi nhận 05 vụ lốc xoáy, làm tốc mái 42 căn nhà (huyện Châu Thành: 01 căn, huyện Cai Lậy: 01 căn, huyện Cái Bè: 02 căn, thị xã Cai Lậy: 38 căn), làm ngã đỗ 04 trụ điện, 862 cây mít, 14 cây dừa, 05 cây sầu riêng trên địa bàn thị xã Cai Lậy. Ước tổng giá trị thiệt hại là 880 triệu đồng.
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang Tháng 7 năm 2022
- 18/06/2024 15:16
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 của tỉnh tiếp tục phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh có nhiều khởi sắc, hầu hết các ngành, lĩnh vực điều tăng so cùng kỳ. Kết quả thực hiện trên các lĩnh vực như sau: I. SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN 1. Nông nghiệp Cây lương thực có hạt: trong tháng gieo trồng 4.099 ha với sản lượng 1.448 tấn; ước tính đến cuối tháng 7/2022, gieo trồng được 123.358 ha, đạt 98,8% kế hoạch, giảm 3,8% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch 505.199 tấn giảm 4% so cùng kỳ; trong đó: cây lúa gieo trồng 121.450 ha giảm 3,9%, thu hoạch 73.123 ha giảm 4,5%, sản lượng 498.963 tấn giảm 4%. - Cây lúa: Vụ Hè Thu: Diện tích gieo trồng chính thức 72.258 ha giảm 3,3% so cùng kỳ, gồm vụ Xuân hè 23.931 ha, Hè thu 48.327 ha. Diện tích thu hoạch chủ yếu là lúa Xuân hè 23.931 ha, ở các huyện phía tây gồm: thị xã Cai Lậy 3.085 ha, Tân Phước 4.816 ha, Cái Bè 8.468 ha, Cai Lậy 6.529 ha và Châu Thành 1.034 ha; năng suất 62,2 tạ/ha, tăng 1,5% so cùng kỳ; sản lượng 148.883 tấn, giảm 2,5% so cùng kỳ, do diện tích gieo trồng giảm. - Cây ngô: trong tháng gieo trồng 220 ha, thu hoạch 396 ha với sản lượng 1.448 tấn. Đến nay gieo trồng được 1.908 ha, đạt 73,5% kế hoạch, tăng 0,5% so cùng kỳ, thu hoạch 1.726 ha tương đương so cùng kỳ, năng suất quy thóc 36,1 tạ/ha tăng 1,3% so cùng kỳ với sản lượng quy thóc 6.236 tấn, đạt 66,2% kế hoạch, tăng 1,3% so cùng kỳ. Cây rau đậu các loại: trong tháng gieo trồng 895 ha, thu hoạch 1.430 ha với sản lượng 28.727 tấn. Đến nay gieo trồng được 41.813 ha, đạt 72,2% kế hoạch, giảm 11,5% so cùng kỳ, thu hoạch 36.721 ha giảm 6,1% so cùng kỳ, năng suất đạt 204,5 tạ/ha tăng 3,4% với sản lượng 751.111 tấn, đạt 64,3% kế hoạch, giảm 2,9% so cùng kỳ do diện tích thu hoạch giảm (trong đó: rau các loại 41.583 ha giảm 11,6%, thu hoạch 36.540 ha giảm 6,2% với sản lượng 750.532 tấn giảm 2,9%). Chăn nuôi: Ước thời điểm 01/7/2022 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 123 ngàn con, tăng 1,5% so cùng kỳ; đàn lợn 284,5 ngàn con, tăng 1,8%; đàn gia cầm (không kể chim cút) 16,8 triệu con, giảm 5,6%. Đàn bò tăng do hộ dân tái đàn sau đợt dịch Covid-19 vừa qua, nhiều hộ dân cũng chuyển đổi canh tác từ trồng trọt sang chăn nuôi. Đàn lợn tăng do chăn nuôi lợn hồi phục do dịch bệnh kiểm soát tốt, người chăn nuôi chủ động được nguồn giống và nhu cầu thị trường tăng cao. Đàn gia cầm giảm do giá thịt hơi thấp, trong khi đó giá thức ăn chăn nuôi cao, giá con giống tăng cao.Hình 1. Tình hình chăn nuôi *Tình hình dịch bệnh trên vật nuôi: Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang Gia cầm: Trong tháng không ghi nhận bệnh. Từ đầu năm đến nay ghi nhận 01 trường hợp gà có biểu hiện bệnh cúm gia cầm với số gà bệnh là 1.180 trên tổng đàn 3.300 con. Chính quyền địa phương tiêu hủy 3.150 con chiếm 95,5% (hộ chăn nuôi tự tiêu hủy 150 con). Gia súc: Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi: Ghi nhận 04 trường hợp heo mắc bệnh Dịch tả lợn Châu Phi trên địa bàn huyện Cái Bè và Tân Phú Đông với tổng số heo bệnh là 107 con trên tổng đàn 124 con. Số heo được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 67 con, khối lượng 4.367 kg. Cộng dồn đến nay (từ ngày 14/12/2021), trên địa bàn toàn tỉnh ghi nhận 113 hộ có heo mắc bệnh Dịch tả lợn Châu Phi với tổng số heo bệnh là 1.688 con trên tổng đàn 4.481 con tại 10 huyện Cái Bè; Chợ Gạo; Cai Lậy; Châu Thành; Mỹ Tho; Tân Phước; TX Gò Công; Gò Công Đông; Gò Công Tây; Tân Phú Đông. Số heo được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 3.556 con, trọng lượng 157.042 kg. Bệnh viêm da nổi cục: Trong tháng ghi nhận 01 trường hợp bò có dấu hiệu điển hình của bệnh viêm da nổi cục tại huyện Chợ Gạo với 01 con bò bệnh trên tổng đàn 08 con. Từ đầu năm đến nay (từ ngày 14/12/2021) ghi nhận bò có dấu hiệu điển hình 03 huyện với 10 con bò bệnh trên tổng đàn 47 con. Chính quyền địa phương tiêu hủy 03 con với trọng lượng 304 kg. 2. Lâm nghiệp: Tổng diện tích rừng hiện có trên địa bàn tỉnh Tiền Giang là 1.774,9 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng), gồm: 1.341,1 ha rừng phòng hộ và 433,8 ha rừng sản xuất. Trong tháng, giảm 7 ha rừng sản xuất do người dân khai thác cây tràm và bạch đàn dùng cho xây dựng công trình, nhà ở huyện Tân Phước. Từ đầu năm đến nay giảm 22 ha. Ước đến hết tháng 7/2022 toàn tỉnh thực hiện trồng mới được 284,9 ngàn cây phân tán nâng tổng số cây trồng đạt 470 ngàn cây tăng 30,7% so với cùng kỳ. Nguyên nhân cây phân tán tăng cao do mùa mưa thuận lợi tạo điều kiện cho trồng cây phân tán phát triển và Đề án 1 tỷ cây xanh giai đoạn 2021-2025 theo Quyết định số 414/QĐ-SNN&PTNT ngày 28/6/2022. Cùng với đó, cây phân tán tăng do được trồng tại một số xã đạt, phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao ở huyện Tân Phước, Gò Công Đông, Tân Phú Đông. 3. Thủy hải sản: Diện tích nuôi thủy sản trong tháng đạt 830 ha, tính chung 7 tháng đầu năm 2022 đạt 14.379 ha, đạt 95,1% kế hoạch, tăng 6,6% so cùng kỳ; gồm: diện tích nuôi cá đạt 3.933 ha giảm 2,9% so cùng kỳ, diện tích nuôi tôm đạt 7.426 ha tăng 15,7% so cùng kỳ; diện tích nuôi thủy sản khác đạt 3.020 ha tương đương so với cùng kỳ. Sản lượng thủy sản thu hoạch trong tháng đạt 24.215 tấn, tính chung 7 tháng đầu năm 2022 đạt 177.256 tấn, tăng 1,2% so cùng kỳ chủ yếu là tăng sản lượng nuôi trồng; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 99.146 tấn, tăng 5,7%; sản lượng khai thác 78.110 tấn, giảm 4,1%. Nguyên nhân sản lượng từ nuôi tăng do giá thủy sản ổn định và duy trì ở mức người nuôi có lãi, đặt biệt là giá tôm và cá tra thương phẩm từ sau Tết Nguyên đán giá cao nên người nuôi an tâm sản xuất; khai thác giảm do thời tiết trên biển những tháng đầu năm diễn biến không thuận lợi, cùng với giá xăng dầu tiếp tục tăng cao làm ảnh hưởng tiêu cực đến việc khai thác thủy sản trên biển. II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7/2022 giảm 3,09% so với tháng trước (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 3,48%, cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,11%, sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 1,94%;) và tăng 19,69% so cùng kỳ. Các ngành chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh sản xuất tăng hơn so cùng kỳ, trong đó: Sản xuất đồ uống tăng 2,2 lần; Sản xuất trang phục tăng 3,73%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 15,02%... Chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng đầu năm 2022 tăng 7,26% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,36%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 6,99%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,37%. Chỉ số sản xuất sản phẩm trong 7 tháng so cùng kỳ như sau: - Có 20/43 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) tăng 188,2%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 183,1%; Giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài tăng 82,7%; Đồ chơi hình con vật hoặc sinh vật không phải hình người tăng 82,6%; Bia đóng lon tăng 50,4%; Áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 44,6%; Bia đóng chai tăng 32,3%; Các sản phẩm bằng vật liệu tết bện khác tăng 29,4%; Cáp đồng trục và dây dẫn điện đồng trục tăng 11,2%; Ống và ống dẫn bằng đồng tăng 10,9%; Nước uống được tăng 5,1%; … - Có 23/43 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu, thuyền giảm 94,9%; Phanh và trợ lực phanh giảm 89,1%; Dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 53,2%; Máy chế biến thịt gia súc hoặc gia cầm giảm 35,7%; Cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép giảm 32,1%; Máy gặt đập liên hợp giảm 28,6%; Thức ăn cho thủy sản giảm 24,7%; Phi lê đông lạnh giảm 13,8%; Thức ăn cho gia súc giảm 7,9%; Giấy vệ sinh giảm 7%; Phân vi sinh giảm 5%;…Hình 2. Chỉ số sản xuất công nghiệp * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: - Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 7/2022 so với tháng trước giảm 4,71% và tăng 6,92% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 7 năm 2022 tăng 5,73%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: sản xuất đồ uống tăng 33,11%; dệt tăng 9,45%; sản xuất da tăng 8,95%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 33,17%; sản xuất sản phẩm cao su và plastic tăng 33,4%; Sản xuất kim loại tăng 54,64%;… Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 16,38%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 2,46%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 21,28%; sản xuất thiết bị điện giảm 27,48%,… - Chỉ số tồn kho tháng 7/2022 so với tháng trước tăng 18,58% và so với cùng kỳ giảm 39,13%. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 10,78%; Sản xuất đồ uống giảm 100%; Dệt giảm 19,08%; Sản xuất trang phục giảm 93,11%; Chế biến gỗ giảm 100%; Sản xuất giấy giảm 100%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 43,15%;… Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ: Sản xuất da tăng 1,9%; Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu bằng gấp 4,2 lần; Sản xuất kim loại tăng 13,97%; Sản xuất thiết bị điện tăng 43,85%; Chế biến, chế tạo khác tăng 115,64%;... * Tình hình thu hút đầu tư và phát triển các khu - cụm công nghiệp: - Khu công nghiệp: đến nay tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương quy hoạch 7 khu công nghiệp với tổng diện tích 2.083,5 ha; trong đó có 4 khu công nghiệp đi vào hoạt động. Trong tháng, Ban Quản lý các khu công nghiệp không cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới. Điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 03 lượt dự án tại các khu công nghiệp. Bảy tháng cấp giấy chứng nhận cho 03 dự án FDI, tổng vốn đầu tư đăng ký 23,3 triệu USD, diện tích đất cho thuê là 4,43 ha. Điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 16 lượt dự án, trong đó có 01 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn đầu tư với tổng vốn đầu tư tăng thêm là 33,0 triệu USD. Tổng vốn đầu tư đến hết tháng 7/2022 là 56,3 triệu USD, diện tích đất cho thuê thêm là 4,43 ha. Đến cuối tháng 7/2022, tổng số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp là 106 dự án, trong đó: có 79 dự án đầu tư nước ngoài; tổng vốn đầu tư là 2,3 tỷ USD và 4.545,8 tỷ đồng. Diện tích cho thuê của các doanh nghiệp đạt 522 ha/770 ha, chiếm tỷ lệ 67,8% diện tích các khu công nghiệp đang cho thuê. - Cụm công nghiệp: trên địa bàn tỉnh có 27 cụm công nghiệp được quy hoạch; trong đó có 5 cụm công nghiệp đang hoạt động. Tổng số dự án đầu tư tại các cụm công nghiệp đến nay là 79 dự án (trong đó: có 7 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 0,2 tỷ USD và 2.306 tỷ đồng, diện tích thuê đất là 88,7 ha, tỷ lệ lắp đầy đạt 73,6%. III. ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện trong tháng là 448,8 tỷ đồng, tăng 48,9% so cùng kỳ. Bảy tháng đầu năm 2022 thực hiện 2.069,9 tỷ đồng, đạt 53,4% kế hoạch, tăng 19,9% so cùng kỳ. Ngay từ đầu năm Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các sở, ngành, UBND các huyện, thành phố, thị xã nâng cao trách nhiệm trong quản lý đầu tư xây dựng công trình cũng như đẩy mạnh huy động các nguồn lực của các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển. Tình hình đầu tư công của tỉnh đã có những chuyển biến tích cực.. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh thực hiện 1.580,7 tỷ đồng, tăng 20,4% so cùng kỳ, chiếm 76,4% tổng số; trong đó: vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 319 tỷ đồng, tăng 31,2%, vốn xổ số kiến thiết thực hiện 767 tỷ đồng, tăng 12,7% so cùng kỳ... Các ngành các cấp yêu cầu các Ban quản lý dự án, Chủ đầu tư tập trung với cường độ cao hơn nhằm đẩy nhanh tiến độ đầu tư công, hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế của tỉnh. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện 364 tỷ đồng, tăng 15,5% so cùng kỳ, chiếm 17,6% tổng số; trong đó: vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 159 tỷ đồng, tăng 0,9% so cùng kỳ... Hiện nay nguồn vốn đầu tư của huyện, thành phố, thị xã thực hiện chủ yếu nguồn vốn phân cấp, tập trung cho các công trình, dự án giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp xã thực hiện 126 tỷ đồng, tăng 27,1% so cùng kỳ, chiếm 6% tổng số; trong đó: vốn huyện hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 80 tỷ đồng, tăng 19,7% so cùng kỳ... Đối với các công trình do Ban quản lý công trình xã làm chủ đầu tư thực hiện chủ yếu từ nguồn vốn phân cấp để thực hiện các công trình giao thông nông thôn, thủy lợi nội đồng phục vụ địa phương. Các ban quản lý công trình xã phường thị trấn đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình sớm đưa các công trình vào sử dụng nhằm phát huy hiệu quả công trình. Đồng thời phối hợp với các địa phương bàn biện pháp vận động, huy động nguồn vốn nhân dân đóng góp để tiến hành thi công các danh mục công trình đăng ký thuộc nguồn vốn phân cấp xã, phường. Các xã tập trung điều kiện đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình xây dựng nông thôn mới năm 2022 nhằm phục vụ đi lại và vận chuyển hàng hóa của người dân đồng thời phục vụ ra mắt xã nông thôn mới.Hình 3. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn sách do địa phương quản lý IV. THƯƠNG MẠI - GIÁ CẢ - DỊCH VỤ 1. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng: Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong tháng thực hiện 6.275 tỷ đồng, tăng 2,5% so tháng trước và tăng 64,2% so cùng kỳ. Bảy tháng đầu năm 2022, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thực hiện 44.339 tỷ đồng, đạt 62,4% kế hoạch, tăng 20,1% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 37.084 tỷ đồng, tăng 21,6%; lưu trú 24 tỷ đồng, tăng 36,2%; ăn uống 2.893 tỷ đồng, tăng 4,4 %; du lịch lữ hành 11 tỷ đồng, tăng 84,6%; dịch vụ tiêu dùng khác 4.327 tỷ đồng, tăng 22,6% so cùng kỳ.Hình 4. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng Hoạt động thương mại kinh doanh trên địa bàn tỉnh diễn ra ổn định, lượng hàng hóa cung ứng cho thị trường dồi dào, đáp ứng nhu cầu mua sắm của người dân. Giá xăng dầu ở mức cao là một trong nhiều nguyên nhân tác động giá cả một số mặt hàng tiêu dùng tăng so với cùng kỳ do chi phí vận chuyển tăng người dân tiết kiệm trong chi tiêu, Từ ngày 11/7/2022 giá xăng dầu điều chỉnh giảm trong tháng không xảy ra tình trạng tăng giá đột biến. 2. Xuất - Nhập khẩu: a. Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng thực hiện 281 triệu USD, giảm 34,9% so tháng trước; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 48,2 triệu USD, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 232,5 triệu USD. Bảy tháng xuất khẩu 2.328 triệu USD, đạt 69,5% kế hoạch, tăng 18% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 4 triệu USD, giảm 84,3%; kinh tế ngoài nhà nước 419 triệu USD, tăng 39%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.905 triệu USD, tăng 15,9% so cùng kỳ. Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của tỉnh như sau: - Thủy sản: ước tính tháng 7/2022 xuất 6.151 tấn với trị giá xuất 19,6 triệu USD. Bảy tháng xuất 63.827 tấn, tăng 21,8%, về trị giá 212,2 triệu USD, đạt 66,3% kế hoạch, tăng 86,9% so cùng kỳ. - Gạo: ước tính tháng 7/2022 xuất 11.854 tấn với giá trị 5,8 triệu USD. Bảy tháng xuất 59.158 tấn, giảm 47,6%, về trị giá 29,4 triệu USD, đạt 21% kế hoạch, giảm 52,4% so cùng kỳ. - Hàng dệt, may: ước tính tháng 7/2022 xuất 5.305 ngàn sản phẩm với giá trị 42,7 triệu USD. Bảy tháng xuất 61.198 ngàn sản phẩm, giảm 29,1%, về trị giá 309,9 triệu USD, đạt 51,7% kế hoạch, tăng 2,6% so cùng kỳ. - Kim loại thường và sản phẩm (kể cả đồng): ước tính tháng 7/2022 xuất 8.642 tấn với giá trị 93 triệu USD. Bảy tháng xuất 59.760 tấn, tăng 12,4%, về trị giá 648 triệu USD, tăng 31,6% so cùng kỳ. Ngoài các mặt hàng chủ yếu, trị giá xuất khẩu một số mặt hàng trong 7 tháng đầu năm 2022 như: giày dép các loại 424 triệu USD, tăng 24,6%; túi xách, ví, vali, mũ và ô dù 115 triệu USD, giảm 19,5%; sản phẩm từ chất dẻo 146 triệu USD, giảm 20,2% so cùng kỳ... b. Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng 7/2022 là 149 triệu USD. Bảy tháng, kim ngạch nhập khẩu 1.324 triệu USD, đạt 69,7% kế hoạch, tăng 16,7% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước nhập 76 triệu USD, tăng 19,6%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập 1.248 triệu USD, tăng 16,6% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng như nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 217 triệu USD, tăng 7,2%; kim loại thường khác 555 triệu USD, tăng 20,5%; vải các loại 139 triệu USD, tăng 5,7%; chất dẻo nguyên liệu 72 triệu USD, giảm 2,2% so cùng kỳ... 3. Chỉ số giá: Thực hiện Nghị định số 38/2022/NĐ-CP từ ngày 01/7/2022 lương tối thiểu vùng tăng thêm 6% đờ số công nhân, người lao động phần nào cải thiện. Tuy nhiên, cùng với đà tăng giá xăng dầu từ ngày 20/7 trở về trước tác động giá thức ăn chăn nuôi, chi phí vận chuyển tăng, đặc biệt thời gian gần đây thị trường tiêu thụ thịt lợn của Trung Quốc tăng, nên đẩy mạnh sức mua thịt lợn từ Việt Nam, làm cho giá thịt lợn trong nước tăng lên; cùng với đó, giá thịt bò, gia cầm, trứng các loại, thuỷ sản tươi sống giá tăng theo, từ những nguyên nhân trên, đã tác động đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2022 tăng 0,04% so tháng 6/2022 (thành thị tăng 0,03%, nông thôn tăng 0,05%) và tăng 3,28% so cùng kỳ. CPI bình quân bảy tháng đầu năm 2022 so cùng kỳ tăng 3,31%. So với tháng 6/2022, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 07 nhóm tăng: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,97%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,27%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,18%; bưu chính viễn thông tăng 0,03%; giáo dục tăng 0,03%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,29% và nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng 0,32%. Có 02 nhóm giảm: nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,03%; giao thông giảm 3,55%. Riêng nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm Thuốc, dịch vụ y tế chỉ số giá ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2022 tăng so tháng 6/2022 do: - Giá lương thực tăng 0,5%, hiện nay giá gạo xuất khẩu và giá vật tư phân bón, nguyên liệu đầu vào sản xuất đang ở mức cao, đóng góp vào mức tăng CPI chung tháng này ở mức 0,02% điểm phần trăm; - Chi phí đầu vào như: giá thức ăn, phân bón … tăng nên giá thịt lợn, thịt bò, thịt gia cầm, rau xanh, củ, quả... tăng lên, tác động nhóm thực phẩm trong tháng tăng 1,39%, đóng góp vào mức tăng CPI chung ở mức 0,26% điểm phần trăm. - Hiện nay đang vào mùa hè nhu cầu vui chơi giải trí, tham quan du lịch tăng, tác động giá các tuor du lịch tăng lên. - Dịch vụ giao thông công cộng tăng 0,24% so với tháng trước, trong đó: dịch vụ vận tải hành khách bằng xe taxi tăng 2,64% (Thực hiện Công văn số 04/CV/MLTG 2022 ngày 22/06/2022 của Công Ty TNHH Mai Linh Tiền Giang). Bên cạnh đó, một số mặt hàng có chỉ số giá giảm đã tác động đến chỉ số giá tháng 7/2022. - Giá điện sinh hoạt giảm 0,05%, nước sinh hoạt giảm 0,07% so với tháng trước, do hiện nay thời tiết đang vào mùa mưa, làm giảm nóng bức hơn so tháng trước, dẫn đến nhu cầu sử dụng điện, nước của người dân giảm, tác động giá giảm nhẹ. - Giá gas giảm 1,75%, tương ứng giảm 7.000 đồng/bình 12kg vào ngày 01/7/2022; giá dầu hoả giảm 1,33%, tương ứng giảm 3.540 đồng/lít, tác động đến nhóm gas và các loại chất đốt khác giảm 1,64% so với tháng trước, góp phần kềm hãm CPI chung tháng này ở mức 0,02% điểm phần trăm. - Trong tháng, giá xăng dầu bình quân giảm 8,26%, tương ứng giá xăng A95-III giảm 6.800 đồng/lít, xăng sinh học E5 giảm 6.230 đồng/lít và dầu diezen 0,05S giảm 5.160 đồng/lít so tháng trước, giá xăng dầu trong nước điều chỉnh giảm vào các ngày (ngày 01/7; 11/7 và ngày 21/7/2022), tác động nhóm nhiên liệu trong tháng 7/2022 giảm 8,26%, góp phần kềm hãm CPI chung tháng này ở mức 0,32% điểm phần trăm. Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm bình quân trong tháng giảm 2,44%. Hiện nay giá vàng bình quân duy trì ở mức 5.364.000 đồng/chỉ, tăng 171.000 đồng/chỉ so cùng kỳ. Chỉ số giá đô la Mỹ trong nước bình quân trong tháng tăng 0,59%. Hiện nay giá bình quân Đô la Mỹ duy trì ở mức 23.480 đồng/USD, tăng 369 đồng/USD so cùng kỳ. 4. Du lịch: Khách du lịch đến trong tháng 7/2022 ước tính được 75 ngàn lượt khách, tăng 4,2% so tháng trước. Doanh thu lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác trong tháng 7 đạt 1.144 tỷ đồng, tăng 8,4% so tháng trước và tăng 7,3 lần so cùng kỳ. Tính chung bảy tháng đầu năm 2022, lượt khách du lịch đến Tiền Giang là 367 ngàn lượt khách, đạt 40,7% kế hoạch và tăng 39,2% so cùng kỳ; trong đó: khách quốc tế 11 ngàn lượt khách, tăng 2,9 lần so cùng kỳ. Tổng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ lữ hành, hoạt động hỗ trợ du lịch dịch vụ tiêu dùng đạt 7.256 tỷ đồng, tăng 12,8% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ ăn uống chiếm tỷ trọng 39,9%, ước đạt 2.893 tỷ đồng, tương đương so cùng kỳ; lưu trú đạt 24 tỷ đồng, tăng 36,2% so cùng kỳ..., Hiện nay đang vào thời gian nghỉ hè, vì vậy các gia đình tranh thủ thời gian này để đi du lịch sau thời gian dài bị ảnh hưởng của dịch Covid-19; các tổ chức và cá nhân cũng tranh thủ để tổ chức và tham gia các tour đến các điểm du lịch trên cả nước, trong đó Tiền Giang là địa phương có nhiều điểm du lịch hấp dẫn cho hoạt động du lịch như: du lịch sông nước, du lịch tâm linh, du lịch sinh thái… 5. Vận tải: Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải trong tháng thực hiện 199 tỷ đồng, tăng 2,9% so tháng trước và tăng 2,3 lần so cùng kỳ. Bảy tháng thực hiện 1.212 tỷ đồng, tăng 14,9% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 308 tỷ đồng, tăng 10,7%; doanh thu vận tải hàng hóa thực hiện 779 tỷ đồng, tăng 17% so cùng kỳ, do tình hình Covid-19 được kiểm soát, các doanh nghiệp vận tải thích ứng an toàn. Doanh thu vận tải đường bộ thực hiện 561 tỷ đồng, tăng 9,7%; doanh thu vận tải đường thủy thực hiện 526 tỷ đồng, tăng 21,5%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 125 tỷ đồng, tăng 12,9% so cùng kỳ. Vận tải hành khách trong tháng đạt 2.916 ngàn hành khách, tăng 2,5% so tháng trước và tăng 5 lần so cùng kỳ; luân chuyển 54.377 ngàn hành khách.km, tăng 2% so tháng trước và tăng 8,1 lần so cùng kỳ. Bảy tháng, vận chuyển 18.542 ngàn hành khách, tăng 14,8% so cùng kỳ; luân chuyển 315.139 ngàn hành khách.km, tăng 5,5% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 8.432 ngàn hành khách, tăng 10,4% và luân chuyển 301.690 ngàn hành khách.km, tăng 5,1% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 10.110 ngàn hành khách, tăng 18,7% và luân chuyển 13.449 ngàn hành khách.km, tăng 15,6% so cùng kỳ. Vận tải hàng hóa trong tháng đạt 1.240 ngàn tấn, tăng 2% so tháng trước và tăng 81,7% so cùng kỳ; luân chuyển 162.979 ngàn tấn.km, tăng 2,1% so tháng trước và tăng 72,7% so cùng kỳ. Bảy tháng, vận tải 7.511 ngàn tấn hàng hóa, tăng 18,5% so cùng kỳ; luân chuyển 975.201 ngàn tấn.km, tăng 20,2% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 1.747 ngàn tấn, tăng 13,8% và luân chuyển 182.823 ngàn tấn.km, tăng 13,5% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 5.764 ngàn tấn, tăng 20% và luân chuyển 792.378 ngàn tấn.km, tăng 21,9% so cùng kỳ. * Công tác quản lý phương tiện giao thông: Trong tháng đăng ký mới 4.115 chiếc xe mô tô xe máy, 482 chiếc xe ô tô, 05 xe đạp điện và 06 xe khác. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.408.795 chiếc, trong đó mô tô xe máy 1.363.122 chiếc, xe ô tô 44.712 chiếc, 153 xe ba bánh, 296 xe đạp điện và 512 xe khác. 6. Bưu chính viễn thông: Doanh thu trong tháng 7/2022 đạt 281 tỷ đồng, tăng 0,7% so tháng trước và tăng 4% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 27 tỷ đồng, tăng 1,1%và viễn thông 254 tỷ đồng,tăng 0,6% so tháng trước. Bảy tháng doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 1.934 tỷ đồng, tăng 4,5% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 186 tỷ đồng, tăng 13,9% và viễn thông 1748 tỷ đồng, tăng 3,6% so cùng kỳ. Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 7/2022 là 111.427 thuê bao, mật độ bình quân đạt 6,3 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Thuê bao internet có trên mạng cuối tháng 7/2022 là 318.721 thuê bao, mật độ internet bình quân đạt 17,9 thuê bao/100 dân. Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa dẫn đến khách hàng dần chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Số thuê bao điện thoại di động có sử dụng internet (3G, 4G) đến cuối tháng 7 năm 2022 là 1.444.968 thuê bao. V.TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG 1. Tài chính: Tổng thu ngân sách nhà nước trong tháng thực hiện 1.162,1 tỷ đồng; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn 825 tỷ đồng, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 270 tỷ đồng. Bảy tháng, thu 11.785,8 tỷ đồng, đạt 89,3% kế hoạch, giảm 7,2% so cùng kỳ; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 825 tỷ đồng, đạt 66% dự toán và giảm 2,9% so cùng kỳ; thu nội địa 5.667 tỷ đồng, đạt 66,6% dự toán, giảm 1,2% so cùng kỳ (trong thu ngân sách trên địa bàn: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.784 tỷ đồng, đạt 64,9% dự toán, giảm 6,9% so cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 639 tỷ đồng, đạt 66,6% dự toán, giảm 1,1% so cùng kỳ...). Tổng chi ngân sách nhà nước trong tháng 1.275 tỷ đồng; trong đó: chi đầu tư phát triển 550 tỷ đồng. Bảy tháng, chi 7.798 tỷ đồng, đạt 63,5% dự toán, tăng 3,4% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 2.565 tỷ đồng, đạt 65,1% dự toán, tăng 23,5% so cùng kỳ; chi hành chính sự nghiệp 3.960 tỷ đồng, đạt 53% dự toán và tăng 9,2% so cùng kỳ. 2. Ngân hàng: Trong tháng, tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh ổn định góp phần tạo thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức tín dụng. Ngành Ngân hàng tiếp tục thực hiện vai trò hỗ trợ vốn cho các thành phần kinh tế phục hồi và phát triển trên cơ sở nghiêm túc thực hiện các biện pháp phòng chống dịch Covid-19. Đến cuối tháng 6/2022, vốn huy động đạt 86.565 tỷ, tăng 7.076 tỷ, tăng 8,9% so với cuối năm 2021, tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng (TCTD) trong tỉnh đạt 80.101 tỷ, tăng 8.210 tỷ, tăng 11,42% so với cuối năm 2021. Các tổ chức tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn cho 2.403 doanh nghiệp đang vay vốn với dư nợ 25.787 tỷ đồng, tăng 12% so với cuối năm 2021, chiếm 32,19% tổng dư nợ cho vay toàn tỉnh. Ước đến cuối tháng 7/2022, nguồn vốn huy động đạt 86.802 tỷ, tăng 9,20% so với cuối năm 2021; tổng dư nợ đạt 80.203 tỷ, tăng 11,56%. * Nợ xấu: đến cuối tháng 6/2022 là 687 tỷ đồng, tỷ lệ 0,86%, giảm 0,19% so với cuối năm 2021. Ước đến cuối tháng 7/2022, nợ xấu là 658 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 0.82%, giảm 0,23% so với cuối năm 2021. Quỹ tín dụng nhân dân: đến cuối tháng 6/2022, tổng nguồn vốn hoạt động đạt 1.400 tỷ đồng, tăng 145 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 11,6% so tháng 12/2021, trong đó vốn huy động tăng 13,1%, chiếm tỷ trọng 89% trong tổng nguồn vốn hoạt động. Dư nợ cho vay đạt 924 tỷ đồng, tăng 47 tỷ, tỷ lệ tăng 5,35%; từ đầu năm đến nay đáp ứng nhu cầu vốn cho 5.945 lượt thành viên vay vốn; trong đó, dư nợ ngắn hạn tăng 4,38% chiếm tỷ trọng 43% tổng dư nợ. Nợ xấu: số dư 3 tỷ đồng, giảm 477 triệu đồng, tỷ lệ nợ xấu 0,33%, tăng 0,07% so tháng 12/2021. VI. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Trong tháng, Hội đồng tư vấn giao trực tiếp tổ chức, cá nhân thực hiện 04 nhiệm vụ khoa học và công nghệ (KH&CN) (02 cấp tỉnh, 02 cấp cơ sở); Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định triển khai 01 nhiệm vụ cấp tỉnh; công nhận 01 nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở; gia hạn 06 nhiệm vụ KH&CN (03 cấp tỉnh, 03 cấp cơ sở); dừng triển khai 10 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh đã được phê duyệt theo danh mục giai đoạn 2018-2021 (Quyết định số 1823/QĐ-UBND ngày 04/7/2022). Đến cuối tháng 7/2022, triển khai 07 nhiệm vụ (03 cấp tỉnh, 04 cấp cơ sở); thẩm định nội dung 11 nhiệm vụ ( 05 cấp tỉnh, 06 cấp cơ sở); nghiệm thu giai đoạn 09 nhiệm vụ (04 cấp tỉnh, 05 cấp cơ sở); Quyết định triển khai 16 nhiệm vụ; Quyết định công nhận 12 nhiệm vụ và Gia hạn 10 nhiệm vụ KH&CN. VII. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Lao động việc làm: Trong tháng, tư vấn việc làm 3.183 lượt lao động được tư vấn, tăng 6% so với cùng kỳ; trong đó 196 lượt lao động được tư vấn nghề, 417 lượt lao động được tư vấn việc làm, 2.437 lượt lao động thất nghiệp được tư vấn việc làm, 133 lượt lao động được tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác; giới thiệu việc làm cho 529 lượt lao động, tăng 8% so với cùng kỳ; đã giới thiệu cho 132 lao động có được việc làm ổn định, tăng 51,7% so với cùng kỳ. Ngoài ra, công tác người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng tư vấn cho 117 lượt lao động; 03 lao động đăng ký tham gia; 68 lao động xuất cảnh chính thức (Nhật Bản 61 người, Đài Loan 07 người), tăng 68 người so với cùng kỳ. Tình hình lao động nghỉ việc, thất nghiệp: tiếp nhận 1.825 người lao động đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp, tăng 8,4% so với cùng kỳ; 1.755 người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 31,4% so với cùng kỳ với số tiền chi trả trên 35,5 tỷ đồng; 10.252 lượt lao động thất nghiệp được tư vấn, giới thiệu việc làm và 04 người lao động thất nghiệp đăng ký học nghề. Trong tháng, ghi nhận xảy ra 01 vụ ngừng việc tập thể tại 01 doanh nghiệp FDI trên địa bàn huyện Cái Bè. Ngày 05/7/2022, tại Công ty TNHH SBGEAR Cái Bè (vốn 100% Hàn Quốc, may ba lô, túi xách) có khoảng 397/397 lao động ngừng việc. Nguyên nhân ngừng việc do người lao động đề nghị tăng thêm phụ cấp xăng xe, chuyên cần, tay nghề vì giá xăng và các mặt hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày tăng cao; sửa chữa nhà để xe nhằm tránh mưa, nắng gây hư xe và cải thiện bữa ăn giữa ca. Công ty cam kết nhanh chóng sửa chữa nhà để xe và cải thiện bữa ăn; việc tăng các loại phụ cấp phải xin ý kiến lãnh đạo của Tổng Công ty. Đến ngày 07/7/2022, người lao động đã quay trở lại làm việc, tình hình lao động ổn định. 2. Chính sách xã hội: Về việc thực hiện hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 theo Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 08/10/2021, Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021, Quyết định số 33/2021/QĐ-TTg ngày 06/11/2021, Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021: có 144.532 người được phê duyệt và chi hỗ trợ người lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc nghỉ việc không hưởng lương, người lao động ngừng việc, người lao động chấm dứt hợp đồng lao động nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp với số tiền hỗ trợ trên 420 tỷ đồng. Về thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ: tiếp nhận hồ sơ đề nghị hỗ trợ cho 18.173 người lao động của 324 lượt đơn vị với số tiền trên 21 tỷ đồng, trong đó: đã phê duyệt hỗ trợ 3.863 người lao động của 91 lượt đơn vị, với số tiền 2,8 triệu đồng; hiện đã chi hỗ trợ cho 106 người lao động (đạt 2,8% so với số lao động được duyệt hỗ trợ), với số tiền 150 triệu đồng. Đang chờ phê duyệt hỗ trợ cho 5.913 người lao động của 151 lượt đơn vị, với số tiền là 5,39 tỷ đồng; Số còn lại (8.397 người lao động của 82 lượt đơn vị) đang kiểm tra, thẩm định hồ sơ. Trong tháng có 08/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận. So với cộng dồn cùng kỳ: Về số mắc, có 05 bệnh tăng (Bệnh liên cầu lợn ở người, Sốt xuất huyết, viêm gan siêu vi C, viêm gan khác, Covid-19); 11 bệnh giảm (Lao phổi, quai bị, Rubella, sởi, tay chân miệng, thương hàn, thủy đậu, tiêu chảy, uốn ván khác, viêm gan siêu vi B, viêm não vi rút khác); 28 bệnh tương đương và hoặc không xảy ra ca mắc. Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết: Trong tháng ghi nhận 1.171 ca mắc, không ghi nhận ca tử vong. Nâng tổng số ca mắc từ đầu năm 2.100 ca, tăng 40,1% so với cùng kỳ, 02 ca tử vong; Phòng chống HIV/AIDS: Tính đến thời điểm hiện tại có 6.251 người nhiễm HIV, 1.819 người chuyển sang AIDS, tử vong do AIDS là 1.247 người. Hoạt động khám chữa bệnh so với cùng kỳ: tổng số lần khám bệnh 355.378 lượt người tăng 33,7%; tổng số người điều trị nội trú 86.927 lượt người tăng 27,4%. Công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong tháng đạt 66%. 4. Hoạt động giáo dục: Trong tháng 7/2022 ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh đã tổ chức coi thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2022 khóa ngày 07 và 08/7/2022. Đăng ký dự thi 15.074 (giảm 1349 thí sinh so với năm 2021), 30 điểm thi được bố trí với 654 phòng thi, 19 phòng chờ; Tổ chức chấm thi từ ngày 10/7/2022 cho đến 22/7/2022; tổ chức xét tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2022 (sơ bộ); Tổ chức phúc khảo bài tuyển sinh lớp 10 năm học 2022-2023, công bố điểm chuẩn tuyển sinh lớp 10 năm học 2022-2023 với các trường có điểm chuẩn cao như: THPT chuyên (Anh 37,51 điểm; Hóa 33,25 điểm; Lý 29,50 điểm; Sinh 32,50 điểm; Tin (Toán) 38 điểm; Tin 28,40 điểm; Toán 38 điểm; Văn 38,50 điểm; Địa 30,50 điểm; Không chuyên 46,25 điểm), THPT Nguyễn Đình Chiểu 39,50 điểm; Nguyễn Đình Chiểu (MeKong) 34,75 điểm… 5. Hoạt động văn hóa - thể thao: Hoạt động bảo tàng: trưng bày cố định các chuyên đề phục vụ khách tham quan tại Bảo tàng tỉnh vật rưng bày cố định các chuyên đề theo tiến trình lịch sử tại các di tích trực thuộc: Khảo cổ Gò Thành, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Chiến thắng Ấp Bắc, Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút. Hoàn thành 05 di tích được UBND tỉnh công nhận năm 2000 gửi Hội đồng khoa học Bảo tàng để họp Hội đồng thẩm định. Trong tháng, Bảo tàng tỉnh và 4 di tích trực thuộc đã đón 2.486 lượt khách. Hoạt động văn hóa nghệ thuật: Hội diễn Tiếng hát hẹn hò 9 dòng sông năm 2022 diễn ra tại tỉnh Bến Tre, đạt 01 huy chương vàng và 02 huy chương bạc. Thực hiện 20 buổi chiếu phim tuyên truyền lưu động; 12 băng-rôn; 12 suất nhạc nước. Hoạt động thư viện: Thư viện tỉnh đã phối hợp với Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu tổ chức trưng bày giới thiệu hình ảnh, tác phẩm tiêu biểu của cụ Nguyễn Đình Chiểu nhân dịp tổ chức lễ khánh thành tượng danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và khánh thành nhà truyền thống của trường. Phối hợp với Trung tâm Văn hóa, Thể thao và Truyền thanh huyện Tân Phú Đông, Gò Công Tây tổ chức phục vụ “Chuyến xe tri thức”. Phối hợp với Trung tâm Văn hoá – Thể thao và Truyền thanh thị xã Cai Lậy chấm thi “Hội thi kể chuyện sách hè” thiếu nhi năm 2022. Phối hợp với Thành đoàn thành phố Mỹ Tho tổ chức chương trình phát triển kỹ năng cho học sinh qua hoạt động đọc sách và hoạt động hè. Trong tháng, Thư viện tỉnh đã phục vụ được 4.888 lượt bạn đọc, với 21.687 lượt sách báo được đưa ra lưu hành. Hệ thống thư viện huyện, thư viện xã đã tiếp được 28.934 lượt bạn đọc, với 80.756 lượt sách báo lưu hành. Hoạt động thể dục – thể thao trên địa bàn tỉnh tiếp tục duy trì và đạt được nhiều thành tích nổi bật, trong đó: Đội Bóng đá U17 tham dự giải Vô địch Bóng đá U17 quốc gia năm 2022, từ ngày 6/6 – 29/6/2022, kết quả đạt hạng IV/5 đội; Đội Điền kinh tham dự giải Điền kinh Tp Hồ Chí Minh mở rộng lần thứ 29 năm 2022, từ ngày 12/6 – 21/6/2022 tại Tp Hồ Chí Minh, kết quả đạt 01 Huy chương Bạc và 01 Huy chương Đồng; Đội Cầu lông tham dự giải Cầu lông các nhóm tuổi thiếu niên quốc gia năm 2022, từ ngày 19/6 – 26/6/2022 tại Tp Hồ Chí Minh, kết quả đạt 02 Huy chương Đồng; Đội Rowing tham dự giải Đua thuyền Rowing vô địch (VĐ) các Câu lạc bộ toàn quốc năm 2022, từ ngày 16/6 – 26/6/2022 tại Đà Nẵng, kết quả thi đấu đạt 01 Huy chương Đồng; Đội Võ cổ truyền tham dự giải VĐ Trẻ và Thiếu niên Võ Cổ truyền toàn quốc thứ XXIII năm 2022, từ ngày 17/6 – 26/6/2022 tại Đồng Nai, kết quả đạt 02 Huy chương Bạc, 03 Huy chương Đồng; Đội Muay tham dự giải VĐ Muay trẻ quốc gia năm 2022, từ ngày 19/6 – 30/6/2022 tại Bà Rịa Vũng Tàu, kết quả đạt 01 Huy chương Vàng, 03 Huy chương Đồng; Đội Vovinam tham dự giải VĐ trẻ Vovinam toàn quốc lần thứ 19 năm 2022, từ ngày 21/6 – 30/6/2022 tại Quảng Nam, kết quả đạt 01 Huy chương Vàng, 03 Huy chương Đồng; Đội Cử tạ tham dự giải Vô địch Cử tạ trẻ quốc gia năm 2022, từ ngày 23/6 – 30/6/2022 tại Bạc Liêu, kết quả đạt 10 Huy chương Vàng, 04 Huy chương Bạc, 01 Huy chương Đồng; Đội Kickboxing tham dự giải VĐ trẻ toàn quốc môn Kickboxing năm 2022, từ ngày 29/6 – 10/7/2022, kết quả đạt 01 Huy chương Bạc, 02 Huy chương Đồng. 6. Tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội (Theo báo cáo của ngành công an): Trong tháng, tội phạm về trật tự xã hội ghi nhận 56 vụ, tăng 06 vụ so với tháng 6/2022, làm chết 01 người, bị thương 11 người, tài sản thiệt hại khoảng 1,6 tỷ đồng. Khám phá 34 vụ đạt 60,7%, bắt xử lý 65 đối tượng, thu hồi tài sản khoảng 545 triệu đồng, cộng dồn 7 tháng năm 2022 ghi nhận 349 vụ; khám phá 259 vụ đạt 74,2%, xử lý 353 đối tượng. Phát hiện, xử lý 19 tụ điểm cờ bạc, 139 đối tượng liên quan; 10 vụ với 12 đối tượng có hành vi tàng trữ, mua bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và xử lý vi phạm hành chính 84 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; 13 vụ với 15 đối tượng vi phạm pháp luật về kinh tế. 7. Trật tự an toàn giao thông (Theo báo cáo của ngành công an): Tai nạn giao thông đường bộ:Tai nạn giao thông trong tháng xảy ra 31 vụ, giảm 11 vụ so tháng trước và giảm 15 vụ so cùng kỳ, làm chết 22 người, giảm 06 người so tháng trước và giảm 05 người so cùng kỳ, bị thương 16 người, giảm 03 người so tháng trước và giảm 06 người so cùng kỳ. Nâng tổng số vụ từ đầu năm đến nay 231 vụ, làm chết 165 người và bị thương 106 người. Ước thiệt hại tài sản chung trị giá khoảng 3.077 triệu đồng. Các nguyên nhân gây nên tai nạn giao thông chủ yếu vẫn do ý thức chấp hành Luật giao thông đường bộ của người tham gia giao thông như: Không làm chủ tốc độ; đi không đúng phần đường, làn đường; uống rượu say; lỗi do người đi bộ; chuyển hướng không đúng quy định; vượt không đảm bảo an toàn… Tai nạn giao thông đường thủy:Trong tháng không xảy ra vụ tai nạn tương đương so tháng trước và giảm 01 vụ so cùng kỳ. Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 02 vụ tai nạn, làm 02 người chết, không phát sinh người bị thương. 8. Tình hình cháy nổ, môi trường: Trong tháng trên địa bàn tỉnh ghi nhận 02 vụ cháy xảy ra tại huyện Tân Phước và Châu Thành, tài sản thiệt hại khoảng 27 tỷ đồng; nguyên nhân xác định ban đầu do chập điện. Tổng số vụ cháy 7 tháng năm 2022 là 10 vụ, giảm 11 vụ so cùng kỳ, thiệt hại 30,5 tỷ đồng. Về lĩnh vực môi trường, không xảy ra vụ vi phạm về môi trường, giảm 02 vụ so với cùng kỳ. Từ đầu năm đến nay là 12 vụ, giảm 5 vụ so với cùng kỳ với số tiền xử phạt trên 1,7 tỷ đồng.
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Tiền Giang 6 tháng đầu năm 2022 tăng 4,1% so cùng kỳ
- 18/06/2024 15:20
Kinh tế của tỉnh sáu tháng đầu năm 2022, đang trên đà phục hồi và tăng trưởng tích cực, các ngành các cấp tập trung thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế khôi phục sản xuất. Các hoạt động văn hóa, xã hội, vui chơi giải trí dần được khởi sắc trở lại; công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 thực hiện tốt theo đúng tinh thần chỉ đạo của Trung ương, đến thời điểm hiện tại đã khống chế được dịch, bệnh. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm ước đạt 29.781 tỷ đồng (giá so sánh 2010), tăng 4,1% so cùng kỳ (quí 1 tăng 2,41%, quí 2 tăng 5,81%), tăng cao hơn cùng kỳ 1,94%; khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,84%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,43% và khu vực dịch vụ tăng 3,26 % (bao gồm thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); Nếu tách riêng thuế sản phẩm thì khu vực dịch vụ tăng 4,4 % và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm giảm 1,9% so cùng kỳ. Trong 4,1% tăng trưởng thì khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 1,43%, khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 1,55%, khu vực dịch vụ đóng góp 1,24% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm làm giảm 0,12%. Tuy tốc độ tăng trưởng còn thấp so với kế hoạch cả năm (tăng từ 6 đến 7%), nhưng đạt được kết quả trên là quyết tâm rất lớn của lãnh đạo địa phương, các ngành, các cấp trong chỉ đạo điều hành, cộng với sự đồng lòng, phấn đấu vượt qua khó khăn của các cơ sở kinh tế và nhân dân trong tỉnh. GRDP nếu tính theo giá hiện hành đạt 52.479 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế: Tiếp tục chuyển dịch theo đúng định hướng, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 38,2% (cùng kỳ 39,3%); khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 27,9% (cùng kỳ 26,5%); khu vực dịch vụ chiếm 28,1% (cùng kỳ 28%); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,8% (cùng kỳ 6,2%). Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: 6 tháng đầu năm 2022 tăng 3,84% so với 6 tháng đầu năm 2021; trong đó nông nghiệp tăng 3,72%. Trồng trọt có nhiều thuận lợi, mưa đến sớm hơn cùng kỳ năm 2021, công tác phòng chống hạn mặn được lãnh đạo các ngành, các cấp triển khai sớm, nên diện tích bị thiệt hại do hặn, mặn không nhiều. Trà lúa Đông Xuân năm nay phát triển tốt, năng suất bình quân ước tính đạt 71,2 tạ/ha, tăng 0,1 tạ/ha so cùng kỳ; Tuy nhiên do diện tích gieo sạ giảm 2.455 ha nên sản lượng thu hoạch giảm 4,7% so cùng. Các vườn cây ăn trái ở các huyện phía Tây chịu tác động của hạn, mặn năm 2020 được nông dân chăm sóc, từng bước được phục hồi. Giá phân bón tăng cao so cùng kỳ, trong khi giá bán sản phẩm đầu ra lại giảm nhất là Thanh long và Mít do xuất khẩu sang Trung quốc gặp khó khăn, nên nông dân có lãi không nhiều, mức độ đầu tư cho sản xuất của nông dân có giảm. Trong lĩnh vực chăn nuôi, dịch tả lợn châu Phi tuy được kiểm soát tốt nhưng còn xảy ra ở một số địa phương, giá thức ăn tăng cao, giá bán sản phẩm đầu ra giảm nên việc tái đàn trên địa bàn tỉnh còn chậm. Ước tính đến thời điểm 01/6/2022 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 124,2 ngàn con, tăng 2,4% so cùng kỳ; đàn lợn 280,2 ngàn con, tăng 3,3% so cùng kỳ; đàn gia cầm 16,9 triệu con, giảm 3% so cùng kỳ. Ngành thủy sản tăng 4,74% so cùng kỳ, tăng chủ yếu ở sản lượng nuôi trồng; Giá thủy sản ổn định và duy trì ở mức người nuôi có lãi, đặt biệt là giá tôm và cá tra thương phẩm, từ sau tết Nguyên đán cho đến nay vẫn đang duy trì ở mức khá cao đã góp phần tạo động lực cho người dân trên địa bàn tỉnh đầu tư sản xuất, sản lượng nuôi trồng tăng 9,3%. Hoạt động khai thác thủy sản còn nhiều khó khăn do giá nhiêu liệu tăng cao, chi phí nhiên liệu cho hoạt động khai thác chiếm khoảng 70% trong tổng chi phí đánh bắt thủy sản, do giá nhiên liệu tăng nên ảnh hưởng đến thu nhập ngư dân. Lượng tàu ra khơi những tháng đầu năm 2022 thấp hơn so với cùng kỳ năm 2021 khoảng 20 - 30% do ảnh hưởng của dịch Covid-19 (quí I) dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp, thiếu thuyền viên,... Sản lượng khai thác giảm 0,1% so cùng kỳ. Khu vực công nghiệp - xây dựng: tăng 5,43% so với 6 tháng đầu năm 2021; trong đó công nghiệp tăng 5,03%. Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh từng bước phục hồi, nhưng còn khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, nguyên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất ... do tác động của dịch Covid – 19 và giá nhiên liệu tăng, nhưng có dấu hiệu khởi sắc qua kết quả sản xuất trong 6 tháng đầu năm, quí I tăng 2,93%, quí II tăng 7,12%. Một ngành có chỉ số sản xuất tăng cao so cùng kỳ như: sản xuất đồ uống tăng 31,98%, sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 27,96%, sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 55,64% ... Cộng với nhà máy điện gió Tân Phú Đông 2 đi vào hoạt động góp phần làm cho công nghiệp của tỉnh tăng so với cùng kỳ. Ngành xây dựng tăng 7,81%, là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng tốt nhất trong 6 tháng đầu năm 2022. Hoạt động xây dựng tăng cao là do 6 tháng cuối năm 2021 trên địa bàn tỉnh thực hiện giản cách xã hội để phòng chống dịch Covid – 19 nên các công trình tạm dừng hoạt động hoặc chỉ hoạt động cầm chừng. Đến quí I năm 2022 tiêm ngừa vacin phòng chống covid đã được bao phủ, các hoạt động được phép mở cửa trở lại nên nhu cầu xây dựng trong dân tăng. Mặc khác, trên địa bàn tỉnh có nhiều công trình trọng điểm của địa phương và trung ương đang được triển khai như: Dự án cao tốc Trung lương – Mỹ Thuận, Bệnh viện đa khoa tỉnh, Dự án điện gió Tân Phú Đông 1, dự án thành phần xây dựng Cầu Mỹ Thuận 2 ... Khu vực dịch vụ: Thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, các hoạt động thương mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh được phép hoạt động trở lại theo lộ trình với qui mô phù hợp nhằm đảm bảo công tác phòng chống dịch. Hoạt động của các ngành trong khu vực dịch vụ trên địa bàn tỉnh từng bước khởi sắc, quí I tăng 2,38%, quí II tăng 6,39%, sáu tháng đầu năm tăng 4,4% so cùng kỳ. Thời điểm tháng 1, tháng 2 dịch Covid-19 diễn biến phức tạp tại nhiều tỉnh, thành phố trước biến chủng mới Omiron xuất hiện, do đó nhiều chương trình du lịch của các hãng lữ hành chưa hút khách, hoạt động của các cơ sở du lịch trên địa bàn tỉnh chưa được phép hoạt động. Đến tháng 3 tình hình dịch Covid 19 dần được kiểm soát, Ủy ban nhân dân tỉnh cho phép các cơ sở du lịch hoạt động trở lại, lượt khách đến tỉnh liên tục tăng qua từng tháng, nhất là dịp lễ 30 tháng 4 và 1 tháng 5 năm 2022, tốc độ tăng trưởng của ngành du lịch lịch lữ hành 6 tháng đầu năm tăng 24,78% so cùng kỳ (quí I giảm 12,27%, quí II tăng 89,7%). Tuy nhiên có một số ngành còn giảm so với cùng kỳ như: Dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 14,79%; Vận tải kho bãi tiếp tục gặp khó khăn, ngoài tác động của dịch covid 19, giá xăng dầu từ đầu năm đến nay liên tục tăng cao làm cho hoạt động của ngành này càng khó hơn, 6 tháng đầu năm giảm 0,94% so cùng kỳ ... Bên cạnh đó có một số ngành tăng khá so cùng kỳ như: Hoạt động tài chính ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,45%; Hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 5,5%; Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy tăng 8,5%; Hoạt động hành chí và dịch vụ hỗ trợ tăng 7,16% ... Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 6 tháng đầu năm giảm 1,9% so cùng kỳ./. N.V.Tròn