0273.3 872582 | tiengiang@gso.gov.vn
Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2022
  •   18/06/2024 15:45

MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2022(Được Hội đồng nhân dân tỉnh Tiền Giang khóa X, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 08 tháng 12 năm 2021)            1. Các chỉ tiêu kinh tế:           - Tốc độ tăng trưởng kinh tế (theo giá so sánh 2010) tăng từ 6,0 – 7,0% so với năm 2021;           - GRDP bình quân đầu người đạt 60,24 triệu đồng;           - Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 3,35 tỷ USD;           - Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 41.750 tỷ đồng;      - Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 8.828 tỷ đồng;      - Tổng chi ngân sách địa phương 12.287,9 tỷ đồng;      - Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới đạt 670 doanh nghiệp.            2. Các chỉ tiêu xã hội:           - Giải quyết việc làm cho 12.000 lao động;      - Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 52,5%;      - Tỷ lệ hộ nghèo giảm 0,2 điểm % so năm 2021;      - Tỷ lệ đô thị hóa đạt 15,13%;      - Xây dựng 12 xã đạt chuẩn nông thôn mới; 11 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 02 xã nông thôn mới kiểu mẫu; 01 huyện đạt chuẩn nông thôn mới;      - Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 93%;      - Phấn đấu tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tham gia bảo hiểm xã hội đạt 29%;      - Số bác sĩ/vạn dân đạt 7,4 bác sĩ;      - Số giường bệnh/vạn dân đạt 24 giường;      - Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng xuống dưới 12,4;      - Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi là 9,40/00; tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi là 10,90/00;     - Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học mẫu giáo đạt 86%;- Tuyển sinh mới đào tạo bậc cao đẳng khoảng 1.035 sinh viên và bậc trung cấp 2.035 học sinh.            3. Các chỉ tiêu môi trường:           - Tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh 100%;           - Tỷ lệ hộ dân đô thị được sử dụng nước sạch đạt 99,7%;           - Tỷ lệ chất thải rắn đô thị được thu gom và xử lý đạt 98%;      - Tỷ lệ cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường trên 90%.                                                                                                                        N.V.Tròn

Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang năm 2021
  •   18/06/2024 15:48

Năm 2021 là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021-2030), Kế hoạch 5 năm (2021-2025) và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI. Ngay từ đầu năm Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành kế hoạch, hành động, đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội với kết quả cao nhất. Song độ tình hình dịch bệnh Covid-19 trong nước tái bùng phát lần thứ 4 xảy ra từ cuối tháng 4/2021 với tốc độ lây lan nhanh và kéo dài đến nay đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, sức khỏe của người dân và hoạt động sản xuất kinh doanh. Công tác phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh được chủ động thực hiện theo các giải pháp phòng chống dịch theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ ngành Trung ương, của Tỉnh ủy; tuy nhiên biến chủng mới lây lan nhanh diễn biến phức tạp nên gặp rất nhiều khó khăn trong công tác phòng chống dịch. Trước tình hình đó, với sự quyết tâm cao nhất của cả hệ thống chính trị, nhân dân trong tỉnh, cộng đồng doanh nghiệp và lực lượng tuyến đầu chống dịch đã phát huy tinh thần đoàn kết, đồng lòng, chung sức, huy động mọi nguồn lực để đẩy lùi dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe, chăm lo, ổn định đời sống cho người dân và nỗ lực duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong năm 2021 như sau:  I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ  1. Tăng trưởng kinh tế (GRDP):  Tình hình sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh chịu tác động mạnh của dịch covid 19, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân trong tỉnh. Lãnh đạo địa phương đã đưa ra nhiều giải pháp theo từng thời điểm, nhằm giảm bớt thiệt hại cho nhân dân, điều hành phát triển kinh tế - xã hội vượt qua khó khăn. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2021 ước đạt 58.865 tỷ đồng, (giá so sánh năm 2010) giảm 0,72% (1) so với cùng kỳ, khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,66%, khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 1,12% và khu vực dịch vụ giảm 2,87% (bao gồm thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); Nếu tách riêng thuế sản phẩm thì khu vực dịch vụ giảm 2,36 % và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm giảm 5,26% so cùng kỳ.  GRDP nếu tính theo giá thực tế đạt 100.315 tỷ đồng; GRDP bình quân đầu người đạt 56,4 triệu đồng/người/năm, tăng 0,3 triệu đồng/người/năm so năm 2020 (năm 2020 đạt 56,1 triệu đồng/người/năm). Tính theo giá USD, GRDP bình quân đầu người năm 2021 đạt 2.405 USD/người/năm, tăng 1,7%, tương đương tăng 41 USD so năm 2020 (năm 2020 đạt 2.446 USD/người/năm).  Cơ cấu kinh tế: chuyển dịch chậm nhưng theo đúng định hướng, tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và giảm tỷ trọng nông nghiệp. Năm 2021 khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 38,6% giảm 0,2% (cùng kỳ 38,8%); khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 26,9%, tăng 0,7% (cùng kỳ 26,2%); khu vực dịch vụ chiếm 28,7%, giảm 0,2% (cùng kỳ 28,9%); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,8%, giảm 0,3% (cùng kỳ 6,1%).  2. Tài chính - Ngân hàng:  a. Tài chính:  Trong năm 2021, tình hình dịch Covid-19 vẫn diễn ra phức tạp đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Tiền Giang nói riêng, đồng thời Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52/2021/NĐ-CP ngày 19/4/2021 về việc gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2021 để tháo gỡ khó khăn cho người nộp thuế, từ đó đã tác động không nhỏ đến tình hình nộp ngân sách nhà nước.  Thu ngân sách nhà nước: năm 2021 ước thu được 8.630 tỷ đồng, giảm 22,4% so cùng kỳ; trong đó: thu nội địa 8.210 tỷ đồng, đạt 79,2% dự toán, giảm 24,6% so cùng kỳ.  Chi ngân sách nhà nước: năm 2021 ước chi 16.114 tỷ đồng, đạt 131,5% dự toán, giảm 2,3% so cùng kỳ. Ủy ban nhân dân tỉnh đã huy động tất cả nguồn lực hiện có của địa phương để kịp thời bố trí kinh phí cho các đơn vị.  Chi đầu tư phát triển: thực hiện giao dự toán vốn đầu tư ngay từ đầu năm và các Chủ đầu tư dự án trên địa bàn tỉnh hoàn thành tốt công tác chuẩn bị đầu tư nên việc đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công. Ước chi đầu tư phát triển năm 2021 là 3.330 tỷ đồng, đạt 89,9% dự toán năm.  Trước diễn biến rất phức tạp của dịch bệnh Covid-19, đến thời điểm báo cáo, Ủy ban nhân dân tỉnh đã bố trí kinh phí phòng, chống dịch Covid-19 với tổng số tiền là 935,9 tỷ đồng và dự kiến nhu cầu thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021, Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 08/10/2021 của Chính phủ và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 khoảng 754 tỷ đồng.  b. Ngân hàng:  Hoạt động Ngân hàng, chịu ảnh hưởng lớn khi các đối tượng khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh trong đó có các doanh nghiệp, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến việc hoàn thành kế hoạch kinh doanh. Trong năm, hoạt động Ngân hàng trên địa bàn tỉnh tiếp tục hoạt động ổn định, diễn biến tiền tệ tín dụng trên địa bàn thông suốt, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay tiếp tục giảm so với cuối năm 2020. Qua đó góp phần giảm bớt khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế nhất là trong bối cảnh các thành phần kinh tế chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh Covid-19.  Về huy động vốn: đến cuối tháng 10/2021, tổng vốn huy động 77.132 tỷ đồng, tốc độ tăng 1,69% so với cuối năm trước, tốc độ tăng bình quân là 0,17%/ tháng. Ước đến cuối năm 2021, vốn huy động 78.883 tỷ đồng, đạt 95,4% so kế hoạch, tăng 4% so cuối năm 2020. Do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên tăng trưởng vốn huy động (VHĐ) rất thất thường. Trong 2 tháng đầu năm, VHĐ tăng trưởng giảm so với cuối năm trước. Sang tháng 3, VHĐ bắt đầu tăng trưởng, tăng liên tục cho đến tháng 10 nhưng vẫn ở mức rất thấp so với cùng kỳ các năm trước. Nếu xét riêng trong quý 3, đến tháng 7 là thời điểm dịch bùng phát mạnh nhất trên địa bàn tỉnh nên VHĐ bắt đầu giảm so với tháng trước (tháng 7 giảm 0,74% so với tháng 6, tháng 9 giảm 0,10% so với tháng 8, tháng 10 giảm 0,68% so với tháng 9).  Về dư nợ: Nếu tính riêng quý 3 và tháng 10/2021, tín dụng toàn tỉnh giảm 3,21% so với quý 2/2021. Do ngành ngân hàng chịu tác động của dịch trong bối cảnh tỉnh duy trì giãn cách xã hội trong thời gian dài. Nhưng cũng có thể thấy, đến tháng 10, tín dụng có dấu hiệu đang hồi phục, tăng 0,39% so với cuối tháng 9/2021. Cuối tháng 10/2021, tổng dư nợ 68.995 tỷ đồng, tăng là 7,24% so với cuối năm 2020, mức tăng bình quân là 0,71%/ tháng. Ước đến cuối năm 2021, dư nợ tín dụng 70.732 tỷ đồng, tăng 10% so cuối năm 2020.  Nợ xấu: đến cuối tháng 10/2021, nợ xấu là 826 tỷ đồng, tỷ lệ là 1,2%, giảm 0,05% so cuối năm 2020 và tăng 0,2% so với cuối tháng 6/2021 là thời điểm dịch bệnh bắt đầu bùng phát trên địa bàn tỉnh. Ước đến cuối tháng 11/2021, nợ xấu là 850 tỷ đồng, tỷ lệ 1,22%, giảm 0,02% so với cuối năm 2020  Quỹ tín dụng nhân dân: hoạt động ổn định, các chỉ tiêu điều đạt mức tăng trưởng. Tổng nguồn vốn huy động đến cuối tháng 10/2021 là 1.232 tỷ đồng, tăng 101 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 8,9% so đầu năm. Tổng dư nợ cho vay 843 tỷ đồng, giảm 7,3 tỷ đồng, tỷ lệ giảm 0,9% so đầu năm. Nợ xấu là 5,6 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 0,67%, tăng 0,3% so đầu năm.  - Kết quả thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19Về Chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN:  Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ cho khách hàng chịu ảnh hưởng bỡi dịch Covid-19. Đến hết ngày 31/10/2021, trên địa bàn đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho 2.730 khách hàng với giá trị nợ gốc và lãi được cơ cấu lũy kế từ 23/01/2020 là 1.740 tỷ đồng.Chính sách giảm lãi suất cho vay (LSCV) đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19  Từ đầu năm 2021, NHNN đã chủ động cân đối khả năng tài chính để áp dụng lãi suất cho vay hợp lý, tiết giảm chi phí hoạt động để tập trung nguồn lực giảm lãi suất cho vay đối với dư nợ hiện hữu và các khoản cho vay mới góp phần hỗ trợ đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua khó khăn.  Tính đến nay, các TCTD đã miễn, giảm, hạ lãi suất cho trên 93.000 khách hàng với dư nợ trên 31.177 tỷ đồng.  Từ 13/3/2020 đến hết 31/10/2021, tổng số tiền lãi TCTD đã miễn, giảm, hạ cho khách hàng hơn 236 tỷ đồng. Trong đó, đã miễn, giảm, hạ lãi suất cho hơn 882 lượt DN với dư nợ trên 10.891 tỷ đồng.Chương trình cho vay trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ (sửa đổi bổ sung tại Nghị quyết 126/NQ-CP ngày 08/10/2021) và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ (sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 33/2021/QĐ-TTg ngày 06/11/2021): Đến nay đã giải ngân cho vay 22 doanh nghiệp với 1.056 lượt lao động được trả lương với dư nợ 3.947 triệu đồng, thời gian cho vay 11 tháng, lãi suất 0%/năm.  - Kết quả hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn  Đến cuối tháng 10/2021, tổng dư nợ bị ảnh hưởng là 25,33 tỷ đồng, hỗ trợ thông qua các biện pháp như: (i) Cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 4 khách hàng với dư nợ được cơ cấu là 413 triệu đồng, (ii) Cho vay mới cho 276 khách hàng với doanh số cho vay lũy kế 7,84 tỷ đồng.  - Kết quả cho vay thu mua tạm trữ thóc gạo năm 2021  Đến cuối tháng 10/2021, trên địa bàn tỉnh có 11 chi nhánh NHTM cho vay lĩnh vực lúa gạo. Từ đầu năm đến nay, các NHTM đã cấp hạn mức tín dụng 10.223 tỷ đồng cho các doanh nghiệp, thương nhân thu mua tạm trữ thóc, gạo, đã giải ngân với tổng doanh số cho vay lũy kế 18.915 tỷ đồng để thu mua 2.474.401 tấn thóc gạo. Dư nợ thu mua, tiêu thụ đạt 7.388 tỷ đồng, chiếm 72,27% hạn mức được cấp, chiếm 10,71% tổng dư nợ toàn tỉnh.  3. Giá, lạm phát:  Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2021 tăng 0,01% so tháng 11/2021 (thành thị tăng 0,07%, nông thôn 100%), Bình quân năm 2021, CPI tăng 2,83% so với cùng kỳ năm 2020. Như vậy, tại địa phương mục tiêu kiểm soát lạm phát giữ CPI bình quân năm 2021 dưới 4% đã đạt được (bình quân 1 tháng CPI tăng 0,23%), trong bối cảnh tỉnh Tiền Giang cùng với cả nước đang chống chọi lại cơn đại dịch Covid-19 kéo dài, gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và người dân...  4. Đầu tư và Xây dựng:  Giá trị gia tăng ngành xây dựng năm 2021 tăng 3,9% so cùng kỳ, 6 tháng đầu năm có nhiều thuận lợi, tăng 12,4% do trên địa bàn tỉnh có nhiều công trình trọng điểm của địa phương và trung ương tiếp tục thi công trong mùa dịch như: dự án cao tốc Trung lương – Mỹ Thuận, cầu Mỹ Thuận 2, bệnh viện Đa khoa tỉnh Tiền Giang, điện gió Tân Phú Đông 1, điện gió Tân phú Đông 2 ... Quí III do phải giãn cách xã hội để phòng chống dịch covid – 19, một số công trình tạm dừng hoạt động nên tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng trong quí III giảm 11,62% so cùng kỳ, đến quí IV các công trình xây dựng hoạt động trở lại, dự báo tăng 6,92%... Khó khăn hiện nay là giá sắt thép, vật liệu xây dựng tăng cao, dịch covid còn diễn biến phức tạp, vừa sản xuất vừa phải đảm bảo phòng chống dịch nên ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng của các công trình.  Năm 2021, vốn đầu tư toàn xã hội ước thực hiện 38.016 tỷ đồng, đạt 98,5% kế hoạch, tăng 3,5% so cùng kỳ; trong đó: vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 24.354 tỷ đồng, tăng 7,3%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.965 tỷ đồng, giảm 33,6%, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 4.957 tỷ đồng, giảm 17,5% so cùng kỳ.  Năm 2021, vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý là 3.821 tỷ đồng, đạt 100,1% kế hoạch, giảm 29,9% so cùng kỳ; gồm có: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 3.010 tỷ đồng, giảm 26,8%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 515 tỷ đồng, giảm 42,5%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 296 tỷ đồng, giảm 33,9% so cùng kỳ.  - Tình hình thu hút đầu tư:  Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của tỉnh Tiền Giang năm 2020 đạt đươc 62,8 điểm xếp hạng 45 của cả nước và hạng 9 vùng đồng bằng sông Cửu Long, thứ hạng của tỉnh Tiền Giang chưa có nhiều thay đổi thứ bậc một cách đáng kể trong nhiều năm qua. Điểm số này chưa đạt được sự kỳ vọng của lãnh đạo Tỉnh và cộng đồng doanh nghiệp đã nỗ lực trong thời gian qua.  Dự kiến cả năm tỉnh thu hút được 15 dự án, với tổng vốn đầu tư đăng ký 1.827,4 tỷ đồng, bằng 11,2% so cùng kỳ; nâng tổng vốn đầu tư ước thực hiện năm 2021 đạt 5.942,1 tỷ đồng, bằng 34,1% so với thực hiện năm 2020.  - Tình hình phát triển các khu, cụm công nghiệp:  Tiền Giang được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương quy hoạch 7 KCN với tổng diện tích đất quy hoạch là 2.083,5 ha, trong đó có 4 khu: KCN Mỹ Tho, Tân Hương, Long Giang, Dịch vụ Dầu khí Soài Rạp đang hoạt động với diện tích 1.101,5 ha, chiếm 52,9% diện tích quy hoạch KCN. Đến nay các KCN thu hút được 106 dự án (trong đó có 77 dự án FDI) với tổng vốn đầu tư trên 2,2 tỷ USD và 4.575,8 tỷ đồng; diện tích thuê 518,9/770,1 ha, chiếm 67,3%.  Về cụm công nghiệp, đến nay, có 27 CCN được tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư, trong đó có 5 cụm công nghiệp đã mời gọi được nhà đầu tư gồm: CCN Trung An, Tân Mỹ Chánh, An Thạnh, Song Thuận, Gia Thuận 1 đã hoàn thành đầu tư hạ tầng, đang hoạt động ổn định. Tính đến thời điểm hiện tại đã thu hút được 79 dự án thứ cấp (trong đó có 6 dự án FDI), với tổng vốn đầu tư đăng ký 5.626,7 tỷ đồng, với diện tích thuê đất là 89,78 ha/120,6 ha đạt tỷ lệ 74,5% diện tích đất công nghiệp cho thuê.  Giá trị sản xuất ngành xây dựng năm 2021 (giá so sánh 2010), thực hiện 10.852 tỷ đồng, tăng 4% so cùng kỳ; trong đó: doanh nghiệp ngoài nhà nước thực hiện 5.538 tỷ đồng, tăng 20,5%; loại hình khác thực hiện 5.305 tỷ đồng, tăng 3,6% so cùng kỳ. Theo giá hiện hành, giá trị sản xuất ngành xây dựng năm 2021 thực hiện 16.224 tỷ đồng, tăng 6,9% so cùng kỳ; trong đó: doanh nghiệp ngoài nhà nước thực hiện 8.279 tỷ đồng, tăng 23.9%, loại hình khác thực hiện 7.932 tỷ đồng, tăng 6,5% so cùng kỳ.  5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp:  Theo báo cáo Sở kế hoạch - Đầu tư, 11 tháng có 504 doanh nghiệp thành lập mới, đạt 71% so kế hoạch năm 2021, giảm 28,2% về số lượng doanh nghiệp nhưng tăng 2% về vốn đăng ký so cùng kỳ năm 2020. Ước đến cuối tháng 12/2021, được 580 doanh nghiệp, đạt 81,7% kế hoạch; tổng vốn đăng ký là 4.900 tỷ đồng. Số doanh nghiệp giả thể, ngưng hoạt động trong năm 90 doanh nghiệp tương đương cùng kỳ.  Kết quả tổng điều tra kinh tế.  - Khối doanh nghiệp kê khai thông tin từ ngày 01/3/2021 đến hết ngày 15/6/2021, có 5.520/5.725 doanh nghiệp hoàn thành kê khai thông tin, đạt tỷ lệ: 96,4%. Số lượng doanh nghiệp không đạt tỷ lệ do ngừng hoạt động, chờ giải thể và giải thể, phá sản.  - Khối Sự nghiệp, Hiệp hội thực hiện kê khai thông tin từ ngày 01/3/2021 đến ngày 30/4/2021. Kết quả có 652/787 đơn vị sự nghiệp và 102/110 đơn vị hiệp hội hoàn thành kê khai. Số đơn vị kê khai thực tế giảm do các đơn vị hạch toán phụ thuộc không thuộc đối tượng kê khai và một số đơn vị đến thời điểm điều tra đã sáp nhập, ngưng hoạt động hoặc giải thể.  6. Sản xuất nông - lâm nghiệp và thủy sản:  Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: năm 2021 tăng 1,66% so năm 2020; trong đó nông nghiệp tăng 1,95%, thủy sản tăng 0,55% so cùng kỳ.  a. Nông nghiệp:  *Trồng trọt:  Cây lương thực có hạt: năm 2021, gieo trồng 134.104 ha, đạt 100,1% kế hoạch, giảm 3,8% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch 843.702 tấn, đạt 105% kế hoạch, tăng 3,7% so cùng kỳ. Cụ thể:  - Cây lúa:Gieo sạ 131.846 ha, đạt 100,1% kế hoạch, giảm 3,1% so cùng kỳ, thu hoạch 131.846 ha, sản lượng thu hoạch 835.557 tấn, đạt 105,7% kế hoạch, so cùng kỳ tăng 4,3%, do năng suất bình quân tăng 6,9% so cùng kỳ (đạt 63,4 tạ/ha).  Vụ Đông Xuân 2020 - 2021: chính thức xuống giống 51.647 ha, giảm 10,3% so cùng kỳ; thu hoạch 51.647 ha, giảm 8,9% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch 367.189 tấn, giảm 1,8% so cùng kỳ do diện tích giảm. Nguyên nhân giảm do chuyển từ diện tích trồng lúa sang trồng cây ăn quả cho giá trị kinh tế cao hơn như: sầu riêng, mít, thanh long…  Vụ Hè Thu (gồm Xuân Hè và Hè Thu): gieo sạ 74.728 ha giảm 1,5% so cùng kỳ, thu hoạch 74.728 ha giảm 1,4% so cùng kỳ do việc chuyển đổi cây trồng đã nêu trên; sản lượng 439.396 tấn, tăng 6,2% so cùng kỳ; năng suất 58,8 tạ/ha, tăng 7,7% so cùng kỳ.  Vụ Thu đông: diện tích gieo trồng 5.471 ha; tăng 111,7% so cùng kỳ (gieo trồng chủ yếu ở 05 huyện phía đông chiếm 65,6% diện tích còn lại huyện Tân Phước chiếm 21,8%, Châu Thành chiếm 12,6%), thu hoạch 5.471 ha tăng 111,7% so cùng kỳ; sản lượng đạt 28.972 tấn, tăng 117,7% so cùng kỳ; năng suất đạt 53 tạ/ha, tăng 2,8% so cùng kỳ. Do điều kiện thời tiết thuận lợi nông dân xuống giống gieo sạ, mặc dù ngành Nông nghiệp đã khuyến cáo cắt vụ lúa Thu đông năm nay nhằm tránh ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.  - Cây ngô:gieo trồng 2.237 ha, đạt 63,9% kế hoạch, giảm 33,9% so cùng kỳ, năng suất thu hoạch quy thóc 36,2 tạ/ha, tăng 0,3% so với cùng kỳ với sản lượng quy thóc 8.091 tấn, giảm 33,7% so cùng kỳ. Vì lợi nhuận không cao như trước, giá cả không ổn định nên người dân đã chuyển đổi diện tích sang trồng cây Thanh long, cây ăn quả và hoa màu khác.  Cây rau đậu các loại: gieo trồng 55.225 ha, đạt 88,4% kế hoạch, tăng 1,1% so cùng kỳ; sản lượng 1.166.213 tấn, đạt 96,4% kế hoạch, tăng 1,9% so cùng kỳ; năng suất đạt 211,2 tạ/ha tăng 0,7% so cùng kỳ; trong đó: rau các loại 54.942 ha tăng 1,1% so với cùng kỳ, sản lượng 1.165.339 tấn tăng 1,9% so cùng kỳ. Nguyên nhân do nông dân áp dụng khoa học - kỹ thuật trong sản xuất như trồng rau trong nhà lưới, chuyên canh, luân canh trên nền đất lúa, xen canh lúa và màu…  - Cây lâu năm: toàn tỉnh hiện có 103.809 ha, đạt 98,7% kế hoạch, tăng 1% so cùng kỳ; trong đó: diện tích thu hoạch cây ăn quả 81.065 ha, tăng 4,3% so cùng kỳ. Sản lượng thu hoạch đạt 1.811.231 tấn, tăng 5,6% so cùng kỳ; trong đó, diện tích cây ăn quả đạt 82.373 ha, tăng 0,7% so cùng kỳ, sản lượng cây ăn quả 1.613.858 tấn, tăng 5,6% so cùng kỳ. Nguyên nhân do nông dân các xã ở huyện phía tây và phía đông đã chuyển từ đất lúa sang trồng cây ăn quả ngày càng tăng vì có hiệu quả kinh tế cao hơn cây lúa.  * Chăn nuôi: Tình hình dịch bệnh Covid-19 năm 2021 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang nói riêng và cả nước nói chung đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến chuỗi cung ứng hàng hóa, dẫn đến việc tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi bị đình trệ theo giá bán sản phẩm thấp so cùng kỳ, trong khi đó giá thức ăn tăng cao, dịch bệnh xảy ra nhiều địa phương. Tình hình cụ thể một số vật nuôi chủ yếu như sau:  Ước thời điểm 01/12/2021 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 122,9 ngàn con, tăng 1,4% so cùng kỳ; đàn lợn 279,8 ngàn con, tăng 0,5%; đàn gia cầm 17,4 triệu con, giảm 1,5% so cùng kỳ. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng năm 2021: thịt bò 22.916 tấn, tăng 10,7% so cùng kỳ; thịt lợn 76.199 tấn, giảm 10,8%; thịt gia cầm 55.343 tấn, giảm 3% so cùng kỳ (trong đó: sản lượng thịt gà 41.876 tấn, giảm 2,8%).  * Tình hình dịch bệnh trên vật nuôi trong năm 2021: Theo báo cáo của Chi cục Thú y tỉnh (từ ngày 15/12/2020 - 14/12/2021):  Trên gia cầm: Ghi nhận 03 trường hợp có gà bệnh cúm gia cầm với tổng đàn 9.006 con; trong đó, gà bệnh và chết được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 8.836 con.  Trên gia súc:  - Bệnh Lở mồm long móng (LMLM): Ghi nhận 01 trường hợp heo mắc bệnh lở mồm long móng với tổng đàn 35 con. Chính quyền địa phương tổ chức tiêu hủy 35 con heo bệnh với khối lượng 3,9 tấn; đồng thời triển khai thực hiện công tác tiêu độc khử trùng tại cơ sở thu gom heo.  - Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP): Từ ngày 15/12/2020 đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh ghi nhận 196 hộ có heo mắc bệnh DTLCP với tổng đàn 6.526 con. Tổng số heo được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 5.090 con, khối lượng 298.326 kg. Ngoài ra, địa phương tiêu hủy heo bệnh chết tại 02 hộ cũ (năm 2020), với số lượng 105 con/2.973 kg.  - Bệnh viêm da nổi cục (VDNC): Bệnh xuất hiện đầu tiên vào ngày 16/8/2021 đến nay toàn tỉnh đã ghi nhận bò có dấu hiệu điển hình của bệnh VDNC với 594 con bò bệnh/tổng đàn 1.763 con; đã tiêu hủy 26 con với khối lượng 4,3 tấn.  b. Lâm nghiệp:  Tổng diện tích rừng hiện có là 1.921,2 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng). Trong đó rừng phòng hộ 1.337,4 ha (huyện Gò Công Đông: 444,8 ha; huyện Tân Phú Đông: 848,8 ha và huyện Tân Phước: 43,8 ha); rừng sản xuất: 583,8 ha).  Sản lượng gỗ khai thác trong năm được 37.529 m3, giảm 4,7% so cùng kỳ; sản lượng củi khai thác 129.823 ste củi các loại, giảm 4,3% so cùng kỳ.  c. Thủy hải sản:  Diện tích nuôi thủy sản các loại trong năm 2021 là 16.394 ha, đạt 107,9% kế hoạch, giảm 0,2% so cùng kỳ. Thủy sản nước ngọt nuôi 5.192 ha, giảm 2,2% do chuyển đổi mục đích ao nuôi trong dân cư để lên nền nhà; thủy sản nước mặn, lợ nuôi 11.202 ha, tăng 0,8% so cùng kỳ, chủ yếu là tăng diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng.  Sản lượng thủy sản thu hoạch năm 2021, thu hoạch 302.914 tấn, tăng 0,5% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 161.231 tấn, tăng 1% so cùng kỳ; sản lượng khai thác 141.683 tấn, giảm 0,1%. Nguyên nhân sản lượng thu hoạch năm 2021 tăng so cùng kỳ do áp dụng các mô hình, phương thức nuôi trồng phù hợp trong điều kiện xâm nhập mặn, biến đổi khí hậu.  d. Nông thôn mới:  Đến cuối năm 2021, tỉnh có thêm 6 xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt 54,5% kế hoạch, nguyên nhân không đạt kế hoạch do tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp ảnh hưởng rất lớn đến công tác tổ chức triển khai thực hiện của các địa phương. Nâng tổng số xã đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn tỉnh là 124/143 xã, chiếm 86,7%; có 06/11 huyện, thị, thành hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; có 13 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Bình quân số tiêu chí đạt được là 17,9 tiêu chí/xã, tăng 0,4 tiêu chí so năm 2020.  7. Sản xuất công nghiệp:  Giá trị gia tăng ngành công nghiệp giảm 2,03% so năm 2020. Dịch bệnh Covid-19 xuất hiện ngay từ những tháng đầu năm đã làm cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu của nhiều doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp tích cực nhằm hạn chế thiệt hại cho các doanh nghiệp, đồng thời thực hiện Nghị quyết 128/NQ-CP quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”, nên hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong những tháng cuối năm thuận lợi hơn.  Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2021 giảm 2,7% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,9% (tập trung ở một số ngành chủ yếu sau: dệt giảm 29,1%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 31,7%, sản xuất thiết bị điện giảm 33,5%;...); ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 2,4%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,2%.  Giá trị sản xuất công nghiệp địa phương năm 2021 theo giá so sánh 2010 thực hiện 83.268 tỷ đồng, giảm 2,1% so cùng kỳ. Phân theo ngành công nghiệp: chế biến, chế tạo thực hiện 82.079 tỷ đồng, giảm 2,2%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí thực hiện 664 tỷ đồng, tăng 2,6%; cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải thực hiện 525 tỷ đồng, tăng 0,8% so cùng kỳ.  Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp năm 2021 giảm 13,96%, trong đó doanh nghiệp nhà nước giảm 2%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 13,6%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 14,49%. Chia theo ngành công nghiệp: ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 14,31%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 0,39%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải giảm 1,88%.  Sản phẩm sản xuất công nghiệp năm 2021: có 13/43 sản phẩm tăng so cùng kỳ: thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng bột/cốm tăng 21,3%; thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 20,3%; bia đóng chai tăng 20,3%; …Có 30 sản phẩm giảm so cùng kỳ: dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 41%; giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài giảm 40,8%; thức ăn cho thủy sản giảm 7,6 %; điện thương phẩm giảm 2,4%; dịch vụ thu gom rác thải không độc hại có thể tái chế giảm 1,8%;  * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo:  - Chỉ số tiêu thụ tháng 12/2021 so với tháng trước tăng 15,2% và giảm 24,3% so cùng kỳ. Cộng dồn chỉ số tiêu thụ năm 2021 giảm 20,6% so cùng kỳ. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 19,3%; dệt giảm 25,2%; sản xuất trang phục giảm 21,3%; sản xuất da giảm 25,4%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 17,6%; Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 23,4%;… Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất đồ uống tăng 10,2%; Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 8,1%;…  - Chỉ số tồn kho tháng 12/2021 so tháng trước tăng 17,9% và so với cùng kỳ tăng 48,9%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ là: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 95,11%, trong đó sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 112,97%; Sản xuất đồ uống tăng 48,05%, trong đó sản xuất bia tăng 48,05%; Dệt tăng 35,08%, trong đó sản xuất hàng may sẳn tăng 53,42%; Sản xuất trang phục tăng 36,08%; …Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ là: sản xuất da giảm 7,8%; sản xuất giấy giảm 50,9%; Chế biến, chế tạo khác giảm 35,6%, trong đó sản xuất đồ chơi, trò chơi giảm 35,6%;…  Tính đến ngày 14/12/2021, tổng cộng có 168/177 doanh nghiệp trong khu, cụm công nghiệp đã được Tổ Công tác hướng dẫn, góp ý để thông qua phương án sản xuất, kinh doanh đảm bảo an toàn phòng, chống dịch Covid-19 và đi vào hoạt động. Cụ thể như sau:  - Phương án tổ chức cho người lao động đi, về hàng ngày: 156 doanh nghiệp.  - Phương án “03 tại chỗ”: 11 doanh nghiệp.  - Phương án kết hợp “03 tại chỗ” và đi, về hàng ngày: 01 doanh nghiệp.  Còn lại 09 doanh nghiệp hoạt động nhưng không gửi phương án, các doanh nghiệp này chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ.  - Đối với các doanh nghiệp lựa chọn thực hiện phương án “03 tại chỗ”: được Ban Quản lý hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc chuẩn bị bố trí khu vực/phòng cách ly (vùng đệm) cho người lao động dự kiến vào làm việc theo phương án “03 tại chỗ” đảm bảo tuân thủ nghiêm việc thực hiện tầm soát Covid-19 và thời gian cách ly tạm thời theo các hướng dẫn y tế.  8. Thương mại, dịch vụ:  Khu vực dịch vụ giảm 2,36 % so cùng kỳ; 6 tháng đầu năm tăng 3,1%, các ngành dịch vụ diễn ra bình thường, ngành thương nghiệp, dịch vụ lưu trú ăn uống, dịch vụ phát triển, riêng ngành du lịch còn giảm so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 trên thế giới nên tỉnh chưa khởi động lại chương trình thu hút khách du lịch nước ngoài. Nhưng, sang quý III, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, doanh thu của các ngành dịch vụ, du lịch, lưu trú ăn uống giảm mạnh do tỉnh thực hiện biện pháp giãn cách xã hội. Trong thời gian tỉnh thực hiện giãn cách, hoạt động của các chợ truyền thống và cửa hàng tiện lợi phải ngừng hoạt động  a. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng:  Do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19, cung cầu mất cân đối, một số thời điểm có một số mặt hàng tăng giảm liên tục, tổng mức bán lẻ tiêu dùng hàng hóa trên địa bàn cả nước nói chung và tỉnh nói riêng có sự xáo trộn mạnh so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay, tình hình dịch bệnh Covid-19 cơ bản đã được kiểm soát, nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng, các hoạt động kinh doanh trên địa bàn tỉnh đã trở lại bình thường, dự kiến sẽ ổn định và phát triển mạnh trong thời gian tới.  Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 62.533 tỷ đồng, đạt 89% kế hoạch, giảm 3,6% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 54.036 tỷ đồng, tăng 2,4%; lưu trú, ăn uống 24 tỷ đồng, giảm 51,2%; du lịch lữ hành 7 tỷ đồng, giảm 77,8%; dịch vụ tiêu dùng 5.007 tỷ đồng, giảm 20,1% so cùng kỳ.  b. Xuất - Nhập khẩu:  Năm 2021, kim ngạch xuất khẩu 2.951 triệu USD, đạt 90,8% kế hoạch, giảm 3,1% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 42 triệu USD, giảm 18,4%; kinh tế ngoài nhà nước 586 triệu USD, giảm 1,1%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2.323 triệu USD, giảm 3,7% so cùng kỳ.  * Nhập khẩu:  Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2021 thực hiện 1.800 triệu USD, đạt 100% kế hoạch, tăng 10,6% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 121 triệu USD, tăng 19,7%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.679 triệu USD, tăng 10% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng như vải các loại 194 triệu USD, tăng 6,6%; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 361 triệu USD, tăng 12,3%; kim loại thường khác 639 triệu USD, tăng 16,2% so cùng kỳ...  c. Vận tải:  Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải năm 2021thực hiện 1.543 tỷ đồng, giảm 22,5% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 353 tỷ đồng, giảm 37,6% so cùng kỳ; vận tải hàng hóa thực hiện 1.014 tỷ đồng, giảm 16,8% so cùng kỳ. Vận tải đường bộ thực hiện 693 tỷ đồng, giảm 28,3%; vận tải đường thủy thực hiện 675 tỷ đồng, giảm 17,7%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 176 tỷ đồng, giảm 14,1% so cùng kỳ.  Vận chuyển hành khách năm 2021, vận chuyển hành khách 22.519 ngàn hành khách, giảm 33,9% và luân chuyển 365.824 ngàn hành khách.km, giảm 39,9% so cùng kỳ; trong đó: vận chuyển đường bộ 9.733 ngàn hành khách, giảm 34,2% và luân chuyển 350.112 ngàn hành khách.km, giảm 39,7% so cùng kỳ; vận chuyển đường thủy 12.786 ngàn hành khách, giảm 33,6% và luân chuyển 15.712 ngàn hành khách.km, giảm 42,8% so cùng kỳ.  Năm 2021 vận tải hàng hóa 9.810 ngàn tấn, giảm 14,4% và luân chuyển 1.268.963 ngàn tấn.km, giảm 14,1% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ thực hiện 2.245 ngàn tấn, giảm 13,3% và luân chuyển được 237.833 ngàn tấn.km, giảm 21,4% so cùng kỳ; vận tải đường thủy thực hiện 7.565 ngàn tấn, giảm 14,7% và luân chuyển 1.031.129 ngàn tấn.km, giảm 12,2% so cùng kỳ.  * Phương tiện giao thông: trong tháng đăng ký mới 5.706 chiếc mô tô xe máy, 411 chiếc ô tô, 9 chiếc xe đạp điện và 12 chiếc xe khác. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh hiện nay là 1.361.345 chiếc; trong đó: mô tô xe máy 1.318.912 chiếc, 41.622 chiếc xe ô tô, 152 xe ba bánh, 201 chiếc xe đạp điện và 458 xe khác.  d. Du lịch:  Dịch vụ lưu trú và du lịch lữ hành tiếp tục bị ảnh hưởng mạnh bởi dịch Covid-19 các nhóm ngành dịch vụ chịu tác động mạnh của Covid, vì vậy tình hình hoạt động lưu trú ăn uống du lịch trên địa bàn tỉnh đang gặp nhiều khó khăn.  Khách du lịch đến tỉnh trong năm 291 ngàn lượt, đạt 26,5% kế hoạch, giảm 61,1% so cùng kỳ; trong đó khách quốc tế 4,4 ngàn lượt, đạt 1% kế hoạch, giảm 95,5%. Doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 3.490 tỷ đồng, giảm 40,2% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm 99,8%.  e. Bưu chính - Viễn thông:  Doanh thu bưu chính - viễn thông 3.160 tỷ đồng, đạt 101,9% kế hoạch và tăng 3,1% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính 277 tỷ đồng, đạt 128,2% kế hoạch, tăng 18,4% so cùng kỳ, doanh thu viễn thông 2.884 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch, tăng 1,9% so cùng kỳ.  Tổng số thuê bao điện thoại trên mạng ước đến cuối năm 2021 là 102.490 thuê bao, mật độ bình quân đạt 5,8 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây từ đầu năm 2021 đến nay tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa và giá cước điện thoại ngày càng giảm cho nên khách hàng dần chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Số thuê bao điện thoại di động có sử dụng internet (3G, 4G) đến cuối tháng 12 năm 2021 là 1.338.885 thuê bao. Năm 2021 số thuê bao internet phát triển 59.691 thuê bao; tổng số thuê bao internet trên mạng đến cuối năm 2021 là 290.078 thuê bao, mật độ internet bình quân ước đạt 16,4 thuê bao/100 dân.  II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI  1. Lao động, giải quyết việc làm:  Theo kết quả tổng hợp sơ bộ, năm 2021 tỷ lệ lao động thất nghiệp của tỉnh tăng 4,8 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2020 và tỷ lệ lao động thất nghiệp khu vực thành thị tăng 7,5 điểm phần trăm so với cùng kỳ, đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn tăng 3,6 điểm phần trăm. Bên cạnh đó, tỷ lệ lao động thiếu việc làm năm 2021 tăng 1,5 điểm phần trăm so với cùng kỳ. Nhìn chung, tỷ lệ thất nghiệp chung của toàn tỉnh, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và nông thôn cũng như tỷ lệ số lao động thiếu việc làm trong quý IV và cả năm 2021 đều tăng so cùng kỳ năm 2020, do trong quý IV và cả năm 2021 tỉnh Tiền Giang đã và vẫn còn đang phải chịu sự ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch covid-19 gây ra.  Trong năm 2021, tư vấn cho 20.398 lượt lao động, giảm 37,6% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó: tư vấn nghề cho 4.327 lượt lao động, tư vấn việc làm 2.525 lượt lao động, tư vấn việc làm cho 12.613 lượt lao động thất nghiệp, tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác cho 933 lượt lao động; giới thiệu việc làm cho 2.437 lượt lao động, giảm 28,4% so với cùng kỳ năm 2020; đã giới thiệu cho 839 lao động có được việc làm ổn định, giảm 51,6% so với cùng kỳ năm 2020. Tiếp nhận được 12.745 hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 47,5% so với cùng kỳ năm 2020, chi trả trợ cấp thất nghiệp 213,7 tỷ giảm 42,7% so với cùng kỳ năm 2020; thực hiện tư vấn, giới thiệu việc làm và tư vấn học nghề cho 63.100 lượt lao động thất nghiệp, đã có 23 người lao động thất nghiệp đăng ký học nghề.  2. Đời sống dân cư và an sinh xã hội:  Trong bối cảnh dịch bệnh Covid – 19 diến biến phức tạp, Chính phủ phê duyệt hỗ trợ cho người dân, người lao động gặp khó khăn do dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang 200.415 người, với 3.006 tấn gạo. Tỉnh đã nhận được 1.490 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia và đã tổ chức cấp phát cho 99.253 người dân (số lượng gạo tỉnh chưa được cấp từ Tổng cục Dự trữ nhà nước so với số lượng đã được Trung ương phê duyệt là 1.516 tấn gạo; với 101.062 người). Đồng thời tỉnh tiếp tục đề nghị Trung ương hỗ trợ đợt 2 cho 163.262 người dân, người lao động gặp khó khăn do dịch Covid-19, với 2.449 tấn gạo.  Trong năm, các chính sách giảm nghèo được duy trì thực hiện đúng theo kế hoạch, các hộ nghèo, hộ cận nghèo đã được tạo điều kiện để tiếp cận tốt các chính sách và các nguồn hỗ trợ từ nhà nước, cộng đồng. Theo tổng hợp kết quả điều tra rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo cuối năm 2021, toàn tỉnh có 1.998 hộ thoát nghèo; hộ nghèo phát sinh là 20 hộ; toàn tỉnh còn 7.455 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 1,47% so tổng số hộ toàn tỉnh (506.184 hộ); Hộ thoát cận nghèo là 1.783 hộ; hộ cận nghèo phát sinh là 1.168 hộ, toàn tỉnh có 16.121 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 3,18% so tổng số hộ toàn tỉnh.  Quỹ đền ơn đáp nghĩa vận động được 11,5 tỷ đồng tăng 7% so với cùng kỳ năm 2020, xây dựng và sửa chữa 183 căn nhà tình nghĩa từ nguồn vận động, giảm 35% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó xây dựng 88 căn nhà tình nghĩa với tổng số tiền 3,5 tỷ đồng, sửa chữa 95 căn nhà tình nghĩa với tổng số tiền 1,9 tỷ đồng.  3. Hoạt động giáo dục:  Năm học 2020-2021 là năm học ngành Giáo dục gặp nhiều khó khăn trong tình hình diễn biến phức tạp của dịch COVID-19, cùng với đó, ngành Giáo dục đã chủ động, kịp thời điều chỉnh và hoàn thành kế hoạch năm học, cụ thể: trước tình hình dịch Covid-19, kỳ thi tuyển sinh lớp 10 đã diễn ra vào đầu tháng 6/2021 trước khi dịch bệnh bùng phát mạnh trên địa bàn tỉnh. Tổng số học sinh tốt nghiệp THCS đạt 23.146, số thí sinh đăng ký dự thi đạt 18.879, số thí sinh trúng tuyển vào lớp 10 đạt 16.642 (tỷ lệ 71,9% so với học sinh tốt nghiệp THCS và 88,2% so với học sinh dự thi); Tổ chức thành công kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2021 (đợt 1 và đợt 2), kết quả có 15.895/16.015 học sinh đỗ tốt nghiệp THPT (tỉ lệ là 99,3%) với điểm trung bình đạt 6,6 xếp hạng 14/63 tỉnh, thành phố; Tổ chức khảo sát thử nghiệm Chương trình đánh giá định kỳ quốc gia kết quả học tập của học sinh lớp 9, lớp 11 năm học 2020-2021 vào các ngày 30, 31/3/2021 tại các trường THCS Lê Ngọc Hân, THCS Bình Ninh, THCS Nguyễn Đắc Thắng, THPT Nguyễn Đình Chiểu, THPT Trần Văn Hoài và THCS&THPT Long Bình; Tổ chức hoàn thiện Giấy chứng nhận nghề phổ thông lớp 12 năm 2020, bằng tốt nghiệp THPT năm 2020. Phát hành bản chính bằng tốt nghiệp THPT năm 2020. Công khai thông tin cấp phát văn bằng tốt nghiệp năm 2020 trên website Sở GDĐT để phục vụ tra cứu, xác minh.  Ngoài ra, toàn tỉnh có 349 trường phổ thông công lập trong đó có 02 trường tư thục; 5.895 phòng học, trong đó cấp tiểu học có 3.624 phòng học; cấp trung học cơ sở có 1.563 phòng học, cấp THPT có 708 phòng học. Các phòng phục vụ học tập có 1.575 phòng; thư viện có 353 phòng và phòng y tế có 269 phòng.  Tình hình học online.  Nhìn chung ngành Giáo dục đã thực hiện nghiêm túc việc triển khai dạy học trực tuyến cho học sinh tiểu học theo chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh. Hiện nay, toàn tỉnh có 134.929/137.904 học sinh tham gia học tập trực tuyến và học qua kênh truyền hình đạt tỷ lệ 97,84 % (đã nêu trên). Phối hợp Viễn thông VNPT tổ chức phát sóng dạy học qua truyền hình trên kênh MyTV Tiền Giang từ ngày 08/11/2021 đối với môn Tiếng Việt và Toán lớp 1, lớp 2.  4. Hoạt động y tế:  Covid - 19: Kể từ ngày có ca nhiễm đầu tiên trong cộng đồng 5/6/2021 đến 17/12/2021 toàn tỉnh có 30.373 ca, 22.547 ca được điều trị khỏi; 739 ca tử vong. Tính đến ngày 16/12 tỷ lệ tiêm vaccine cho người dân từ 18 tuổi trở lên tiêm mũi 1 đạt 100,6% và đủ 2 mũi vaccine đạt 48,2%.         Bệnh truyền nhiễm năm 2021 so cùng kỳ về số ca mắc được ghi nhận trên địa bàn tỉnh: 02 bệnh tăng (viêm não do vi rút, Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Covid-19 gây ra); 16 bệnh giảm (liên cầu lợn ở người, ho gà, lao phổi, lỵ a míp, Quai bị, sởi, tay chân miệng, Sốt xuất huyết, thương hàn, thủy đậu, tiêu chảy, uốn ván khác, viêm gan siêu vi A, viêm gan siêu vi B, viêm gan siêu vi C, Zika); 26 bệnh tương đương và hoặc không xảy ra ca mắc. Trong năm có 1.826 trường hợp mắc sốt xuất huyết mới trên địa bàn, giảm 43,3% so cùng kỳ, tử vong 01 trường hợp (không ghi nhận ca tử vong năm 2020). Bệnh HIV/AIDS năm 2021 phát hiện 302 trường hợp nhiễm HIV mới, 30 trường hợp tử vong. Đến nay, tổng số nhiễm HIV toàn tỉnh là 6.022 trường hợp, tổng số AIDS là 1.867 trường hợp, tử vong do AIDS là 1.023 trường hợp. Công suất sử dụng giường bệnh chung toàn tỉnh đạt 52,1%. Ghi nhận 3.948.656 lượt người bệnh đến khám và 172.747 người điều trị nội trú.  5. Hoạt động văn hóa - thể thao:  Đến nay, toàn tỉnh có 439.637/464.764 hộ đạt 3 tiêu chuẩn Gia đình văn hóa, đạt 94,6%; 1001/1005 ấp, khu phố văn hóa, đạt tỷ lệ 99,6%; 160/172 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới, phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị; 65 chợ văn hóa; 17 công viên văn hóa; 824 con đường văn hóa, 543 cơ sở thờ tự văn hóa.  Hoạt động văn hóa nghệ thuật trong năm 2021: Thực hiện 84 trụ cờ, 700 cờ các loại, 124 pano, 258 băng rôn, 04 cuộc triển lãm, 17 đợt với 358 lượt xe loa, 95 suất nhạc nước, 16 buổi chiếu phim lưu động, 34 cuộc biểu diễn phục vụ nhân dân; tuyên truyền Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, Hội nghị văn hóa toàn quốc. Cùng với đó, các địa phương đã phát huy tối đa hiệu quả hoạt động của Đài truyền thanh các cấp và xe loa di động để thực hiện tuyên truyền công tác phòng, chống dịch Covid-19.  Hoạt động thư viện trong năm 2021: đã phục vụ 36.814 lượt bạn đọc với 168.550 lượt sách báo được lưu hành. Tổ chức 32 chuyến xe thư viện lưu động từ chương trình “Dự án xe thư viện thông minh lưu động” đến 5 trường học trên địa bàn TP. Mỹ Tho với hơn 7.200 em học sinh tham gia. Trong năm 2021, hệ thống thư viện huyện và các phòng đọc cơ sở đã tiếp được 90.348 lượt bạn đọc, với 227.011 lượt sách báo lưu hành.  Hoạt động bảo tàng trong năm 2021: Bảo tàng tỉnh và các di tích quốc gia trên địa bàn tỉnh đã đón 20.157 lượt khách tham quan, giảm 63% so với cùng kỳ năm 2020, bán được 2.049 vé, sưu tầm 30 hiện vật.  Hoạt động thể dục, thể thao trong năm 2021 Trong năm 2021, có 627.721/1.780.224 người tham gia tập luyện thể dục thể thao, đạt tỷ lệ 35,3%; 116.455/487.790 hộ gia đình tham gia tập luyện thể dục thể thao, đạt tỷ lệ 23,9%. Thành tích thể thao đã đạt được sau khi tham dự thi đấu 6 giải thể thao cấp tỉnh, 12 giải Quốc gia và khu vực đạt 34 huy chương các loại (12 HCV, 8 HCB, 14 HCĐ).  6. Tình hình trật tự an toàn xã hội: (Theo báo cáo của ngành Công an):  Tội phạm về trật tự xã hội ghi nhận đến tháng 12/2021 ghi nhân 1.156 vụ, giảm 277 vụ so với cùng kỳ, làm chết 01 người, bị thương 09 người, tài sản thiệt hại khoảng 3,5 tỷ đồng; trong đó xảy ra 01 vụ giết người do mâu thuẫn tình ái, 09 vụ cố ý gây thương tích nguyên nhân chủ yếu do mâu thuẫn cá nhân bộc phát; 07 vụ xâm hại tình dục; 64 vụ xâm phạm sở hữu, chủ yếu là hành vi cướp giật tài sản (10 vụ), trộm cắp tài sản (46 vụ), hủy hoại tài sản (04 vụ),... 02 vụ đánh bạc và 01 vụ sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức. Phát hiện, xử lý 35 tụ điểm cờ bạc, 256 đối tượng liên quan; 18 vụ với 21 đối tượng có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và xử lý vi phạm hành chính 69 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; 01 vụ với 01 đối tượng có hành vi các quy định của pháp luật về quản lý đất đai; 03 vụ với 03 đối tượng có hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, tang vật thu giữ 3.520 báo thuốc lá ngoại nhập lậu; 04 vụ với 04 đối tượng có hành vi vận chuyển hóa không hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc, tổng giá trị hàng hóa thu giữ khoảng 626 triệu đồng (mỹ phẩm, hàng gia dụng, kim khí điện máy đã qua sử dụng, cát...) và xử lý hành chính 03 trường hợp vi phạm pháp luật về môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, số tiền 25,5 triệu đồng.  7. Trật tự an toàn giao thông: (Theo báo cáo của ngành Công an).  Tai nạn giao thông đường bộ: Tổng số vụ tai nạn từ đầu năm đến nay là 479 vụ, tăng 51 vụ so cùng kỳ, làm chết 238 người, giảm 21 người so cùng kỳ, bị thương 315 người, tăng 70 người so cùng kỳ. Tổng số vụ vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ từ đầu năm đến nay 27.800 vụ, giảm 39.230 vụ so cùng kỳ.  Tai nạn giao thông đường thủy: Từ năm đến nay xay ra 04 vụ, giảm 02 vụ so với cùng kỳ (không phát sinh số người chết, bị thương). Tổng số vụ vi phạm trật tự an toàn giao thông trong năm 16.092 vụ, giảm 3.312 vụ so cùng kỳ.  8. Tình hình cháy nổ, môi trường:  Năm 2021, toàn tỉnh xảy ra 31 vụ cháy, nổ làm 01 người chết; tổng giá trị tài sản thiệt hại khoảng 6,5 tỷ đồng. Tổng số vụ vi phạm môi trường được phát hiện và xử lý 41 vụ với tổng số tiền xử phạt trên 1 tỷ đồng.  9. Thiệt hại do thiên tai:  Trong năm 2021, có 03 người bị thương do lốc xoáy sập nhà, tăng 02 người so năm 2020, 18 vụ lốc xoáy tăng 06 vụ so với năm 2020; 09 nhà bị sập, giảm 16 căn so với năm 2020; 270 căn nhà bị tốc mái tăng 18 căn nhà so với năm 2020; 175 điểm sạt lỡ giảm 39 điểm so năm 2020; giá trị thiệt hại 198,4 tỷ đồng.  III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHỤC HỒI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ, THỰC HIỆN CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2022.  Năm 2022 dự báo kinh tế xã hội của tỉnh tiếp tục gặp khó khăn do tác động của dich Covid- 19... Tuy nhiên, với nỗ lực thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 và thực hiện các chương trình an sinh xã hội hỗ trợ cho các cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi đại dịch sẽ phần nào giúp cho người dân và doanh nghiệp dần trở lại cuộc sống bình thường mới và ổn định sản xuất, kinh doanh. Qua kết quả thực hiện năm 2021 và thực trạng kinh tế của tỉnh, Cục Thống kê đề xuất các giải pháp trong thời gian tới nhằm thực hiện tốt các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022 như sau:  - Tập trung tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp về tình hình hoạt động, thị trường tiêu thụ, nguyên liệu sản xuất, lao động,... Rà soát lại tình hình sản xuất ở từng ngành, đặc biệt là các ngành như: dệt may, da giày, chế biến thủy sản, sản xuất kim loại, cơ khí; các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ,... tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Tiếp tục phối hợp triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ của Trung ương và của tỉnh Tiền Giang nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.  - Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19; tăng cường phối hợp với UBND các cấp triển khai chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp; đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục vay vốn.  - Triển khai thực hiện có hiệu quả đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp Tiền Giang đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”; đề án “Cắt vụ, chuyển đổi mùa vụ và cơ cấu cây trồng các huyện phía Đông tỉnh Tiền Giang đến năm 2025”; dự án Chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sầu riêng, thanh long, trứng chim cút, trứng gà ác tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2018-2020 và định hướng đến năm 2030...  - Tăng cường công tác an ninh trật tự, an toàn xã hội, an ninh quốc phòng. ([1])Theo công văn số 1796/TCTK-TKQG ngày 30/11/2021 của Tổng cục Thống kê

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Tiền Giang năm 2021 giảm 0,72% so cùng kỳ
  •   18/06/2024 15:49

Năm 2021, tình hình sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh chịu tác động mạnh của dịch covid 19, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân trong tỉnh. Lãnh đạo địa phương đã đưa ra nhiều giải pháp theo từng thời điểm, nhằm giảm bớt thiệt hại cho nhân dân, điều hành phát triển kinh tế - xã hội vượt qua khó khăn. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2021 ước đạt 58.865 tỷ đồng, (giá so sánh năm 2010) giảm 0,72%(1) so với cùng kỳ, khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,66%, khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 1,12% và khu vực dịch vụ giảm 2,87% (bao gồm thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); Nếu tách riêng thuế sản phẩm thì khu vực dịch vụ giảm 2,36 % và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm giảm 5,26% so cùng kỳ.   Sáu tháng đầu năm 2021 kinh tế của tỉnh đang trên đà phục hồi, tăng 2,49% so với cùng kỳ (quí I tăng 1,44%, quí II tăng 3,65%). Ngày 5/6/2021 lần đầu tiên trên địa bàn tỉnh có ca mắc covid trong cộng đồng và diễn biến rất phức tạp, đã đặt ra không ít khó khăn, thách thức trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh. Để đảm bảo công tác phòng chống dịch hiệu quả, trên địa bàn tỉnh áp dụng các biện pháp giản cách xã hội theo Chỉ thị 15/TTg, Chỉ thị 16/TTg của Thủ tướng Chính phủ, các đơn vị sản xuất, kinh doanh các mặt hàng không thiết yếu phải tạm dừng hoạt động để ưu tiên cho công tác phòng chống dịch.  Kể từ ngày 15/7/2021 các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đáp ứng yêu cầu sản xuất “03 tại chỗ” mới được phép sản xuất. Nhưng do không lường trước sự lây lan của dịch, một số doanh nghiệp thực hiện chưa nghiêm phương án “03 tại chỗ” như đã được thẩm định, phê duyệt, đã phát sinh nhiều ổ dịch, nên Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang đã ban hành Công văn 4093/UBND-KT ngày 29/7/2021 về việc tạm dừng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong khu, cụm công nghiệp kể từ ngày 5/8/2021. Kinh kế của tỉnh quí III giảm sâu, giảm 7,43%; Đến ngày 11/10/2021 Tiền Giang thực hiện Nghị quyết 128/NQ-CP qui định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch covid – 19”, các doanh nghiệp bắt đầu sản xuất kinh doanh trở lại, ước tính quí IV tăng trưởng của tỉnh tăng 0,18% so cùng kỳ.  GRDP nếu tính theo giá thực tế năm 2021 đạt 100.315 tỷ đồng; GRDP bình quân đầu người đạt 56,4 triệu đồng/người/năm, tăng 0,3 triệu đồng/người/năm so năm 2020 (năm 2020 đạt 56,1 triệu đồng/người/năm). Tính theo giá USD, GRDP bình quân đầu người năm 2021 đạt 2.405 USD/người/năm, tăng 1,7%, tương đương tăng 41 USD so năm 2020 (năm 2020 đạt 2.446 USD/người/năm).  Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: năm 2021 tăng 1,66% so năm 2020; trong đó nông nghiệp tăng 1,95% (cùng kỳ giảm 3,05%). Trồng trọt có nhiều thuận lợi hơn năm 2020, công tác phòng chống hạn mặn được triển khai sớm, diện tích bị thiệt hại không nhiều. Trà lúa Đông Xuân năm nay phát triển tốt, năng suất bình quân 71,1 tạ/ha, tăng 7,8% so cùng kỳ tương ứng tăng 5,1 tạ/ha. Tuy nhiên có một số khu vực do chịu tác động của hạn mặn năm 2020 nên sản xuất còn khó khăn, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm. Các vườn cây ăn trái ở các huyện phía Tây được nông dân chăm sóc, từng bước được phục hồi, nhưng cây còn yếu, nông dân chưa dám xử lý cho ra hoa trái vụ. Trong quí III do tác động của dịch Covid 19, chuổi sản xuất và tiêu thụ nông sản bị đứt gãy, khâu tiêu thụ gặp nhiều khó khăn, có một số vùng nông dân không tiêu thụ được, sản phẩm bán dưới giá thành nên mức độ đầu tư cho sản xuất có giảm so với 6 tháng năm, nên làm chậm đà tăng trưởng của ngành nông nghiệp. Giá phân bón và vật tư nông nghiệp tăng cao ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của nông dân. Trong lĩnh vực chăn nuôi, dịch tả lợn Châu Phi xuất hiện ở nhiều địa phương (58 xã với 6.526 con mắc), giá thức ăn tăng cao (tăng khoảng 40%), trong khi giá bán sản phẩm chăn nuôi thấp so cùng kỳ, nhất là lợn hơn, tiêu thụ sản phẩm khó khăn … Do đó người dân chưa mạnh dạn tái đàn. Ước tính đến thời điểm 01/12/2021 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 122,9 ngàn con, tăng 1,4%; đàn lợn 279,8 ngàn con, tăng 0,5%; đàn gia cầm (không kể chim cút) 17,4 triệu con, giảm 1,5% so cùng kỳ. Ngành thủy sản tăng 0,55% so cùng kỳ, tăng chủ yếu ở sản lượng nuôi trồng. Do tác động của dịch Covid 19, một số mặt hàng thủy sản tiêu thụ chậm như: cá Tai Tượng chủ yếu cung cấp cho các nhà hàng phục vụ khách du lịch, cá Tra phục vụ cho xuất khẩu…  Khu vực công nghiệp - xây dựng: giảm 1,12% so với năm 2020.  Công nghiệp giảm 2,03% (cùng kỳ tăng 1,14%). Từ đầu năm đến nay, dịch Covid-19 tiếp tục bùng phát và lan rộng trên phạm vi toàn thế giới, tác động nghiêm trọng tới mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của các quốc gia, trong đó có những quốc gia có quan hệ giao thương với nước ta. Tình hình sản xuất công nghiệp trong nước nói chung, Tiền Giang nói riêng cũng bị ảnh hưởng theo, do chuỗi cung ứng nguyên liệu đầu vào bị gián đoạn và thị trường tiêu thụ bị thu hẹp đáng kể. Doanh nghiệp thu hẹp qui mô sản xuất, sản xuất cầm chừng. Trong quí III ở một số thời điểm các doanh nghiệp tạm dừng sản xuất để phòng chống dịch nên sản xuất công nghiệp giảm 10,46%, đến ngày 11/10/2021 Tiền Giang thực hiện Nghị quyết 128/NQ-CP của Chính phủ, các doanh nghiệp bắt đầu hoạt động trở lại, sản xuất công nghiệp khởi sắc hơn, dự báo quí IV sản xuất công nghiệp của tỉnh tăng 0,67% so cùng kỳ. Do tác động của dịch covid – 19 hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn vừa sản xuất vừa phòng chống dịch, làm cho chi phí sản xuất tăng cao, đồng thời cũng gặp phải nhiều rủi ro, thách thức trong hoạt động của doanh nghiệp. Tính đến thời điểm hiện tại các Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh thu hút được 106 dự án (trong đó có 77 dự án FDI) với tổng vốn đầu tư là 2.202,5 triệu USD và 4.575,86 tỷ đồng; diện tích đất thuê là 518,93 ha/770,14 ha chiếm tỷ lệ 67,34% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê.  Ngành xây dựng năm 2021 tăng 3,9% so cùng kỳ, 6 tháng đầu năm có nhiều thuận lợi, tăng 12,4% do trên địa bàn tỉnh có nhiều công trình trọng điểm của địa phương và trung ương tiếp tục thi công như: dự án cao tốc Trung lương – Mỹ Thuận, cầu Mỹ Thuận 2, bệnh viện Đa khoa tỉnh Tiền Giang, điện gió Tân Phú Đông 1, điện gió Tân phú Đông 2 ... Quí III do phải giản cách xã hội để phòng chống dịch covid – 19, một số công trình tạm dừng hoạt động nên tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng trong quí III giảm 11,62% so cùng kỳ, đến quí IV các công trình xây dựng hoạt động trở lại, dự báo tăng 6,92%... Khó khăn hiện nay là giá sắt thép, vật liệu xây dựng tăng cao, dịch covid còn diễn biến phức tạp, vừa sản xuất vừa phải đảm bảo phòng chống dịch nên ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng của các công trình.  Khu vực dịch vụ: giảm 2,36 % so cùng kỳ; 6 tháng đầu năm tăng 3,1%, các ngành dịch vụ diễn ra bình thường, ngành thương nghiệp, dịch vụ lưu trú ăn uống, dịch vụ phát triển, riêng ngành du lịch còn giảm so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 trên thế giới nên tỉnh chưa khởi động lại chương trình thu hút khách du lịch nước ngoài. Nhưng, sang quý III, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, doanh thu của các ngành dịch vụ, du lịch, lưu trú ăn uống giảm mạnh do tỉnh thực hiện biện pháp giãn cách xã hội. Trong thời gian tỉnh thực hiện giãn cách, hoạt động của các chợ truyền thống và cửa hàng tiện lợi phải ngừng hoạt động. Có một số ngành giảm sâu so cùng kỳ như: du lịch lữ hành giảm 72,39%, lưu trú và ăn uống giảm 44,08%, vận tải kho bãi giảm 20,3%, nghệ thuật vui chơi và giải trí giảm 16,16% ... Tuy nhiên cũng có một số ngành có mức tăng so với cùng kỳ như: Hoạt động tài chính ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,39%, thông tin truyền thông tăng 1,9%, hoạt động y tế và trợ giúp xã hội tăng 24,39% ... Do hoạt động sản xuất của các ngành gặp khó khăn nên thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm năm 2021 giảm 5,26% so cùng kỳ.   Cơ cấu kinh tế: chuyển dịch chậm nhưng theo đúng định hướng, tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và giảm tỷ trọng nông nghiệp. Năm 2021 khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 38,6% giảm 0,2% (cùng kỳ 38,8%); khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 26,9%, tăng 0,7% (cùng kỳ 26,2%); khu vực dịch vụ chiếm 28,7%, giảm 0,2% (cùng kỳ 28,9%); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,8%, giảm 0,3% (cùng kỳ 6,1%).                                                    N.V.Tròn ([1])Theo công văn số 1796/TCTK-TKQG ngày 30/11/2021 của Tổng cục Thống kê

Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang Tháng 11 năm 2021
  •   18/06/2024 15:52

Trong tháng 11, tình hình dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh cơ bản được kiểm soát; lãnh đạo tỉnh chỉ đạo thực hiện các giải pháp để “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả Covid-19” theo Nghị quyết số 128/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ giúp người dân, doanh nghiệp khôi phục sản xuất, lưu thông hàng hóa thuận tiện hơn trong trạng thái bình thường mới. Kết quả thực hiện trên các lĩnh vực ước đạt được như sau:  I. SẢN XUẤT NÔNG, LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN  1. Nông nghiệp  *Trồng trọt: Cây lương thực có hạt ước tính đến cuối tháng 11/2021 gieo trồng 134.083 ha, đạt 100,1% kế hoạch, giảm 3,8% so cùng kỳ 2020, sản lượng thu hoạch 814.676 tấn, đạt 101,4% kế hoạch, tăng 1,8% so với cùng kỳ; trong đó, cây lúa gieo sạ 131.846 ha giảm 3,1% so cùng kỳ, thu hoạch 126.375 ha giảm 4,6% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch 806.585 tấn tăng 2,4% so cùng kỳ.  - Cây lúa:  Vụ Thu đông: Diện tích gieo trồng 5.417 ha; tăng 111,7% so cùng kỳ (gieo trồng chủ yếu ở 05 huyện phía đông chiếm 65,6% diện tích còn lại huyện Tân Phước chiếm 21,8%, Châu Thành chiếm 12,6%). Ngành Nông nghiệp đã khuyến cáo cắt vụ lúa Thu đông năm nay nhằm tránh ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, cũng như là tình hình hạn, mặn, nhưng nhiều hộ nông dân vẫn tiếp tục gieo trồng được các Ngành, địa phương tuyên truyền vận động.  - Cây ngô: Diện tích trồng 11 tháng đạt 2.237 ha, giảm 33,9% so cùng kỳ; năng suất bình quân 36,2 tạ/ha, sản lượng 8.091 tấn, giảm 33,7% so cùng kỳ, do lợi nhuận từ việc thu hoạch ngô không còn cao như trước nên nông dân chuyển đổi đất trồng cây thanh long và một số cây ăn quả khác.  - Cây rau đậu các loại: trong tháng 11/2021 gieo trồng được 877 ha, tăng 0,8% so cùng kỳ, thu hoạch 4.124 ha, tăng 3,3% so cùng kỳ. Mười một tháng năm 2021 gieo trồng 55.208 ha, đạt 88,4% kế hoạch, tăng 1,2% so cùng kỳ; thu hoạch 50.873 ha, đạt 81,5% kế hoạch, tăng 0,9% so cùng kỳ; sản lượng 1.026.412 tấn, đạt 84,9% kế hoạch, tăng 1% so cùng kỳ. Bao gồm diện tích gieo trồng rau các loại 54.942 ha, tăng 1,1% so cùng kỳ, nguyên nhân do chuyển từ đất trồng lúa, năng suất ước 202,5 tạ/ha tăng 0,1% so cùng kỳ, sản lượng 1.025.744 tấn, tăng 1% so cùng kỳ do nông dân áp dụng mô trồng rau trong nhà lưới kiểm soát được sâu bệnh, đồng thời kết hợp nhiều loại giống mới chất lượng được nông dân lựa chọn dẫn đến việc năng suất, sản lượng tăng; Diện tích gieo trồng đậu các loại 266 ha, so cùng kỳ tăng 9,6%; Sản lượng 668 tấn, so cùng kỳ tăng 4% do diện tích thu hoạch tăng.  * Chăn nuôi: Thời điểm 01/11/2021 tổng đàn gian súc, gia cầm của tỉnh như sau: Đàn bò hiện có 123.433 con, tăng 3,3% so cùng kỳ, sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng trong tháng đạt 2.031 tấn, cộng dồn đạt 20.616 tấn, giảm 1,5% so với cùng kỳ. Đàn lợn 276.217 con, tăng 1,7% so với cùng kỳ; sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 11 đạt 6.622 tấn giảm 3,8% so cùng kỳ, tính chung 11 tháng đạt 70.199 tấn, giảm 11,7% so cùng kỳ. Tổng đàn gia cầm của tỉnh là 17.440 ngàn con, tăng 0,7% so với cùng kỳ ; Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng trong tháng 11 đạt 4.011 tấn, giảm 9,6% so cùng kỳ, nâng tổng số sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 11 tháng năm 2021 đạt 49.543 tấn, giảm 3,6% so với cùng kỳ. Nguyên nhân sản lượng chăn nuôi gia súc, gia cầm giảm do dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình tiêu thụ gia súc, gia cầm trên địa bàn.  Tình hình dịch bệnh trong 11/2021: Theo báo cáo của Chi cục Thú y tỉnh (từ ngày 15/10/2021 - 14/11/2021):  Trên gia cầm: Trong tháng không ghi nhận. Lũy kế ghi nhận 03 trường có gà bệnh cúm gia cầm với tổng đàn 9.006 con; trong đó, gà bệnh và chết được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 8.836 con.  Trên gia súc:  Bệnh Lở mồm long móng (LMLM): Trong tháng không ghi nhận. Lũy kế 01 trường hợp heo mắc bệnh LMLM tại huyện Cái Bè với tổng đàn 35 con. Chính quyền địa phương tổ chức tiêu hủy 35 con heo bệnh với khối lượng 3,9 tấn, đồng thời triển khai thực hiện công tác tiêu độc khử trùng tại cơ sở thu gom heo.  Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP): Trong tháng ghi nhận 108 trường hợp heo mắc bệnh DTLCP với tổng đàn 2.889 con. Số heo được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 2.280 con, trọng lượng 139.565 kg. Luỹ kế từ ngày 15/12/2020 đến ngày 11/11/2021, trên địa bàn toàn tỉnh ghi nhận 142 hộ có heo mắc bệnh DTLCP với tổng đàn 3.999. Tổng số heo được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 2.957 con, khối lượng 170.741 kg trên 139 hộ. Ngoài ra, địa phương tiêu hủy heo bệnh chết tại 02 hộ cũ có heo bệnh DTLCP trước ngày 15/12/2020, với số lượng 105 con/2.973 kg.   Bệnh viêm da nổi cục (VDNC): Ghi nhận 57 hộ có bò mắc bệnh VDNC với tổng đàn 261 con, số bò mắc bệnh là 104 con. Đã tiêu hủy 11 con bò bệnh, chết với khối lượng 2,2 tấn. Lũy kế toàn tỉnh đã ghi nhận 368 hộ có bò mắc bệnh VDNC với tổng đàn 1.733 con, số bò mắc bệnh là 586 con. Đã tiêu hủy 22 con/20 hộ có bò bệnh, chết với khối lượng 3,7 tấn.  2. Lâm nghiệp:  Tổng diện tích rừng hiện có là 1.925,2 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng). Trong đó rừng phòng hộ 1.337,4 ha (huyện Gò Công Đông: 444,8 ha; huyện Tân Phú Đông: 848,8 ha và huyện Tân Phước: 43,8 ha); rừng sản xuất: 587,8 ha.  Ước tháng 11/2021 toàn tỉnh thực hiện trồng mới được 5,1 ngàn cây phân tán, nâng tổng số cây trồng 843,6 ngàn cây các loại, tăng 30,6% so với cùng kỳ do trong tháng có mưa, trồng ở những xã đạt và phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới. Những cây trồng mới chủ yếu là cây bạch đàn, tràm bông vàng.  3. Thủy hải sản:  Trong tháng, thủy sản các loại thả nuôi 353 ha, tăng 0,6% so cùng kỳ; Mười một tháng thả nuôi 15.651 ha, đạt 103% kế hoạch và giảm 0,7% so cùng kỳ; Thủy sản nước ngọt nuôi 4.879 ha, giảm 3,2% so cùng kỳ, diện tích nuôi trồng thủy sản nước ngọt giảm là do chuyển đổi mục đích sử dụng ao nuôi trong dân cư; Thủy sản nước mặn, lợ nuôi đạt 10.772 ha, tăng 0,5% so cùng kỳ, diện tích nuôi chủ yếu là nuôi tôm sú nuôi quảng canh và nuôi tôm thẻ chân trắng thả nuôi để chuẩn bị cho đợt bán tết nguyên đán năm nay. Tình hình nuôi nghêu ổn định.  Sản lượng thủy sản trong tháng thu hoạch 28.383 tấn, tăng 0,6% so cùng kỳ. Tính chung Mười một tháng thu hoạch 282.688 tấn, đạt 96,3% kế hoạch, tăng 0,3% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 149.879 tấn, đạt 92,1% kế hoạch, tăng 0,6% so cùng kỳ, sản lượng khai thác 132.809 tấn, đạt 101,6% kế hoạch, tương đương so cùng kỳ.  II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP  Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 11/2021 tăng 18,5% so với tháng trước, do Tỉnh thực hiện Nghị quyết 128/NQ-CP quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19” nên hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thuận lợi hơn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 19,8%, sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 13,5% một số ngành sản xuất công nghiệp chủ yếu của tỉnh như: sản xuất trang phục tăng 24,5%, sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 80,1%... tuy nhiên so cùng kỳ giảm 7,6%. Các ngành chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh có chỉ số tăng so cùng kỳ, như: sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 29,9%, sản xuất trang phục tăng 4,8%, sản xuất phương tiện vận tải khác 8,4%...  Tính đến ngày 4/11/2021, tổng cộng có 106/186 doanh nghiệp trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã được hướng dẫn góp ý để thông qua phương án sản xuất, kinh doanh đảm bảo an toàn phòng chống dịch Covid-19, với tổng số lao động 54.982 người. Trong đó có 74 doanh nghiệp động theo phương án “Tổ chức người lao động đi, về trong ngày”, 29 doanh nghiệp hoạt động theo phương án “ 3 tại chỗ” và 3 doanh nghiệp hoạt động theo phương án “3 tại chỗ và đi về hàng ngày”.  Tính chung 11 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp giảm 4,6% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 18,9%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 3,3%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,8%.  Chỉ số sản xuất sản phẩm trong 11 tháng so cùng kỳ như sau:  - Có 9/41 sản phẩm tăng so cùng kỳ: bộ com lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 37,2%; thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng bột/cốm tăng 25,9%; Bia đóng chai tăng 16,2%; bóng thể thao khác tăng 14,9%; ống và ống dẫn bằng đồng tăng 2,8%; thức ăn cho gia súc tăng 0,8%; cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo tăng 0,1%;…  - Có 32/41 sản phẩm giảm so cùng kỳ: dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu, thuyền giảm 56,8%; Giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài giảm 44,1%; sợi xe từ các loại sợi tự nhiên: bông, đay, lanh, xơ dừa, cói ... giảm 32,5%; áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc giảm 25,4%; Phân vi sinh giảm 24%; thức ăn cho thủy sản giảm 9%; Giày, dép thể thao có đế ngoài và mũ giày bằng cao su và plastic giảm 7,6%; …  Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 11/2021 so với tháng trước tăng 7,1%, trong đó doanh nghiệp nhà nước bằng 100%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 26,3%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 3,1%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 11/2021 so với cùng kỳ giảm 3,8%, trong đó doanh nghiệp nhà nước giảm 1,8%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 10,5%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 1,9%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 11 năm 2021 giảm 15,5%, trong đó doanh nghiệp nhà nước giảm 2,1%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 14,5%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 16,2%. Chia theo ngành công nghiệp: Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 11 năm 2021 giảm 15,5%, trong đó ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 15,9%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 0,4%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải giảm 2,2%.  * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo:  - Chỉ số tiêu thụ tháng 11/2021 so với tháng trước tăng 20,5% và giảm 29,8% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 11 năm 2021 giảm 20,3%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 19,6%; Dệt giảm 22,8%; Sản xuất trang phục giảm 16,3%; Sản xuất da giảm 18,9%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 35,8%; Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 23,4%; Sản xuất sản phẩm cao su và plastic giảm 32,31%; Sản xuất kim loại giảm 22,67%; … Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng so cùng kỳ là: Sản xuất đồ uống tăng 8,6%, trong đó sản xuất bia tăng 8,6%; Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 14,9%;…  - Chỉ số tồn kho tháng 11/2021 so với tháng trước tăng 3,9% và so với cùng kỳ tăng 18,6%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ là: sản xuất chế biến thực phẩm tăng 47,5%; sản xuất đồ uống tăng 46,98%; dệt tăng 18,9%; sản xuất trang phục tăng 27,6%; chế biến gỗ tăng 44,9%; Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 58,7%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 55,5%; Sản xuất thiết bị điện tăng 9,1%, … Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ là: sản xuất da giảm 58,7%; sản xuất giấy giảm 31,7%; sản xuất kim loại giảm 12,34%; chế biến, chế tạo khác giảm 59,5%;…  * Tình hình thu hút đầu tư và phát triển các khu - cụm công nghiệp:  - Khu công nghiệp: trong tháng không thu hút dự án đầu tư mới. Lũy kế, đến 11/2021 các Khu công nghiệp đã thu hút được 106 dự án đầu tư; trong đó: có 77 dự án đầu tư nước ngoài. Tổng vốn đầu tư là 4.575,9 tỷ đồng và 2.191,5 triệu USD. Diện tích đất cho thuê của các doanh nghiệp 519,6/770,1 ha, đạt 67,5% diện tích đất các Khu công nghiệp.  - Cụm công nghiệp: trong tháng không thu hút dự án đầu tư mới. Tổng số dự án đầu tư tại các cụm công nghiệp hiện nay là 79 dự án (trong đó: có 6 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 2.306,2 tỷ đồng và 150,3 triệu USD, diện tích thuê đất là 89,8/120,6 ha, tỷ lệ lắp đầy đạt 74,5% của 5 Cụm công nghiệp đang hoạt động.  III. ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG  Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện trong tháng là 567 tỷ đồng, giảm 17,6% so cùng kỳ. Mười một tháng thực hiện 3.154 tỷ đồng, đạt 82,6% kế hoạch, giảm 34,4% so cùng kỳ. Để đạt kế hoạch giải ngân năm 2021, Các ban quản lý dự án, chủ đầu tư và các ngành các cấp tập trung điều kiện đẩy nhanh tiến độ đầu tư công cũng như khối lượng giải ngân của các công trình dự án, sớm hoàn thành, đưa dự án vào hoạt động. Để bảo đảm chất lượng thi công, các Ban quản lý dự án phối hợp chặt chẽ cùng nhà thầu tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng gắn với thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh.  Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh thực hiện 2.398 tỷ đồng, đạt 76,8% kế hoạch, giảm 33,6% so cùng kỳ, chiếm 76,1% tổng số; trong đó: vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 499 tỷ đồng, giảm 33,5%, vốn xổ số kiến thiết thực hiện 1.263 tỷ đồng, giảm 10,1% so cùng kỳ... Các ngành các cấp phối hợp với các chủ đầu tư khắc phục khó khăn đẩy nhanh tiến độ thực hiện công trình nhằm đạt kế hoạch đề ra, nhiều công trình đã hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng, các công trình còn lại thi công đúng theo tiến độ đề ra. Ngoài ra các ban quản lý chủ đầu tư thực hiện các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 để không ảnh hưởng đến tiến độ thi công.  Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện 522 tỷ đồng, đạt 133,2% kế hoạch, giảm 35,7% so cùng kỳ, chiếm 16,5% tổng số; trong đó: vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 278 tỷ đồng, giảm 29,7% so cùng kỳ... Hiện nay nguồn vốn đầu tư của huyện, TP, TX thực hiện chủ yếu nguồn vốn phân cấp, tập trung cho các công trình, dự án giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.  Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp xã thực hiện 234,4 tỷ đồng, đạt 77,1% kế hoạch, giảm 38,9% so cùng kỳ, chiếm 7,4% tổng số; trong đó: vốn huyện hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 179 tỷ đồng, giảm 35,9% so cùng kỳ... Các xã tập trung điều kiện đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình giao thông nông thôn, thủy lợi nội đồng phục vụ địa phương. Trong đó, ưu tiên bố trí các dự án khởi công mới thuộc lĩnh vực giao thông, phòng, chống thiên tai, xử lý sạt lở bờ sông, bờ biển, biến đổi khí hậu, giáo dục, y tế, xây dựng nông thôn mới.  IV. THƯƠNG MẠI - GIÁ CẢ - DỊCH VỤ  1. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng  Các biện pháp giãn cách xã hội được nới lõng, tình hình kinh doanh từng bước được phục hồi. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong tháng có nhiều khởi sắc ước thực hiện 5.778 tỷ đồng, tăng 10,1% so tháng trước và giảm 8,7% so cùng kỳ. Mười một tháng, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thực hiện 55.594 tỷ đồng, đạt 79,1% kế hoạch, giảm 4% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 48.026 tỷ đồng, tăng 0,9%; lưu trú 21 tỷ đồng, giảm 50,2%; ăn uống 3.076 tỷ đồng, giảm 34,1%; du lịch lữ hành 6 tỷ đồng, giảm 78,2%; dịch vụ tiêu dùng khác 4.464 tỷ đồng, giảm 19,8% so cùng kỳ.  2. Xuất - Nhập khẩu  a. Xuất khẩu:  Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng thực hiện 192 triệu USD; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 28 triệu USD, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 163 triệu USD. Mười một tháng xuất khẩu 2.613 triệu USD, đạt 80,4% kế hoạch, giảm 4% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 39 triệu USD, giảm 22,8%; kinh tế ngoài nhà nước 448 triệu USD, giảm 19,3%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2.126 triệu USD, tăng 0,5% so cùng kỳ.  Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của tỉnh như sau:  - Thủy sản: ước tính tháng 11/2021 xuất 6.647 tấn, trị giá 14,5 triệu USD. Mười một tháng xuất 82.329 tấn, giảm 23,2%; giá trị xuất 176 triệu USD, đạt 55,1% kế hoạch, giảm 30,3% so cùng kỳ.  - Gạo: ước tính tháng 11/2021 xuất 2.687 tấn, với giá trị 1,3 triệu USD. Mười một tháng xuất 197.928 tấn, giảm 6,7%; giá trị xuất 100 triệu USD, đạt 71,8% kế hoạch, giảm 15,9% so cùng kỳ.  - Hàng dệt, may: ước tính tháng 11/2021 xuất 13.256 ngàn sản phẩm, với giá trị 46 triệu USD. Mười một tháng xuất 114.516 ngàn sản phẩm, giảm 50,2%; giá trị xuất 416 triệu USD, đạt 69,3% kế hoạch, giảm 19,4% so cùng kỳ.  - Kim loại thường và sản phẩm (kể cả đồng): ước tính tháng 11/2021 xuất 3.346 tấn, với giá trị 37 triệu USD. Mười một tháng xuất 62.290 tấn, giảm 23%; giá trị xuất 588 triệu USD, tăng 6,6% so cùng kỳ.   Ngoài các mặt hàng chủ yếu, trị giá xuất khẩu một số mặt hàng trong 11 tháng năm 2021 như: túi xách, vali, mũ và ô dù 182 triệu USD, giảm 21,2%; giày dép các loại 394 triệu USD, giảm 6,3%; xơ, sợi dệt các loại 94 triệu USD, tăng 7,4%... so cùng kỳ.  b. Nhập khẩu:  Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng 11/2021 trị giá 196 triệu USD. Mười một tháng, kim ngạch nhập khẩu 1.665 triệu USD, đạt 92,5% kế hoạch, tăng 20,7% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước nhập khẩu 142 triệu USD, tăng 52%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập 1.523 triệu USD, tăng 18,4% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu 11 tháng chủ yếu các mặt hàng như: kim loại thường khác 555 triệu USD, tăng 11,6%; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 312 triệu USD, tăng 37,1%; vải các loại 184 triệu USD, tăng 6%; máy móc thiết bị, dụng cụ văn phòng 159 triệu USD, tăng 85%... so cùng kỳ.  3. Chỉ số giá  Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2021 tăng 0,67% so tháng 10/2021 (thành thị tăng 0,83%, nông thôn tăng 0,63%); so cùng kỳ tăng 3,17%. Bình quân mười một tháng năm 2021 so cùng kỳ năm trước tăng 2,83%; Một số nhóm hàng có chỉ số giá tăng nhiều trong 11 tháng năm 2021 so cùng kỳ như: nhóm hàng giao thông tăng 12,55%, nhóm hàng giáo dục tăng 3,41%; nhóm hàng nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 3,33%;... Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính tháng 11 so tháng trước có 7 nhóm hàng tăng: đồ uống và thuốc lá tăng 0,59%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,11%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 2,24%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,08%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%; giao thông tăng 3,98% và nhóm Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,14%. Có 3 nhóm giảm giá: hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,46%; bưu chính viễn thông giảm 0,01%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,02%. Riêng nhóm Giáo dục chỉ số giá ổn định.  Nguyên nhân chỉ số giá tiêu dùng tháng 11/2021 tăng so tháng 10/2021:  - Giá thịt gia cầm các loại tăng 2,15% là do dịch Covid -19 được kiểm sót, các quán ăn, nhà hàng bắt đầu hoạt động trở lại.  - Thời tiết không thuận lợi, ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng thu hoạch rau xanh giảm, tác động giá bán lẻ rau xanh tại các chợ tăng 0,82%, góp phần tác động đến CPI chung tăng 0,02%. Bên cạnh đó, do địa phương kiểm soát tốt dịch bệnh nên hàng hoá được lưu thông dễ dàng, sức mua tăng hơn tháng trước, dẫn đến giá các mặt hàng hoa quả tươi tại địa phương tăng nhẹ.  - Từ ngày 01/11/2021 giá gas bán lẻ trong nước điều chỉnh tăng 6,94%, tương ứng tăng 17.000 đồng/bình 12kg; Giá dầu hoả bình quân trong tháng tăng 7,3%, tương ứng tăng 1.010 đồng/lít so với tháng trước. Tác động nhóm gas và chất đốt khác tăng 4,6%, góp phần tác động đến CPI chung tăng 0,06%.  - Giá điện sinh hoạt tăng 11,34% (tháng trước do ảnh hưởng dịch bệnh Covid bùng phát lần thứ tư, nhà nước hỗ trợ giá từ 10% đến 15%) nên góp phần tác động đến CPI chung của tháng 11/2021 tăng 0,33%.  - Giá xăng dầu trong nước điều chỉnh tăng 8,36% vào ngày 26/10 và ngày 10/11/2021, góp phần tác động đến CPI chung tăng 0,37%.  Bên cạnh đó, một số mặt hàng có chỉ số giá giảm quyền số nhỏ nên tác động chưa đủ lớn đến chỉ số giá tiêu dùng chung như:  - Giá gạo giảm 0,39% so với tháng trước do địa phương đã thu hoạch xong vụ lúa Hè thu, tác động nhóm lương thực trong tháng giảm 0,52% so với tháng trước.  - Giá thịt lợn tiêu thụ giảm 6,21% so với tháng trước do tình hình dịch tả lợn Châu phi lại tiếp tục xảy ra trên địa bàn tỉnh gây ảnh hưởng đến tâm lý của người dân khi tiêu dùng thịt lợn, dẫn đến sức mua giảm, tác động giá thịt lợn bán lẻ tại các chợ giảm nhẹ...  Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 11/2021 tăng 2,4% so tháng trước, giảm 2% so cùng kỳ; giá vàng bình quân tháng 11/2021 là 5.301 ngàn đồng/chỉ, giảm 108 ngàn đồng/chỉ so cùng kỳ.  Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 11/2021 giảm 0,28% so tháng trước và giảm 2,03% so cùng kỳ; giá bình quân tháng 11/2021 là 22.796 đồng/USD, giảm 474 đồng/USD so cùng kỳ.  Ước chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2021 tăng từ 0,3% đến 0,6% so tháng 11/2021 do giá gạo trong nước sẽ tăng nhẹ vì nhu cầu xuất khẩu tăng để cung ứng đủ số lượng gạo hợp đồng đã ký ngay từ đầu năm; thời tiết lạnh, năng suất thu hoạch giảm dẫn tới giá rau xanh, củ, quả sẽ tăng; nhóm thịt gia súc, gia cầm giá cũng tăng nhẹ do nhu cầu dùng chế biến thực phẩm phục vụ thị trường tết Dương lịch, Noel sắp tới.  4. Du lịch  Hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh hiện nay vẫn chưa hoạt động trở lại trạng thái bình thường đã tác động mạnh đến hoạt động du lịch, dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành. Khách đến trong tháng chủ yếu là cán bộ, chuyên gia ngành y tế của các tỉnh đến hỗ trợ tỉnh Tiền Giang trong công tác phòng chống dịch bệnh, ước tính có 1,7 ngàn lượt khách, tăng 5,5 lần so tháng trước và giảm 96,5% so cùng kỳ. Doanh thu lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác trong tháng 11 đạt 581 tỷ đồng, tăng 81,2% so tháng trước và giảm 49,2% so cùng kỳ.  Tính chung mười một tháng, lượt khách du lịch đến Tiền Giang là 266 ngàn lượt khách, đạt 24,1% kế hoạch và giảm 59,3% so cùng kỳ; trong đó: khách quốc tế 3,8 ngàn lượt khách, giảm 96,1% so cùng kỳ. Tổng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác đạt 7.568 tỷ đồng, giảm 26,5% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ ăn uống chiếm tỷ trọng 40,6%, ước đạt 3.075 tỷ đồng, giảm 34,1%; lưu trú đạt 21 tỷ đồng, giảm 50,2% so cùng kỳ...  5. Vận tải  5.1. Kết quả hoạt động vận tải:  Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải trong tháng thực hiện 107 tỷ đồng, tăng 11,9% so tháng trước và giảm 35,4% so cùng kỳ. Nguyên nhân doanh thu vận tải tháng này tăng so với tháng trước là do Ngành giao thông Thực hiện Phương án số 2474/PA-SGTVT ngày 19/10/2021 tổ chức hoạt động vận tải thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang. Ngoài ra nhu cầu vận chuyển hàng hoá để sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh cá thể tăng lên, nhằm đáp ứng kịp các đơn hàng của đối tác đã ký hợp đồng ngay từ đầu năm. Mười một tháng thực hiện 1.413 tỷ đồng, giảm 22,3% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 326 tỷ đồng, giảm 36,9%; doanh thu vận tải hàng hóa thực hiện 925 tỷ đồng, giảm 16,9% so cùng kỳ. Doanh thu vận tải đường bộ thực hiện 638 tỷ đồng, giảm 27,6%; doanh thu vận tải đường thủy thực hiện 614 tỷ đồng, giảm 18,1%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 162 tỷ đồng, giảm 14,2% so cùng kỳ. Nguyên nhân doanh thu vận tải giảm so cùng kỳ năm trước là do sự ảnh hưởng kéo dài dịch bệnh covid-19, tác động tiêu cực đến mọi hoạt động của nền kinh tế, trong đó có kết quả hoạt động ngành vận tải kho bãi.  a) Vận tải hành khách  Trong tháng ước tính đạt 1.769 ngàn hành khách, tăng 27% so tháng trước và giảm 35,8% so cùng kỳ; luân chuyển 20.019 ngàn hành khách.km, tăng 41,4% so tháng trước và giảm 63,2% so cùng kỳ. Mười một tháng, vận chuyển 20.477 ngàn hành khách, giảm 34,5% so cùng kỳ; luân chuyển 340.560 ngàn hành khách.km, giảm 38,4% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 8.992 ngàn hành khách, giảm 33,4% và luân chuyển 326.150 ngàn hành khách.km, giảm 38,2% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 11.485 ngàn hành khách, giảm 35,4% và luân chuyển 14.410 ngàn hành khách.km, giảm 43,5% so cùng kỳ.  b) Vận tải hàng hóa  Trong tháng vận tải hàng hóa đạt 714 ngàn tấn, tăng 4,3% so tháng trước và giảm 28,6% so cùng kỳ; luân chuyển 93.180 ngàn tấn.km, tăng 3,9% so tháng trước và giảm 22,8% so cùng kỳ. Mười một tháng, vận tải 8.960 ngàn tấn hàng hóa, giảm 14,7% so cùng kỳ; luân chuyển 1.159.555 ngàn tấn.km, giảm 14,3% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 2.041 ngàn tấn, giảm 13,6% và luân chuyển 216.603 ngàn tấn.km, giảm 21,9% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 6.919 ngàn tấn, giảm 15% và luân chuyển 942.952 ngàn tấn.km, giảm 12,3% so cùng kỳ.  5.2. Công tác quản lý phương tiện giao thông                    Trong tháng, đăng ký mới 84 xe ô tô và 02 xe khác. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh là 1.355.103 chiếc, chia ra: mô tô xe máy: 1.312.967 chiếc, 41.342 chiếc xe ô tô, 152 xe ba bánh, 192 chiếc xe đạp điện và 450 xe khác.   6. Bưu chính viễn thông  Doanh thu trong tháng 11/2021 đạt 268 tỷ đồng, tăng 1,1% so tháng trước và tăng 4,9% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 25 tỷ đồng, tăng 3,7% và viễn thông 243 tỷ đồng, tăng 0,8% so tháng trước. Mười một tháng doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 2.904 tỷ đồng, tăng 4,2% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 263 tỷ đồng, tăng 12,5% và viễn thông 2.641 tỷ đồng, tăng 3,5% so cùng kỳ.  Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 11/2021 là 102.959 thuê bao, mật độ bình quân đạt 5,8 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Thuê bao internet có trên mạng cuối tháng 11/2021 là 285.880 thuê bao, mật độ internet bình quân đạt 16,1 thuê bao/100 dân. Số thuê bao điện thoại di động có sử dụng internet (3G, 4G) đến cuối tháng 10/2021 là 1.410.553 thuê bao.  V.TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG  1. Tài chính  Thu ngân sách nhà nước trong tháng thực hiện 779 tỷ đồng; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn 625 tỷ đồng, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 212 tỷ đồng. Mười một tháng, thu ngân sách trên địa bàn 7.713 tỷ đồng, đạt 72,7% kế hoạch, giảm 20% so cùng kỳ; trong đó: thu nội địa 7.322 tỷ đồng, đạt 70,8% dự toán, giảm 22,5% so cùng kỳ (trong thu ngân sách trên địa bàn: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.431 tỷ đồng, đạt 70,5% dự toán, giảm 23,9% so cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 914 tỷ đồng, đạt 65,3% dự toán, tăng 19,1% so cùng kỳ...).  Chi ngân sách nhà nước trong tháng 1.148 tỷ đồng; trong đó: chi đầu tư phát triển 250 tỷ đồng. Mười một tháng, chi 11.691 tỷ đồng, đạt 95,4% dự toán, giảm 22,3% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 3.065 tỷ đồng, đạt 82,8% dự toán, giảm 37,1% so cùng kỳ; chi hành chính sự nghiệp 6.463 tỷ đồng, đạt 94,1% dự toán và tăng 2,6% so cùng kỳ.  2. Ngân hàng  Trong tháng, tiếp tục đẩy nhanh thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp theo tinh thần Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2021, Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ; Chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 07/01/2021 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN). Hoạt động ngành Ngân hàng tỉnh tiếp tục chủ động, phối hợp thực hiện các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp và người dân khắc phục khó khăn, giảm bớt thiệt hại do dịch bệnh, góp phần đẩy nhanh quá trình hồi phục nền kinh tế.  Đến cuối tháng 10/2021, vốn huy động đạt 77.132 tỷ đồng, tăng 1,7% so với cuối năm 2020. Mức tăng bình quân là 0,2%/tháng. Ước tính đến cuối tháng 11/2021, nguồn vốn huy động đạt 77.373 tỷ đồng, tăng 1.525 tỷ, tỷ lệ 2,% so với cuối năm 2020.  Mặt bằng lãi suất cho vay tại các chi nhánh ngân hàng thương mại (NTHM) trên địa bàn tỉnh có xu hướng giảm mạnh so với cuối năm 2020, ổn định, góp phần tích cực hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh. Lãi suất cho vay VND áp dụng phổ biến ở mức trên 4,5%-9%/năm đối với ngắn hạn và trên 9%-11%/năm đối với trung dài hạn. Các TCTD chấp hành nghiêm các mức trần lãi suất theo quy định của NHNNVN nhất là trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên theo Thông tư số 39/2016/TT-NHNN là 4,5%/năm.  Nợ xấu: đến cuối tháng 10/2021, số dư là 826 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,2%, giảm 0,1% so cuối năm 2020 và tăng 0,16% so với cuối tháng 6/2021 là thời điểm dịch bệnh bắt đầu bùng phát trên địa bàn tỉnh. Ước đến cuối tháng 11/2021, nợ xấu là 850 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,2%, tăng 0,02% so cuối năm 2020.  Hệ thống Quỹ Tín dụng nhân dân trên địa bàn tỉnh hoạt động ổn định, các chỉ tiêu đều đạt mức tăng trưởng. Một số kết quả đạt được đến cuối tháng 10/2021 so với cuối năm 2020 như sau: tổng nguồn vốn hoạt động đạt 1.211 tỷ đồng, tăng 80 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 7,1%; tổng dư nợ cho vay đạt 834 tỷ đồng, giảm 17 tỷ đồng, tỷ lệ giảm 2,01% (trong đó: dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng 43,2%); nợ xấu: số dư 5,6 tỷ đồng, tăng 2,9 tỷ, tỷ lệ nợ xấu 0,7%, tăng 0,36%.  VI. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  Trong tháng, Hội đồng tư vấn tuyển chọn thẩm định 2 nhiệm vụ khoa học và công nghệ (KH&CN) cấp tỉnh; triển khai 2 nhiệm vụ KH&CN (1 cấp tỉnh, 1 cấp cơ sở). Nghiệm thu giai đoạn 1 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh, nghiệm thu kết thúc 5 nhiệm vụ KH&CN (2 cấp tỉnh, 3 cấp cơ sở).Đến tháng 11/2021, thẩm định nội dung 15 nhiệm vụ; nghiệm thu kết thúc 13 nhiệm vụ; nghiệm thu giai đoạn 18 nhiệm vụ; Quyết định triển khai 18 nhiệm vụ; Quyết định công nhận 13 nhiệm vụ; Gia hạn 07 nhiệm vụ KH&CN.  VII. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI  1. Lao động việc làm:  Trong tháng, tư vấn cho 1.027 lượt lao động, giảm 68,9% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó tư vấn nghề cho 22 lượt lao động, tư vấn việc làm 179 lượt lao động, tư vấn việc làm cho 795 lượt lao động thất nghiệp, tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác cho 31 lượt lao động; giới thiệu việc làm cho 367 lao động, giảm 59,6% so với cùng kỳ; đã giới thiệu cho 37 lao động có được việc làm ổn định, giảm 91,7% so với cùng kỳ. Tư vấn 29 lượt lao động có nguyện vọng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, giảm 62,3% so với cùng kỳ, có 03 lao động đăng ký tham gia, tăng 03 lao động so với cùng kỳ; 02 lao động xuất cảnh qua Nhật Bản, giảm 96,8% so với cùng kỳ. Về trợ cấp thất nghiệp trong tháng có 825 quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp được ban hành, giảm 70,6% so với cùng kỳ, với tổng số tiền chi trả tương đương 20,7 triệu đồng, cùng với đó thực hiện tư vấn, giới thiệu việc làm cho 743 lao động thất nghiệp.  2. Chính sách xã hội:  Quỹ đền ơn đáp nghĩa vận động được 3,1 tỷ đồng, lũy kế từ đầu năm vận động được 8,9 tỷ đồng tương đương cùng kỳ năm 2020; xây dựng được 24 căn nhà tình nghĩa với tổng số tiền 960 triệu đồng, lũy kế từ đầu năm xây dựng được 59 ngôi nhà tình nghĩa, với tổng số tiền 2,4 tỷ đồng, giảm 41% so với cùng kỳ; sửa chữa 28 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 560 triệu đồng, lũy kế từ đầu năm sửa chữa được 79 ngôi nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 1,6 tỷ đồng tăng 6% so với cùng kỳ.  3. Hoạt động y tế:  Trong tháng có 06/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận. So với cùng kỳ về số mắc, có 02 bệnh tăng: viêm não do vi rút (+3 ca), Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Covid-19 gây ra (+22.477 ca); 16 bệnh giảm: liên cầu lợn ở người (-4 ca), ho gà (-1 ca), lao phổi (-446), lỵ a míp (-2 ca), quai bị (-35 ca), sởi (-38 ca), tay chân miệng (-191 ca), Sốt xuất huyết (-1.136 ca), thương hàn (-9 ca), thủy đậu (-95 ca), tiêu chảy (-999 ca), uốn ván khác (-3 ca), viêm gan siêu vi A (- 2 ca), viêm gan siêu vi B (-20 ca), viêm gan siêu vi C (-4 ca), Zika(-1 ca); 26 bệnh tương đương và hoặc không xảy ra ca mắc. Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết ghi nhận trong tháng 61 ca, cộng dồn số ca mắc hiện tại 1.826 ca, giảm 38,4% so với cùng kỳ, không ghi nhận ca tử vong. Phòng chống HIV/AIDS toàn tỉnh có 5.987 người nhiễm; 1.806 người chuyển sang AIDS; tử vong do AIDS 1.002 người.  Số lượng bệnh nhân đến khám ngoại trú và điều trị nội trú đều giảm so với cùng kỳ năm 2020: Tổng số lần khám bệnh 3.454.526 lượt người, giảm 40,6% so với cùng kỳ; Tổng số người điều trị nội trú 160.976 lượt người, giảm 49,1%. Công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong tháng đạt 53,8%.  Covid - 19: Ngày 24/11/2021 Sở Y tế đã ban hành quyết định số 1765/QĐ-SYT công bố cấp độ dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang (tuần đánh giá 18 – 24/11). Theo đó, toàn tỉnh Tiền Giang thuộc cấp độ 2; có 8/11 huyện, Thị xã, Thành phố cấp độ 2 (huyện Châu Thành, Gò Công Đông, Tân Phú Đông thuộc cấp độ 3). Kể từ ngày có ca nhiễm đầu tiên trong cộng đồng (5/6/2021) đến 23/11/2021 toàn tỉnh có 24.056 ca, 18.449 ca được điều trị khỏi; 486 ca tử vong. Tính đến ngày 22/11 tỷ lệ tiêm vaccine cho người dân từ 18 tuổi trở lên tiêm mũi 1 đạt 99,2% và đủ liều vaccine đạt 76,1%.       4. Hoạt động giáo dục:  Trong tháng, ngành Giáo dục - Đào tạo đã kiểm tra việc tổ chức dạy học trực tuyến tại các cơ sở giáo dục tiểu học; Tham gia dự giờ, thăm lớp một số tiết dạy của giáo viên nhằm củng cố, nâng cao hiệu quả chất lượng dạy học. Tính đến thời điểm đầu tháng 11/2021, toàn tỉnh có 134.929/137.915 học sinh được tham gia học tập, đạt tỷ lệ 97,83 %; Hiện tại đang còn 3.279 học sinh chưa có thiết bị tham gia học tập, chiếm tỷ lệ 2,38%. Cùng với đó, ngành Giáo dục – Đào tạo đã phối hợp với Viễn thông Tiền Giang tổ chức phát sóng dạy học qua truyền hình trên kênh MyTV Tiền Giang từ ngày 08/11/2021 đối với môn Tiếng Việt và Toán lớp 1, lớp 2; đồng thời tổ chức dạy và học trực tuyến 10/11 đơn vị cấp huyện riêng huyện Tân Phú Đông ngày 8/11 có khối học sinh lớp 9 và lớp 12 học trực tiếp. Tổ chức kiểm tra hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận trúng tuyển lớp 10 năm học 2021 - 2022; Ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án "Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021 - 2030 tỉnh Tiền Giang”.  5. Hoạt động văn hóa - thể thao:  Trong tháng, lĩnh vực văn hóa đã diễn ra hoạt động sinh hoạt đờn ca tài tử tại rạp hát Thầy Năm Tú theo đề án “Bảo tồn, phát huy nghệ thuật Đờn ca tài tử tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2021 - 2025”. Trung tâm Văn hóa – Nghệ thuật tỉnh đã tổ chức 6 lượt xe loa tuyên truyền trong tình hình dịch bệnh Covid-19; Về hoạt động thể dục - thể thao: Giải Bóng đá hạng Nhì quốc gia năm 2021 được hủy từ tháng 10/2021 do tình hình dịch bệnh Covid diễn biến phức tạp. Bên cạnh đó, vận động viên được huấn luyện qua hình thức trực tuyến, chuẩn bị lực lượng để tham gia các giải thể thao vào cuối năm 2021 khi tình hình dịch được kiểm soát ổn định.  6. Trật tự an toàn giao thông (theo báo cáo của ngành Công an):  Tai nạn giao thông đường bộ: Tai nạn giao thông xảy ra 17 vụ, tăng 10 vụ so tháng trước và giảm 22 vụ so cùng kỳ, tử vong 11 người, tăng 08 người so tháng trước và giảm 08 so với cùng kỳ, bị thương 13 người, tăng 11 người so tháng trước và giảm 23 người so cùng kỳ. Nguyên nhân số vụ tai nạn trong tháng tăng so với tháng trước do việc nới lõng giãn cách xã hội để các hoạt động kinh tế và xã hội được hoạt động trở lại bình thường, từ đó người dân đi lại nhiều dẫn đến số vụ tai nạn giao thông tăng. Vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ xảy ra 1.285 vụ, tăng 108 vụ so tháng trước và giảm 2.069 vụ so cùng kỳ. Trong đó không giấy phép lái xe 167 vụ, giấy phép không hợp lệ 02 vụ, chạy quá tốc độ qui định 123 vụ, không đội mũ bảo hiểm 336 vụ, uống rượu điều khiển phương tiện 23 vụ.  Tai nạn giao thông đường thủy: Tai nạn trong tháng không xảy ra, tương đương so tháng trước và cùng kỳ. Vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy trong tháng xảy ra 1.202 vụ, tăng 435 vụ so tháng trước và giảm 683 vụ so cùng kỳ; trong đó không bằng cấp chuyên môn 8 vụ, chở quá vạch mớn nước an toàn 1.025 vụ, thiếu trang thiết bị an toàn 13 vụ và vi phạm khác 156 vụ.  7. Tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội (theo báo cáo ngành Công an):  Tội phạm về trật tự xã hội ghi nhận 84 vụ, tăng 32 vụ so với liền kề; lũy kế đến tháng 11/2021 ghi nhân 1.071 vụ, giảm 221 vụ so với cùng kỳ, làm chết 10 người, bị thương 12 người, tài sản thiệt hại khoảng 2,3 triệu đồng; trong đó xảy ra 08 vụ giết người, 08 vụ cố ý gây thương tích, nguyên nhân chủ yếu do mâu thuẫn cá nhân bộc phát nhất thời chưa giải quyết triệt để (tranh chấp đất đai, ghen tuông tình ái, vay mượn nợ, mâu thuẫn trong lúc uống rượu, bia...); tội phạm cướp giật tài sản, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản tăng (45/30 vụ).   Phát hiện, xử lý 24 tụ điểm cờ bạc, 155 đối tượng liên quan; 11 vụ, 15 đối tượng phạm tội về ma túy và xử lý vi phạm hành chính 76 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; 01 vụ, 01 đối tượng có hành vi tham ô tài sản; 03 vụ, 03 đối tượng có hành vi buôn bán, vận chuyển hàng cấm, tang vật thu giữ 6.926 bao thuốc lá ngoại nhập lậu; 03 vụ 03 đối tượng có hành vi vận chuyển hóa không hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc, thu giữ 32,175m3 cát, 741 bao phân bón các loại.  8. Tình hình cháy nổ, môi trường:  Trong tháng, ghi nhận 01 vụ cháy (nhà dân), tài sản thiệt hại trị giá khoảng 10 triệu đồng, nguyên nhân do chập điện, nâng số vụ cháy, nổ từ đầu năm đến nay là 29 vụ, 01 người chết và thiệt hại về tài sản gần 6 tỷ đồng. Thiên tai tháng 11, xảy ra 01 vụ lốc xoáy và 44 điểm sạt lỡ, ước tổng giá trị thiệt hại 36.040 triệu đồng, bao gồm thiệt hại về tài sản như sập 2 căn nhà, tốc mái 26 căn nhà; thiệt hại về cây ăn trái, ngã đỗ (sapo 121 cây, 10 cây bưởi, 02 cây xoài); 2.184 đê bị sạt lở. Về lĩnh vực môi trường tháng 11 không có trường hợp vi phạm về môi trường trên địa bàn tỉnh.

Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang tháng 10 năm 2021
  •   18/06/2024 15:57

Tình hình dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh đến thời điểm hiện tại đã được kiểm soát kết quả đạt được với quyết tâm cao trong phòng chống dịch bệnh của cả hệ thống chính trị. Song song đó, lãnh đạo tỉnh nhà cũng rất quyết tâm chỉ đạo các giả pháp để “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả Covid – 19 theo Nghị quyết số 128/NQ-CP. Kết quả cụ thể của các ngành trong tháng như sau:  I. SẢN XUẤT NÔNG - LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN  1. Nông nghiệp  *Trồng trọt: Cây lương thực có hạt: trong tháng gieo trồng 52 ha, sản lượng thu hoạch 211.030 tấn; ước tính đến cuối tháng 10/2021, gieo trồng 134.134 ha, đạt 100,1% kế hoạch, giảm 3,8% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch 801.357 tấn, đạt 99,7% kế hoạch, tăng 0,2% so với cùng kỳ; trong đó, cây lúa gieo sạ 131.846 ha giảm 3,1% so cùng kỳ, thu hoạch 126.375 ha giảm 4,6% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch 793.201 tấn tăng 0,7% so cùng kỳ.  - Cây lúa:  Vụ Hè thu (Xuân Hè + Hè Thu): Mùa mưa đến sớm, không chịu ảnh hưởng bởi hạn, mặn nên sản xuất lúa vụ Hè thu 2021 tương đối thuận lợi, bố trí sản xuất hợp lý, lịch thời vụ chuyển dịch phù hợp với điều kiện từng vùng sinh thái. Diện tích gieo trồng 74.728 ha (bao gồm vụ Xuân hè 24.905 ha và Hè thu 49.823 ha) đạt 97,5% kế hoạch, giảm 1,5% so cùng kỳ; diện tích gieo trồng giảm so cùng kỳ do chuyển đổi sang trồng cây rau màu, cây ăn quả và nuôi trồng thủy sản có hiệu quả kinh tế cao hơn. Thu hoạch lúa Hè Thu đạt 74.728 ha, giảm 1,4% so cùng kỳ; sản lượng đạt 426.012 tấn, tăng 2,9% so với cùng kỳ do năng suất bình quân tăng 4,4% so cùng kỳ (đạt 57 tạ/ha).  Vụ Thu đông: Diện tích gieo trồng 5.417 ha; tăng 112,6% so cùng kỳ (gieo trồng chủ yếu ở 05 huyện phía đông chiếm 66,3% diện tích còn lại huyện Tân Phước, Châu Thành). Dù chủ trương cắt vụ lúa Thu đông nhằm tránh ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, đặc biệt là tình hình hạn, mặn đã được ngành Nông nghiệp khuyến cáo, nhưng việc tổ chức thực hiện vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhiều hộ dân không tuân thủ khuyến cáo, chấp nhận thiệt hại dù đã được các địa phương tuyên truyền, vận động làm cho diện tích tăng cao so với cùng kỳ.  - Cây ngô: Diện tích trồng trong tháng 52 ha, nâng tổng diện tích gieo trồng 2.288 ha, giảm 32,1% so cùng kỳ; năng suất bình quân 35,7 tạ/ha, sản lượng 8.156 tấn, giảm 32,9% so cùng kỳ, chuyển đổi sang trồng cây thanh long, một số cây ăn quả khác. Huyện Chợ Gạo nằm trong vùng ngọt hóa Gò Công phía đông tỉnh Tiền Giang có diện tích trồng ngô lớn nhất tỉnh với 958 ha chiếm 42,8% diện tích ngô toàn tỉnh. Đây cũng là địa phương có tốc độ chuyển dịch cơ cấu sản xuất từ trồng lúa sang các cây trồng khác mạnh nhất tỉnh.  Cây rau đậu các loại: trong tháng 10/2021 gieo trồng được 494 ha, tăng 57,5% so cùng kỳ, thu hoạch 1.375 ha, tăng 3,7% so cùng kỳ. Mười tháng năm 2021 gieo trồng 54.331 ha, đạt 87% kế hoạch, tăng 6,7% so cùng kỳ; thu hoạch 46.749 ha, tăng 2,9% so cùng kỳ; với sản lượng 944.317 tấn, đạt 78,1% kế hoạch, tăng 3,3% so cùng kỳ. Bao gồm diện tích gieo trồng rau các loại 54.080 ha, tăng 6,6% so cùng kỳ, nguyên nhân do chuyển từ đất trồng lúa, năng suất ước 207,7 tạ/ha tăng 0,4% so cùng kỳ, sản lượng 943.747 tấn, tăng 3,3% so cùng kỳ do nông hộ tăng cường ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong sản xuất, mở rộng quy mô trồng rau trong nhà lưới kiểm soát được sâu bệnh, nhiều loại giống mới được đưa vào sản xuất nên năng suất, sản lượng tăng; Diện tích gieo trồng đậu các loại 251 ha, so cùng kỳ tăng 18,3%; Sản lượng 570 tấn, so cùng kỳ tăng 5,2% do diện tích thu hoạch tăng.  Chăn nuôi: Thời điểm 01/10/2021 tổng đàn gian súc, gia cầm của tỉnh như sau: Đàn bò hiện có 120.871 con, tăng 1,8% so cùng kỳ, tương ứng tăng 2.185 con so cùng kỳ, sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng trong tháng đạt 1.600 tấn, cộng dồn đạt 18.586 tấn, giảm 3,9% tương ứng giảm 761 tấn so với cùng kỳ. Đàn lợn 275.625 con, giảm 1,7% tương ứng giảm 4.780 con so với cùng kỳ, sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 10 đạt 6.511 tấn giảm 4,1% tương ứng giảm 276 tấn so cùng kỳ. Tính chung 10 tháng đạt 63.577 tấn, giảm 12,4% tương ứng giảm 9.030 tấn; Tổng đàn gia cầm của tỉnh là 17.100 ngàn con, tăng 0,4% tương ứng tăng 65 ngàn con so với cùng kỳ. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng trong tháng 10 đạt 4.147 tấn, giảm 8,5% tương ứng giảm 387 tấn so cùng kỳ, nâng tổng số sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 10 tháng năm 2021 đạt 45.532 tấn, giảm 3,1% tương ứng giảm 1.433 tấn so với cùng kỳ. Nguyên nhân sản lượng chăn nuôi gia súc, gia cầm giảm do dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, khó lường trên địa bàn tỉnh, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình tiêu thụ hàng hóa, vì vậy tình hình tiêu thụ gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh có chiều hướng giảm mạnh; Giá cả thịt lợn hơi giảm liên tục từ đầu năm đến hiện nay, giá thức ăn chăn nuôi trong tháng tiếp tục tăng mạnh, người chăn nuôi không dự đoán được thị trường nên rất lo lắng khi tái đàn.  * Tình hình dịch bệnh trên động vật trong tháng 10: (Theo báo cáo của Chi cục Thú y tỉnh):   Trên gia cầm: Trong tháng không ghi nhận. Luỹ tiến: ghi nhận 03 trường hợp/03 xã/03 huyện có gà bệnh cúm gia cầm với tổng đàn 9.006 con; trong đó, gà bệnh và chết được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 8.836 con.  Trên gia súc:  + Bệnh lở mồm long móng: Trong tháng không ghi nhận. Lũy tiến: 01 trường hợp heo mắc bệnh lở mồm long móng tại huyện Cái Bè, tổng đàn 35 con. Chính quyền địa phương tổ chức tiêu hủy 35 con heo bệnh; đồng thời triển khai thực hiện công tác tiêu độc khử trùng tại cơ sở thu gom heo.  + Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP): Trong tháng ghi nhận 16 trường hợp heo mắc bệnh Dịch tả lợn Châu Phi trên địa bàn huyện Cái Bè, TX Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước và Gò Công Đông với tổng đàn 666 con. Số heo được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 335 con. Luỹ tiến: Từ ngày 15/12/2020, trên địa bàn toàn tỉnh ghi nhận 34 hộ có heo mắc bệnh DTLCP với tổng đàn 1.110 con tại 20 xã/08 huyện (Cái Bè: 06 xã; Thị xã Cai Lậy: 01 xã; Châu Thành: 02 xã; Tân Phước: 02 xã; Gò Công Tây: 03 xã; Gò Công Đông: 04 xã; Tân Phú Đông: 01 xã; Chợ Gạo: 01 xã). Tổng số heo được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 677 con trên 31 hộ. Ngoài ra, địa phương tiêu hủy heo bệnh chết tại 02 hộ cũ (Bệnh trước ngày 15/12/2020), với số lượng 105 con.  + Bệnh viêm da nổi cục (VDNC): Trong tháng ghi nhận 201 hộ/104 ấp/55 xã/09 huyện có bò mắc bệnh VDNC với tổng đàn 904 con, số bò mắc bệnh là 314 con. Đã tiêu hủy 11 con/11 hộ có bò bệnh, chết. Lũy tiến: Toàn tỉnh đã ghi nhận bò có dấu hiệu điển hình của bệnh VDNC tại 311 hộ /147 ấp/63 xã/10 đơn vị huyện (trừ Thị xã Gò Công) với số bò bệnh là 482 con/tổng đàn 1.472 con.  2. Lâm nghiệp:  Tổng diện tích rừng hiện có là 1.925,2 ha (Không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng). Trong đó rừng phòng hộ 1.337,4 ha (huyện Gò Công Đông: 444,8 ha; huyện Tân Phú Đông: 848,8 ha và huyện Tân Phước: 43,8 ha); rừng sản xuất 587,8 ha.  Tháng 10/2021 toàn tỉnh thực hiện trồng mới được 10,6 ngàn cây phân tán nâng tổng số cây trồng 838,5 ngàn cây các loại, tăng 30,8% so với cùng kỳ. Những cây trồng mới chủ yếu là cây bạch đàn, tràm bông vàng trồng trên các tuyến đê, tuyến đường xã đạt và phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới giao cho dân chăm sóc.  3. Thủy hải sản:  Trong tháng, thủy sản các loại thả nuôi 371 ha, giảm 45,3% so cùng kỳ; Mười tháng thả nuôi 15.139 ha, đạt 99,7% kế hoạch và giảm 3% so cùng kỳ; Thủy sản nước ngọt nuôi 4.695 ha, giảm 5% so cùng kỳ; Thủy sản nước mặn, lợ nuôi 10.444 ha, giảm 2% so cùng kỳ, diện tích giảm chủ yếu là nuôi tôm sú nuôi quảng canh và nuôi tôm thẻ chân trắng do bị ảnh hưởng dịch Covid-19 tôm xuất ra ngoài tỉnh không được, giá tôm giảm mạnh nên sản lượng thu hoạch cũng giảm theo vì vậy người dân chỉ tiêu thụ sản phẩm trong phạm vi ở địa phương mình. Do độ mặn và tình hình dịch bệnh chưa ổn định nên người dân đang chờ thời tiết thích hợp thì tiến hành thả giống, các hộ nuôi tôm thâm canh và quảng canh cải tiến rất thận trọng trong việc chọn mua giống.  Sản lượng thủy sản trong tháng thu hoạch 33.292 tấn, giảm 3,9% so cùng kỳ. Mười tháng thu hoạch 255.741 tấn, đạt 87,2% kế hoạch, tăng 0,3% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 131.320 tấn, đạt 80,7% kế hoạch, tăng 0,7% so cùng kỳ, sản lượng khai thác 124.421 tấn, đạt 95,2% kế hoạch, giảm 0,1% so cùng kỳ.  II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP  Tình hình dịch Covid-19 đang bùng phát mạnh trong những tháng trước đã làm cho các doanh nghiệp tạm dừng hoạt động để phòng chống dịch, chỉ còn vài doanh nghiệp sản xuất sản phẩm thiết yếu thực hiện hoạt động sản xuất theo phương án 3 tại chỗ. Trong những tuần đầu tháng 10 Ủy ban nhân dân tỉnh đã tổ chức cho 34 doanh nghiệp tái sản xuất lại theo hướng 3 tại chỗ và đang tiếp tục thẩm định các doanh nghiệp đủ điều kiện đăng ký 3 tại chỗ để các doanh nghiệp sớm quay lại sản xuất. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 10/2021 tăng 1,8% so với tháng trước, do một số ngành sản xuất công nghiệp chủ yếu của tỉnh như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 5,5%; Sản xuất trang phục tăng 1,2%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 7 lần so tháng trước (ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 25,6%; các ngành còn lại có chỉ số giảm như không đáng kể) và giảm 20% so cùng kỳ. Các ngành chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh có chỉ số giảm so cùng kỳ, như: sản xuất trang phục giảm 35,8%, sản xuất thiết bị điện giảm 77,2%... (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 22,5%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 2,9%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,5%).  Chỉ số sản xuất công nghiệp 10 tháng đầu năm 2021 giảm 3,6% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 3,8%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 1,7%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,4%.  Chỉ số sản xuất sản phẩm trong 10 tháng so cùng kỳ như sau:  - Có 8/42 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Bộ com lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 38,9%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng bột/cốm tăng 18,3%; Bia đóng chai tăng 17,8%; Bia đóng lon tăng 12,4%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 7,5%; Ống và ống dẫn bằng đồng tăng 2,7%; Thức ăn cho gia súc tăng 1,2%.  - Có 34/42 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu, thuyền giảm 52,5%; Đồ chơi hình con vật hoặc sinh vật không phải hình người giảm 51,4%; Dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 49,7%; Giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài giảm 40,2%; Áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc giảm 35,4%; Giấy vệ sinh giảm 33,8%; Bao và túi (kể cả loại hình nón) từ plastic khác giảm 33,4%; Phân vi sinh giảm 33,3%; Thức ăn cho thủy sản giảm 9,6%;…  Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 10/2021 so với tháng trước tăng 98,3%; trong đó: doanh nghiệp nhà nước bằng 100%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 39%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 139,5%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 10/2021 so với cùng kỳ giảm 43,7%; trong đó: trong đó doanh nghiệp nhà nước giảm 6,4%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 48,1%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 43,9%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 10 năm 2021 giảm 19,8%, trong đó doanh nghiệp nhà nước giảm 2,6%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 17,3%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 21,1%. Chia theo ngành công nghiệp: Công nghiệp chế biến chế tạo giảm 20,3%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 0,4%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải giảm 2,3%.  * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo:  - Chỉ số tiêu thụ tháng 10/2021 so với tháng trước giảm 3,2% và giảm 41,9% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 10 năm 2021 giảm 19,6%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ như: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 18,5%, trong đó chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản giảm 28,2%; Dệt giảm 21,9%, trong đó sản xuất sợi giảm 37,1%; Sản xuất trang phục giảm 14,9%; Sản xuất da giảm 15,7%, trong đó sản xuất giày dép giảm 22,5%... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng nhưng không đáng kể so cùng kỳ là: Sản xuất đồ uống tăng 8,7%, trong đó sản xuất bia tăng 8,7%; Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 3,9%...  - Chỉ số tồn kho tháng 10/2021 so với tháng trước tăng 8,1% và so với cùng kỳ tăng 32,5%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ là: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 51,3%; Sản xuất đồ uống tăng 28,42%, trong đó sản xuất bia tăng 28,4%; Dệt tăng 53,3%; Sản xuất trang phục tăng 27,5%; Sản xuất kim loại tăng 78,9%;... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ là: Sản xuất da giảm 55%; Sản xuất giấy giảm 39,5%; Sản xuất thiết bị điện giảm 50,2%;…  * Tình hình thu hút đầu tư và phát triển các khu - cụm công nghiệp:  Trong tháng, các khu công nghiệp và cụm công nghiệp không cấp mới dự án đầu tư và điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký mới.Tính đến tháng 10 năm 2021, không cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới, chỉ điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 16 lượt dự án tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp; trong đó có 05 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn, tổng vốn đầu tư tăng thêm là 0,2 tỷ USD.  - Khu công nghiệp: Lũy kế đến 10/2021 các Khu công nghiệp đã thu hút được 107 dự án đầu tư; trong đó: có 78 dự án đầu tư nước ngoài. Tổng vốn đầu tư là 2,5 tỷ USD và 4.575,9 tỷ đồng. Diện tích đất thuê của các doanh nghiệp là 571,1 ha/770,1 ha chiếm tỷ lệ 74,1% diện tích đất công nghiệp cho thuê.   - Cụm công nghiệp: trong tháng không thu hút dự án đầu tư mới. Tổng số dự án đầu tư tại các cụm công nghiệp hiện nay là 79 dự án (trong đó: có 6 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 0,2 tỷ USD và 2.306,2 tỷ đồng, diện tích thuê đất là 89,8 ha/120,6 ha, đạt 74,5% của 5 Cụm công nghiệp đang hoạt động.  III. ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG  Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn khó khăn do ảnh hưởng dịch Covid-19, UBND tỉnh cùng các ngành, các cấp thường xuyên kiểm tra giám sát nhằm tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh đầu tư công như: điều chuyển vốn các công trình triển khai chậm sang các công trình có khối lượng cao, bố trí sử dụng các khoản vốn chưa có bố trí trong danh mục công trình cụ thể trong Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh.  Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện trong tháng là 293 tỷ đồng, giảm 57,7% so cùng kỳ. Mười tháng thực hiện 2.547 tỷ đồng, đạt 66,7% kế hoạch, giảm 38,2% so cùng kỳ, do thực hiện giản cách để phòng chống dịch Covid-19.  Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh thực hiện 1.944,5 tỷ đồng, đạt 62,3% kế hoạch, giảm 37,1% so cùng kỳ, chiếm 76,4% tổng số; trong đó: vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 374 tỷ đồng, giảm 40,9%. Các ngành các cấp yêu cầu các ban quản lý chủ đầu tư tập trung điều kiện đẩy nhanh tiến độ thi công của các dự án công trình trong những tháng cuối năm 2021, đồng thời thực hiện đảm bảo các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 để không ảnh hưởng đến tiến độ thi công.  Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện 436,9 tỷ đồng, tăng 11,5% kế hoạch, giải 39% so cùng kỳ, chiếm 17,1% tổng số; trong đó: vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 220,8 tỷ đồng, giảm 35,6% so cùng kỳ...  Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp xã thực hiện 165,7 tỷ đồng, đạt 54,5% kế hoạch, giảm 47,1% so cùng kỳ, chiếm 6,5% tổng số; trong đó: vốn huyện hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 117,8 tỷ đồng, giảm 48,4% so cùng kỳ... Các xã tập trung điều kiện đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình xây dựng nông thôn mới năm 2021 nhằm phục vụ đi lại và vận chuyển hàng hóa của người dân đồng thời hoàn thành tiêu chí để ra mắt xã nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao.  IV. THƯƠNG MẠI - GIÁ CẢ - DỊCH VỤ  1. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng:  Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong tháng thực hiện 4.910,3 tỷ đồng, giảm 20,7% so cùng kỳ. Mười tháng đầu năm 2021, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thực hiện 49.547,4 tỷ đồng, đạt 70,5% kế hoạch, giảm 4,2% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 42.635,9 tỷ đồng, tăng 0,5%; lưu trú 20,6 tỷ đồng, giảm 48,5%; ăn uống 2.931,2 tỷ đồng, giảm 29%; du lịch lữ hành 5,8 tỷ đồng, giảm 77,8%; dịch vụ tiêu dùng khác 3.953,8 tỷ đồng, giảm 22,1% so cùng kỳ.  2. Xuất - Nhập khẩu:  a. Xuất khẩu:  Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng thực hiện 153 triệu USD; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 27 triệu USD, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 124 triệu USD. Mười tháng xuất khẩu 2.468 triệu USD, đạt 75,9% kế hoạch, tương đương so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 37 triệu USD, giảm 6,7%; kinh tế ngoài nhà nước 424 triệu USD, giảm 17,2%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2.007 triệu USD, tăng 4,8% so cùng kỳ.  b. Nhập khẩu:  Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng 10/2021 đạt 189,7 triệu USD. Mười tháng, kim ngạch nhập khẩu 1.551 triệu USD, đạt 86,2% kế hoạch, tăng 25,4% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước nhập khẩu 126 triệu USD, tăng 51,2%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập 1.425 triệu USD, tăng 23,6% so cùng kỳ. Nhập khẩu tăng hơn so cùng kỳ do nhập nguyên liệu để phục vụ cho sản xuất, chủ yếu các mặt hàng như: Kim loại thường khác 494 triệu USD, tăng 6,5%; Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 247 triệu USD, tăng 26%; Máy móc thiết bị, dụng cụ văn phòng 138 triệu USD, tăng 127,2%... so cùng kỳ.  3. Chỉ số giá:  Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10/2021 tăng 0,22% so tháng 9/2021 (thành thị tăng 0,43%, nông thôn tăng 0,17%); so cùng kỳ tăng 2,7%. So với tháng 9/2021, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 8 nhóm hàng tăng: đồ uống và thuốc lá tăng 0,03%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,16%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,75%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,13%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%; giao thông tăng 2,54%; giáo dục tăng 0,06%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,02%. có 02 nhóm giảm: hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,52%, trong đó (lương thực tăng 0,47%, thực phẩm giảm 0,95%); bưu chính viễn thông giảm 0,01%. riêng nhóm Hàng hoá và dịch vụ khác chỉ số giá ổn định  Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 10/2021 giảm 0,04% so tháng trước, giá vàng bình quân tháng 10/2021 là 5.177 ngàn đồng/chỉ, giảm 176 ngàn đồng/chỉ so cùng kỳ.  Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 10/2021 giảm 0,09% so tháng trước; giá bình quân tháng 10/2021 là 22.860 đồng/USD, giảm 1,13 đồng/USD so cùng kỳ.  4. Du lịch:          Hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh hiện nay chưa hoạt động trở lại trạng thái bình thường. Khách du lịch đến trong tháng 10/2021 được 110 lượt khách, giảm 99,8% so cùng kỳ. Doanh thu lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác trong tháng 10 đạt 175,2 tỷ đồng, giảm 84,4% so cùng kỳ.  Tính chung mười tháng đầu năm 2021, lượt khách du lịch đến Tiền Giang là 263,7 ngàn lượt khách, đạt 24% kế hoạch và giảm 56,3% so cùng kỳ; trong đó: khách quốc tế 3,8 ngàn lượt khách, giảm 96,1% so cùng kỳ. Tổng doanh thu thu lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác đạt 6.911,4 tỷ đồng, giảm 25,4% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 2.931,2 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 42,4%, giảm 29%; lưu trú đạt 20,6 tỷ đồng, giảm 48,5% so cùng kỳ...  5. Vận tải:  Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải trong tháng thực hiện 102,9 tỷ đồng, tăng 27,1% so tháng trước và giảm 37,2% so cùng kỳ. Mười tháng thực hiện 1.312,6 tỷ đồng, giảm 20,6% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 307,3 tỷ đồng, giảm 34,5%; doanh thu vận tải hàng hóa thực hiện 857,1 tỷ đồng, giảm 15,3% so cùng kỳ. Doanh thu vận tải đường bộ thực hiện 597,9 tỷ đồng, giảm 25,1%; doanh thu vận tải đường thủy thực hiện 566,5 tỷ đồng, giảm 17,1%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 148,2 tỷ đồng, giảm 13,5% so cùng kỳ.  Vận tải hành khách trong tháng đạt 1.584 ngàn hành khách, tăng 2,2 lần so tháng trước và giảm 42,5% so cùng kỳ. Doanh thu hành khách tăng cao so với tháng trước là do tình hình dịch bệnh covid-19 của các tháng trước diễn biến phức tạp, trên địa bàn tỉnh thực hiện giãn cách toàn xã hội theo Chỉ thị 16, đến nay tình hình dịch bênh cơ bản được kiểm soát, nên tỉnh cho phép người dân trong vùng xanh được đi lại trong tỉnh, công nhân lao động trở lại doanh nghiệp làm việc...dẫn đến doanh thu tăng. Luân chuyển 15.317 ngàn hành khách.km, tăng 3,3 lần so tháng trước và giảm 70,7% so cùng kỳ. Mười tháng, vận chuyển 18.899 ngàn hành khách, giảm 33,7% so cùng kỳ; luân chuyển 321.700 ngàn hành khách.km, giảm 35,5% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 8.556 ngàn hành khách, giảm 29,9% và luân chuyển 308.254 ngàn hành khách.km, giảm 35,1% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 10.343 ngàn hành khách, giảm 36,6% và luân chuyển 13.446 ngàn hành khách.km, giảm 43% so cùng kỳ.  Vận tải hàng hóa trong tháng đạt 712 ngàn tấn, tăng 11,5% so tháng trước và giảm 24,8% so cùng kỳ; luân chuyển 94.929 ngàn tấn.km, tăng 11,1% so tháng trước và giảm 21,9% so cùng kỳ. Mười tháng, vận tải 8.273 ngàn tấn hàng hóa, giảm 12,9% so cùng kỳ; luân chuyển 1.071.664 ngàn tấn.km, giảm 13% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 1.904 ngàn tấn, giảm 9% và luân chuyển 202.222 ngàn tấn.km, giảm 20,1% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 6.369 ngàn tấn, giảm 14% và luân chuyển 869.442 ngàn tấn.km, giảm 11,2% so cùng kỳ.  * Công tác quản lý phương tiện giao thông:                      Trong tháng đăng ký mới mô tô xe máy không phát sinh, do ảnh hưởng của tình hình dịch Covid-19; 05 chiếc xe ô tô. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh là 1.355.014 chiếc, trong đó mô tô xe máy: 1.312.967 chiếc, 41.256 chiếc xe ô tô, 152 xe ba bánh, 192 xe đạp điện và 447 xe khác.  6. Bưu chính viễn thông:  Doanh thu trong tháng 10/2021 đạt 266,3 tỷ đồng, tăng 0,4% so tháng trước và tăng 2,2% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 25,8 tỷ đồng, tăng 1,2% và viễn thông 240,5 tỷ đồng, tăng 0,3% so tháng trước. Mười tháng doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 2.638 tỷ đồng, tăng 3,9% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 239,3 tỷ đồng, tăng 12,2% và viễn thông 2.398,7 tỷ đồng, tăng 3,2% so cùng kỳ.  Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 10/2021 là 97.455 thuê bao, mật độ bình quân đạt 5,5 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Thuê bao internet có trên mạng cuối tháng 10/2021 là 283.769 thuê bao, mật độ internet bình quân đạt 16,1 thuê bao/100 dân. Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa dẫn đến khách hàng dần chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Số thuê bao điện thoại di động có sử dụng internet (3G, 4G) đến cuối tháng 9/2021 là 1.621.013 thuê bao.  V.TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG  1. Tài chính:  Thu ngân sách trên địa bàn trong tháng thực hiện 265 tỷ đồng; trong đó:thu nội địa 260 tỷ đồng. Mười tháng, thu 6.788,8 tỷ đồng, đạt 63,97% kế hoạch, giảm 23,5% so cùng kỳ; trong đó: thu nội địa 6.417,9 tỷ đồng, đạt 62,1% dự toán, giảm 26,2% so cùng kỳ (trong thu ngân sách trên địa bàn: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.106,1 tỷ đồng, đạt 61,1% dự toán, giảm 29,1% so cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 769 tỷ đồng, đạt 54,9% dự toán, giảm 24,9% so cùng kỳ...).  Tổng chi ngân sách nhà nước trong tháng 1.480,5 tỷ đồng; trong đó: chi đầu tư phát triển 843,5 tỷ đồng. Mười tháng, chi 10.370,6 tỷ đồng, đạt 84,6% dự toán, giảm 26,5% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 2.920,1 tỷ đồng, đạt 78,9% dự toán, giảm 34,5% so cùng kỳ; chi hành chính sự nghiệp 5.485,9 tỷ đồng, đạt 79,8% dự toán và giảm 5,5% so cùng kỳ.  2. Ngân hàng:  Đến cuối tháng 9/2021, vốn huy động đạt 77.874 tỷ đồng, tăng 2,4% so cuối năm 2020; Mức tăng bình quân là 0,3%/tháng. Huy động vốn chủ yếu từ khu vực dân cư, chiếm tỷ trọng 85,2% tổng nguồn vốn huy động. Ước đến cuối tháng 10/2021, vốn huy động đạt 77.874 tỷ đồng, tỷ lệ 2,7% so với cuối năm 2020.  Nợ xấu: đến cuối tháng 9/2021, số dư là 740 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,1%, tăng 0,04% so với cuối tháng 6/2021 là thời điểm dịch bệnh bắt đầu bùng phát trên địa bàn tỉnh. Ước đến cuối tháng 10/2021, nợ xấu là 750 tỷ đồng, tỷ lệ 1,1%, giảm 0,2% so với cuối năm 2020  Hệ thống Quỹ Tín dụng nhân dân trên địa bàn tỉnh hoạt động ổn định, các chỉ tiêu đều đạt mức tăng trưởng. Một số kết quả đạt được đến cuối tháng 9/2021 so với cuối năm 2020 như sau: tổng nguồn vốn hoạt động đạt 1.211 tỷ đồng, tăng 80 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 7,1% (trong đó: vốn điều lệ tăng 5,6%, vốn huy động tăng 9,6%.); tổng dư nợ cho vay đạt 834 tỷ đồng, giảm 17 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 2% (trong đó: dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng 43,2%); nợ xấu: số dư 5,6 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 0,7%, tăng 0,4%.  - Kết quả thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19  Đến cuối tháng 9/2021, tổng dư nợ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang là 11.571 tỷ đồng, chiếm 16,6% tổng dư nợ toàn tỉnh (trong đó khách hàng doanh nghiệp bị ảnh hưởng chiếm 44%). Một số ngành có tỷ lệ dư nợ bị ảnh hưởng lớn là: Công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 31,7% tổng dư nợ); bán buôn và bán lẻ (33,2%); hoạt động dịch vụ (9,7%);....  Các TCTD đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho 1.447 khách hàng với lũy kế giá trị nợ được cơ cấu từ 23/01/2020 là 1.494 tỷ đồng.  Chính sách giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 từ 13/3/2020 đến hết 30/9/2021, các TCTD đã miễn, giảm, hạ lãi suất cho hơn 97 ngàn khách hàng với dư nợ trên 29.230 tỷ đồng. Cho vay mới lãi suất thấp hơn so với trước dịch đạt trên 32.493 tỷ đồng với 3,7 ngàn khách hàng còn dư nợ. Lũy kế từ 13/3/2020 đến 30/9/2021, tổng số tiền lãi TCTD miễn, giảm, hạ cho khách hàng hơn 202 tỷ đồng.  Thực hiện Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do dịch Covid-19 và Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020 sửa đổi, bổ sung NQ42: Đến nay, Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) tỉnh đã giải ngân cho vay đối với 6 đơn vị với dư nợ đạt 978 triệu đồng. Thời gian vay là 12 tháng, lãi suất là 0%/năm.  Chương trình cho vay trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ: NHCSXH tỉnh đã giải ngân cho vay 6 doanh nghiệp với 92 lao động, dư nợ 329,2 triệu đồng, thời gian cho vay 11 tháng, lãi suất 0%/năm.  - Kết quả cho vay thu mua tạm trữ thóc gạo năm 2021  Trước tình hình dịch bệnh Covid-19 gây ảnh hưởng tiêu cực, gây ách tắc làm đứt gãy chuỗi cung ứng sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu thụ, xuất khẩu thóc, gạo, đặc biệt là tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Thực hiện chỉ đạo của NHNN VN tại công văn số 5747/NHNN-TD ngày 10/08/2021, NHNN tỉnh đã có văn bản triển khai đến các chi nhánh NHTM yêu cầu đảm bảo vốn tín dụng cho vay thu mua tạm trữ, thóc gạo năm 2021. Đến cuối tháng 9/2021, trên địa bàn tỉnh có 11 chi nhánh NHTM tham gia cho vay lĩnh vực lúa gạo. Từ đầu năm đến nay, các NHTM đã cấp hạn mức tín dụng 9.715 tỷ đồng cho các doanh nghiệp, thương nhân thu mua tạm trữ thóc, gạo, đã giải ngân với tổng doanh số cho vay lũy kế 17.907 tỷ đồng để thu mua 2.285.305 tấn thóc gạo. Dư nợ thu mua, tiêu thụ đạt 7.625 tỷ đồng (trong đó dư nợ ngắn hạn chiếm 99,9%), chiếm 78,4% hạn mức được cấp, chiếm 11,1% tổng dư nợ toàn tỉnh.  VI. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  Trong tháng, do tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid -19 trên địa bàn tỉnh đã ảnh hưởng đến kế hoạch hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN). Trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành quyết định triển khai 01 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh. Kiểm tra tiến độ thực hiện 01 nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở (Dự án sản xuất thử nghiệm: Ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt kết hợp nhà màng trong canh tác dưa lưới tại huyện Cái Bè - tỉnh Tiền Giang). Nghiệm thu giai đoạn 03 nhiệm vụ KH&CN, trong đó 01 cấp tỉnh (Đề tài: Nghiên cứu, biên soạn từ điển địa danh tỉnh Tiền Giang); 02 cấp cơ sở (Đề tài: Tạo lập, quản lý và phát triển nhãn hiệu chứng nhận “ Gạo Gò Công” cho sản phẩm gạo Gò Công, tỉnh Tiền Giang; Tạo lập, quản lý và phát triển nhãn hiệu chứng nhận “Dưa hấu Gò Công” cho sản phẩm dưa hấu Gò Công, tỉnh Tiền Giang). Ngoài ra Gia hạn 01 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh (Đề tài: Nghiên cứu tận dụng phụ phẩm từ quả mít để sản xuất các sản phẩm giá trị gia tăng trên địa bàn tỉnh Tiền Giang).  Đến tháng 10/2021, thẩm định nội dung 13 nhiệm vụ ( 06 cấp tỉnh, 07 cấp cơ sở); nghiệm thu kết thúc 08 nhiệm vụ (07 cấp tỉnh , 01 cấp cơ sở); nghiệm thu giai đoạn 17 nhiệm vụ (08 cấp tỉnh, 09 cấp cơ sở); Quyết định triển khai 16 nhiệm vụ (09 cấp tỉnh, 07 cấp cơ sở); Quyết định công nhận 13 nhiệm vụ (10 cấp tỉnh, 03 cấp cơ sở); Gia hạn 07 nhiệm vụ KH&CN (05 cấp tỉnh, 02 cấp cơ sở).  VII. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI  1. Lao động việc làm:  Trong tháng, tư vấn cho 572 lượt lao động, giảm 85,7% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó: tư vấn nghề cho 17 lượt lao động, tư vấn việc làm 69 lượt lao động, tư vấn việc làm cho 473 lượt lao động thất nghiệp, tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác cho 13 lượt lao động; giới thiệu việc làm cho 58 lao động, bằng 7,9% so với cùng kỳ năm 2020; đã giới thiệu cho 48 lao động có được việc làm ổn định, bằng 12,9% so với cùng kỳ; tư vấn cho 02 lượt lao động có nguyện vọng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, bằng 8,3% so với cùng kỳ, có 01 lao động đăng ký tham gia, tăng 01 lao động so với cùng kỳ. Bên cạnh đó, tiếp nhận được 591 hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp, bằng 19,2% so với cùng kỳ, quyết định 233 trường hợp được hưởng trợ cấp thất nghiệp, bằng 8,8% so với cùng kỳ, với số tiền chi trả gần 5,7 tỷ đồng, đạt 11,4% so với cùng kỳ năm 2020; thực hiện tư vấn, giới thiệu việc làm cho 613 lượt lao động thất nghiệp.  2. Chính sách xã hội:  Quỹ đền ơn đáp nghĩa vận động được 1,2 tỷ đồng, lũy kế từ đầu năm vận động được 7,1 tỷ đồng giảm 19% so với cùng kỳ năm 2020, xây dựng được 6 căn nhà tình nghĩa với tổng số tiền 240 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm xây dựng được 41 ngôi nhà tình nghĩa, với tổng số tiền trên 1,6 tỷ đồng, giảm 56% so với cùng kỳ ; sửa chữa 9 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 180 triệu đồng, lũy kế từ đầu năm sửa chữa được 60 ngôi nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 1,2 tỷ đồng tăng 6% so với cùng kỳ.  Tiếp nhận 1.516 tấn gạo do Trung ương hỗ trợ (đợt 2) cho các huyện, thành, thị để cấp cho 101.062 người dân, người lao động gặp khó khăn do dịch bệnh Covid-19. Số lượng gạo qua 2 đợt, tỉnh Tiền Giang được Trung ương hỗ trợ 3.006 tấn gạo, cấp cho 200.415 người. Bên cạnh đó, tỉnh còn tiếp nhận 50 tấn gạo do Phó Chủ tịch nước - Võ Thị Ánh Xuân tặng để hỗ trợ cho người dân gặp khó khăn do dịch bệnh Covid-19. Ngoài ra, Ban Chỉ đạo, Trung tâm Chỉ huy phòng, chống Covid -19 tỉnh đã đi thăm hỏi, tặng quà cho 58 trẻ em mồ côi và 349 gia đình có người tử vong do dịch Covid-19 ở các huyện, thành, thị.  3. Hoạt động y tế:  Trong tháng có 06/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận. So cùng kỳ về số mắc, có 03 bệnh tăng như: tay chân miệng (+425 ca), viêm não do vi rút (+4 ca), Covid-19 (+14.844 ca); 15 bệnh giảm như: liên cầu lợn ở người (-3 ca), ho gà (-1 ca), lao phổi (-364 ca), lỵ a míp (-2 ca), Quai bị (-33 ca), sởi (-36 ca), Sốt xuất huyết (-759 ca), thương hàn (-8 ca), thủy đậu (-86 ca), tiêu chảy (-692 ca), uốn ván khác (-2 ca), viêm gan siêu vi A (-2 ca), viêm gan siêu vi B (-14 ca), viêm gan siêu vi C (-3 ca), Zika (-1 ca); 26 bệnh tương đương và hoặc không xảy ra ca mắc; Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết ghi nhận 37 ca mắc, cộng dồn số ca mắc từ đầu năm 1.766 ca, giảm 30,1% so với cùng kỳ, ghi nhận 01 ca tử vong do SXHD. Phòng chống HIV/AIDS tính đến nay toàn tỉnh có 6.181 người nhiễm HIV, 1.805 người chuyển sang AIDS, tử vong do AIDS: 999 người. Số lần khám bệnh 198.325 lượt, giảm 54,8%; số người điều trị nội trú 10.323 lượt, giảm 46,9%; số ngày điều trị nội trú 49.240, giảm 43,31%, công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong tháng đạt 45,3%. Không ghi nhận xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm.  Covid - 19: Kể từ ngày có ca nhiễm đầu tiên trong cộng đồng (5/6/2021) đến 24/10/2021 toàn tỉnh có 15.626 bệnh nhân; 14.169 bệnh nhân được điều trị khỏi bệnh; đã tử vong 390 bệnh nhân; Tiền Giang thuộc cấp độ 2 (vùng vàng, nguy cơ trung bình) theo công bộ cấp độ dich Covid-19 của Bộ Y tế. Tính đến ngày 15/10/2021, toàn tỉnh tiêm ngừa vắc xin COVID-19 cho 720.331 người (mũi 1: 602.944; mũi 2: 117.387); tỷ lệ 58,8% theo Quyết định được phân bố (1.224.350 liều), 80,5% trên tổng số vaccine thực nhận (894.350 liều), 82,6% tổng số vaccine phân bố đến các điểm tiêm (871.937 liều).  4. Hoạt động giáo dục:  Trong tháng 10, công tác dạy và học trực tuyến tiếp tục thực hiện theo Quyết định 2259/QĐ-UBND ngày 25/8/2021 về kế hoạch năm học 2021 – 2022; Ngành Giáo dục – Đào tạo thành lập tổ và tiến hành kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức dạy học trực tuyến và dạy học qua truyền hình tại các trường tiểu học bằng hình thức online. Phấn đấu tất cả học sinh đều được tham gia học tập và có đủ thiết bị học tập; Triển khai tập huấn đại trà cho giáo viên cấp trung học về tổ chức dạy học trực tuyến vào ngày 16,17/10/2021 cho tất cả các bộ môn; Hướng dẫn dạy học trực tuyến môn Giáo dục thể chất cho cấp THCS-THPT, Giáo dục quốc phòng - An ninh cho cấp THPT.  5. Hoạt động văn hóa - thể thao:  Trong tháng 10, Trung tâm Văn hóa – Nghệ thuật tỉnh đã tổ chức 10 lượt xe loa tuyên truyền. Do tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp nên phần lớn các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao đông người tạm dừng để thực hiện phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.  6. Trật tự an toàn giao thông: Theo báo cáo của ngành Công an  Tai nạn giao thông đường bộ: Trong tháng, tai nạn giao thông xảy ra 07 vụ giảm 02 vụ so tháng trước và giảm 37 vụ so cùng kỳ, làm chết 03 người giảm 03 người so tháng trước và giảm 25 người so cùng kỳ, bị thương 02 người giảm 05 người so tháng trước và giảm 28 người so cùng kỳ. Nguyên nhân gây tai nạn như: đi không đúng phần đường, làn đường, uống rượu say.... Ước tính thiệt hại về tài sản trong tháng là 58 triệu đồng, cộng dồn từ đầu năm đến nay là gần 4,2 tỷ đồng. Về vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ xảy ra 1.177 vụ, tăng 566 vụ so tháng trước và giảm 5.321 vụ so cùng kỳ; trong đó các lỗi vi phạm như: không giấy phép lái xe, giấy phép không hợp lệ, chạy quá tốc độ qui định, không đội mũ bảo hiểm, uống rượu điều khiển phương tiện, thiết bị an toàn không đảm bảo... Đã xử lý tạm giữ giấy tờ và phương tiện 1.172 vụ, tước giấy phép lái xe 28 vụ, phạt tiền 05 vụ với số tiền phạt trên 1 tỷ đồng.  Tai nạn giao thông đường thủy: Trong tháng không xảy ra, tương đương so với tháng trước và giảm 01 vụ so cùng kỳ. không phát sinh số người chết và bị thương. Vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy trong tháng xảy ra 767 vụ giảm 84 vụ so tháng trước và giảm 1.287 vụ so cùng kỳ; trong đó chở quá vạch mớn nước an toàn 651 vụ và vi phạm khác 116 vụ. Đã lập biên bản tạm giữ giấy tờ 10 vụ và phạt tiền tại chỗ 757 vụ với số tiền phạt 76,5 triệu đồng.  7. Tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội (theo báo cáo ngành Công an):  Tội phạm về trật tự xã hội ghi nhận 52 vụ, tăng 08 vụ so với liền kề; giảm 82 vụ so với cùng kỳ, làm chết 02 người; bị thương 13 người; tài sản thiệt hại khoảng 507 triệu đồng, trong đó xảy ra 01 vụ giết người, 11 vụ cố ý gây thương tích, nguyên nhân chủ yếu do mâu thuần xã hội bộc phát (sau khi đã uổng rượu không kiềm chế bản thân; đâm đánh nhau, gây thương tích dẫn đến tử vong); tội phạm trộm cắp tài sản có dấu hiệu phức tạp trở lại, nhất là sau khi tỉnh thực hiện nới lỏng các biện pháp giản cách xã hội. Phát hiện, xử lý 17 tụ điểm cờ bạc với 141 đối tượng liên quan; 16 vụ, 21 đối tượng phạm tội về ma túy và xử lý vi phạm hành chính 98 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; 06 vụ với 05 đổi tượng có hành vi vận chuyển hàng hóa không hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc, thu giữ 26,9m3 gỗ và 11 thùng sữa nhãn hiệu IZUMIO, 315 bao phân bón các loại (tổng giá trị hàng hóa khoảng 382 triệu đồng), 01 vụ kinh doanh hàng hóa không rõ nguồn gốc (máy trò chơi điện tử)... và xử lý hành chính 01 trường hợp giết mổ động vật trái phép, số tiền 07 triệu đồng.  8. Tình hình cháy nổ, môi trường:  Tình hình cháy nổ trong tháng xảy ra 01 cháy nhà ở huyện Cai Lậy, ước giá trị thiệt hại tài sản là 60 triệu đồng; chủ sở hữu không yêu cầu điều tra nguyên nhân; nâng số vụ cháy, nổ từ đầu năm đến nay là 29 vụ, 1 người chết và thiệt hại về tài sản trên 5,5 tỷ đồng. Thiên tai tháng 10, xảy ra 02 vụ lốc xoáy, ước tổng giá trị thiệt hại 580 triệu đồng, bao gồm thiệt hại về tài sản như tốc mái 09 căn nhà, thiệt hại về cây ăn trái, ngã đỗ (sầu riêng 121 cây, mít 247 cây, vú sữa 02 cây, đu đủ 75 cây, chuối 30 cây và dừa 03 cây). Về lĩnh vực môi trường tháng 10, xử phạt vi phạm hành chính (với 01 tổ chức) với số tiền xử phạt vi phạm 20 triệu đồng; nội dung vi phạm chủ yếu là thực hiện không đúng một trong các nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường và các yêu cầu trong Quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; khai thác sử dụng nước dưới đất không có giấy phép và thăm dò nước dưới đất không có giấy phép; không báo cáo kết quả giám sát chất thải định kỳ (một năm một lần trước ngày 31 tháng 01 hàng năm) cho cơ quan đã phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường thuộc thẩm quyền phê duyệt của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định; khai thác cát làm vật liệu xây dựng thông thường không giấy phép.

Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang 9 tháng đầu năm 2021
  •   18/06/2024 16:01

Trong chín tháng đầu năm 2021, dịch bệnh covid-19 cả nước nói chung, trên địa bàn tỉnh nói riêng đã và đang diễn ra rất phức tạp, tác động rất lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh và cuộc sống của người dân. Lãnh đạo Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh tập trung chỉ đạo các ngành, các cấp phòng chống dịch bệnh covid-19 đồng thời rất quân tâm chỉ đạo phòng chống dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi và đề ra các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Kết quả thực hiện trên các lĩnh vực đạt được như sau:  I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ  1. Tài chính - Ngân hàng:  a. Tài chính:  Thu ngân sách nhà nước: 9 tháng đầu năm 2021 ước thu được 13.703 tỷ đồng, đạt 102,1% dự toán, giảm 12,8% so cùng kỳ; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 6.569 tỷ đồng, đạt 61,9% dự toán và giảm 14,7% so cùng kỳ; thu nội địa 6.224 tỷ đồng, đạt 60,21% dự toán, giảm 17,3% so cùng kỳ. Các khoản thu chủ yếu như sau:  + Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.071 tỷ đồng, đạt 60% dự toán, giảm 16,7% so cùng kỳ do hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn do tác động dịch covid-19, phần lớn các ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn phải tạm ngưng hoạt động.  + Thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 736 tỷ đồng, đạt 52,6% dự toán, giảm 16,4% so cùng kỳ do ảnh hưởng của dịch Covid-19 bùng phát và diễn biến phức tạp từ giữa tháng 6/2021 cho đến nay, nhiều doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn tỉnh do có ca nhiễm bệnh đã phải phong tỏa, ngừng hoạt động để kiểm soát dịch bệnh. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh chỉ cho các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hoạt động theo phương án “3 tại chỗ” sau khi được thẩm định, công nhận và kiểm tra sau công nhận phương án “3 tại chỗ”.  + Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết 1.068 tỷ đồng, đạt 64,7% dự toán, giảm 11,3% so cùng kỳ do thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ, địa phương ngừng phát hành xổ số kiến thiết từ 12/6/2021  Chi ngân sách nhà nước: Tổng chi ngân sách 9 tháng đầu năm 2021 là 9.608 tỷ đồng đạt 78,4% dự toán, giảm 26,8% so cùng kỳ do ảnh hưởng của dịch Covid-19, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 42/NQ-CP hỗ trợ người dân gặp khó khăn, ngân sách địa phương đã kịp thời bổ sung cho các huyện, thành, thị để chi hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn, trong đó: chi đầu tư phát triển 2.529 tỷ đồng, đạt 68,3% dự toán, giảm 38,9%; chi hành chính sự nghiệp 5.008 tỷ đồng, đạt 72,9% dự toán và giảm 3% so cùng kỳ.  b. Ngân hàng:  Đến cuối tháng 8/2021, vốn huy động đạt 77.741 tỷ, tăng 2,5% so với cuối năm 2020; tổng dư nợ cho vay thực hiện là 69.937 tỷ đồng, tăng 8,8% so với cuối năm 2020, tăng dần trong 8 tháng, bình quân tăng 1,1%/tháng. Tăng trưởng dư nợ tốt, cao hơn 1,7% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính đến cuối tháng 9/2021, nguồn vốn huy động đạt 77.783 tỷ, tăng 2,6%; tổng dư nợ đạt 69.986 tỷ, tăng 8,8% so với cuối năm 2020.  Lãy suất huy động: Mặt bằng lãi suất tiếp tục được duy trì phù hợp,ổn định ở mức thấp nhằm tạo điều kiện cho các đối tượng khách hàng duy trì sản xuất kinh doanh do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19. Lãi suất huy động tối đa bằng VND đối với tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng (0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng; 4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng)  + Lãy suất cho vay VNĐ: phổ biến ở mức trên 4,5%-9%/năm đối với ngắn hạn (chiếm 62,20% tổng dư nợ cho vay ngắn hạn VNĐ) và trên 11%-13%/năm đối với trung dài hạn (chiếm 51,94% tổng dư nợ cho vay TDH VNĐ). Các TCTD thực hiện nghiêm các mức trần lãi suất theo quy định của NHNNVN nhất là trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên theo Thông tư số 39/2016/TT-NHNN là 4,5%/năm.  Nợ xấu: đến cuối tháng 8/2021 là 859 tỷ đồng, tỷ lệ 1,23%, giảm 0,02% so với cuối năm 2020. Tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp, nằm trong sự kiểm soát, có chuyển biến tích cực theo chiều hướng giảm.  Quỹ tín dụng nhân dân: đến cuối 7/2021, tổng nguồn vốn huy động 1.241 tỷ đồng, tăng 9,7% và dư nợ cho vay 854 tỷ đồng, tăng 0,4% so cuối năm 2020. Nợ xấu: số dư 4,8 tỷ đồng, so cuối năm 2020 tỷ lệ nợ xấu 5,3%, tăng 0,3%.  2. Giá cả, lạm phát:  Trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19, tại địa phương thực hiện giãn cách xã hội để ngăn chặn sự lây nhiễm dịch bệnh trong cộng đồng. Bênh cạnh đó để giảm bớt những khó khăn cho người dân bị ảnh hưởng của dịch Covid-19 nhà nước đã hỗ trợ giá một số mặt hàng như: điện, nước sinh hoạt,... là những nguyên nhân làm chỉ số giá tiêu dùng giảm hơn so tháng trước. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2021 giảm 0,24% so tháng 8/2021 (thành thị giảm 0,41%, nông thôn giảm 0,2%); so cùng kỳ tăng 2,55%.  So với tháng 8/2021, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có có 2 nhóm hàng giảm: Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 2,26%; Giao thông giảm 0,16%. Có 6 nhóm hàng tăng: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,54% (lương thực tăng 1,04%, thực phẩm tăng 0,65%); Đồ uống và thuốc lá tăng 0,23%; May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,02%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,19%; Giáo dục tăng 0,03% và nhóm Hàng hóa dịch vụ khác tăng 0,13%. Các nhóm hàng còn lại như: Thuốc và dịch vụ y tế; Bưu chính viễn thông và Văn hoá, giải trí và du lịch có chỉ số giá ổn định.  Nguyên nhân chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2021 giảm so tháng 8/2021:  - Giá điện sinh hoạt bình quân trong tháng giảm 14,05%, nước sinh hoạt giảm 1,25%, nguyên nhân do giá điện, nước tháng này được nhà nước hỗ trợ giá cho người dân khi sử dụng điện, nước sinh hoạt do ảnh hưởng tình hình bệnh dịch COVID-19.  - Giá xăng dầu điều chỉnh tăng vào ngày 10/9/2021 nhưng do chu kỳ tính CPI bình quân trong tháng, nên giá xăng dầu còn chịu tác động giảm của các kỳ điều chỉnh trước đó (ngày 11 và ngày 26/8/2021). Tính chung: giá xăng dầu giảm 0,32% so với tháng trước.  - Do giá trứng gia cầm các loại giảm 6,03% do qua mùa chế biến bánh Trung thu, sức mua giảm, giá giảm theo.  Bên cạnh đó, một số mặt hàng có chỉ số giá tăng go các nguyên nhân sau:  Giá gạo tháng này tăng 0,59%, nguyên nhân do: tình hình xuất khẩu gạo thuận lợi hơn tháng trước, các doanh nghiệp tăng cường thu mua để đáp ứng đủ số lượng gạo đã ký kết hợp đồng ngay từ đầu năm, dẫn đến giá gạo bán lẻ tăng lên.  - Giá thịt lợn tăng 1,06%, thịt gia cầm các loại tăng 1,32%: do ảnh hưởng dịch bệnh Covid kéo dài, hầu hết các lò giết mổ trong tỉnh đều thực hiện nghiêm giãn cách xã hội, nên các lò giết mổ gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh hoạt động bị hạn chế, dẫn đến nguồn cung ứng sản lượng thịt ra bên ngoài thị trường ít, giá bán tăng nhẹ so với tháng trước.  - Giá rau tươi, khô và chế biến tăng 0,42% là do tình hình dịch bệnh Covid-19 tại địa phương được kiểm soát tốt, nút thắc giao thông của các mặt hàng nông sản từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ được cải thiện, nên hàng hoá nông sản, trái cây được lưu thông thông thoáng hơn tháng trước, dẫn đến giá bán lẻ tăng.  - Giá gas tăng 0,82%, tương ứng tăng 3.000 đồng/bình 12 kg màu xám vào ngày 01/9/2021.  Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý III năm 2021, tăng 0,8% so quý trước và tăng 3,37% so cùng kỳ năm trước. Một số nhóm hàng có chỉ số giá tăng nhiều trong quý III năm 2021 so cùng kỳ như: Giá xăng, dầu trong nước tăng 39,5% so với cùng kỳ năm trước, góp phần làm CPI chung tăng 2,76 điểm phần trăm. Giá gas trong nước biến động theo giá gas thế giới, giá gas quý III/2021 tăng 36,64% so với cùng kỳ năm trước làm CPI chung tăng 0,44 điểm phần trăm. Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 9,46% so cùng kỳ năm trước (làm CPI tăng 0,29 điểm phần trăm) do giá thép tăng khi giá nguyên vật liệu đầu vào sản xuất thép tăng cao...  Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm 2021 so cùng kỳ tăng 2,8%. Một số nhóm hàng có chỉ số giá tăng nhiều so cùng kỳ như: Giá xăng dầu trong nước tăng 23,54%; Gas và các loại chất đốt khác tăng 22,92%; Gạo tăng 9,33%; … do giá gas trong nước biến động theo giá gas thế giới, giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu, nhu cầu dự trữ gạo do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19…  Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 9/2021 giảm 0,04% so tháng trước, giảm 4,66% so cùng kỳ; giá vàng bình quân tháng 9/2021 là 5.179 ngàn đồng/chỉ, giảm 253 ngàn đồng/chỉ so cùng kỳ.  Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 9/2021 giảm 0,58% so tháng trước và giảm 1,68% so cùng kỳ; giá bình quân tháng 9/2021 là 22.880 đồng/USD, giảm 390 đồng/USD so cùng kỳ.  3. Đầu tư và Xây dựng:  Vốn đầu tư toàn xã hội quý III/2021, ước thực hiện được 8.551 tỷ đồng, đạt 21,6% kế hoạch, giảm 14% so cùng kỳ; trong đó: vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 5.059 tỷ đồng, chiếm 59,2%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 770 tỷ đồng, chiếm 9%; vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 1.113 tỷ đồng, chiếm 13%.  Chín tháng đầu năm 2021, vốn đầu tư toàn xã hội ước thực hiện 24.351 tỷ đồng, đạt 61,4% kế hoạch, giảm 2,7% so cùng kỳ; trong đó: vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 16.077 tỷ đồng, tăng 0,1%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.345 tỷ đồng, giảm 27,6%, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 2847 tỷ đồng, giảm 23,4% so cùng kỳ.  Chín tháng đầu năm 2021, vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý là 2.246 tỷ đồng, đạt 61,2% kế hoạch, giảm 34,4% so cùng kỳ; gồm có: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 1.712 tỷ đồng, giảm 32,9%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 393 tỷ đồng, giảm 37,4%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 141 tỷ đồng, giảm 42.8% so cùng kỳ.  Trong 09 tháng đầu năm 2021, Ban Quản lý không có cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới. Điều chỉnh cho 16 lượt dự án đầu tư bằng 76,19% so với cùng kỳ, trong đó có 05 dự án điều chỉnh tăng vốn đầu tư. Tổng vốn đầu tư 9 tháng đầu năm là 178,9 tỷ USD giảm 0,03% so với cùng, trong đó vốn đầu tư mới không có chủ yếu các dự án điều chỉnh tăng vốn.  Giá trị sản xuất ngành xây dựng (giá so sánh 2010), chín tháng đầu năm 2021 thực hiện 7.149 tỷ đồng, tăng 1,2% so cùng kỳ. Theo giá hiện hành, giá trị sản xuất ngành xây dựng 9 tháng đầu năm 2021 thực hiện 10.636 tỷ đồng, tăng 3,8% so cùng kỳ.  4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp:  Theo báo cáo Sở kế hoạch - Đầu tư, Số doanh nghiệp thành lập mới 9 tháng đầu năm 2021 là 390 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký là 2.750 tỷ đồng, đạt 55% so với kế hoạch, giảm 33% về số doanh nghiệp và giảm 12% về vốn đăng ký so cùng kỳ; trong đó 500 đơn vị trực thuộc đăng ký hoạt động (100 chi nhánh, 382 địa điểm kinh doanh, 18 văn phòng đại diện), giảm 49,4% so cùng kỳ. Tính đến cuối tháng 9/2021, toàn tỉnh hiện có khoảng 6.510 doanh nghiệp hoạt động. 9 tháng năm 2021 có 71 doanh nghiệp đăng ký giải thể giảm 4,1% và 30 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng giảm 38,8% so cùng kỳ. Ngành nghề giải thể tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực dịch vụ cho thuê xe, vận tải, giáo dục, nhà trọ, khách sạn chiếm 33,8%, là các lĩnh vực bị ảnh hưởng rất lớn của dịch bệnh; Về quy mô doanh nghiệp giải thể: 33,8% doanh nghiệp giải thể có vốn đăng ký dưới 1 tỷ đồng; 46,5% doanh nghiệp có vốn đăng ký từ 1 tỷ đồng đến 5 tỷ đồng. Các doanh nghiệp giải thể chủ yếu có quy mô nhỏ dễ bị tổn thương do tác động tiêu cực từ bên ngoài.  Số hộ kinh doanh thành lập mới 9 tháng đầu năm 2021 là 2.500 hộ kinh doanh, giảm 32,2% so cùng kỳ 2020. Lũy kế đến hết tháng 09/2021, toàn tỉnh có 59.800 hộ kinh doanh. Số lượng doanh nghiệp và đơn vị trực thuộc giảm đáng kể - do dịch Covid-19 bùng phát rất mạnh và diễn biến phức tạp, tỉnh Tiền Giang áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội để kiểm soát dịch bệnh.  5. Sản xuất nông - lâm nghiệp và thủy sản:  a. Nông nghiệp  * Trồng trọt: Cây lương thực có hạt trong 9 tháng đầu năm 2021, gieo trồng 133.578 ha, đạt 99,7% kế hoạch, giảm 4,2% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch 740.371 tấn, đạt 92,1% kế hoạch, tăng 7,1% so với cùng kỳ; trong đó: cây lúa gieo sạ 131.342 ha, giảm 3,4% so cùng kỳ, thu hoạch 115.858 ha, tăng 5,9% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch đạt 732.466 tấn, tăng 7,8% so với cùng kỳ.  - Cây lúa:  Vụ Đông Xuân 2020 - 2021: chính thức gieo trồng 51.647 ha, giảm 10,3% so cùng kỳ. Nguyên nhân giảm do chuyển từ diện tích trồng lúa sang trồng cây ăn quả cho giá trị kinh tế cao hơn như: sầu riêng, mít, thanh long. Mặt khác, do hạn, mặn kéo dài ở khu vực phía đông chưa xả sổ kịp độ mặn nên một số diện tích không dám gieo trồng đã chuyển sang trồng rau, màu các loại. Năng suất thu hoạch đạt 71,1 tạ/ha, tăng 7,8% so cùng kỳ. Vụ Đông Xuân 2020- 2021 được triển khai thực hiện sớm hơn so cùng kỳ để tránh hạn mặn trong mùa khô và thời tiết thuận lợi hơn giúp cây lúa sinh trưởng, phát triển tốt, sâu bệnh ít, thời gian lúa trổ gặp thời tiết tương đối thuận lợi giúp thụ phấn và đậu hạt tốt, có 2- 3 cơn mưa trái mùa giúp đủ nước cung cấp cho cây lúa trong suốt quá trình sinh trưởng, phát triển nên cho năng suất cao. Sản lượng thu hoạch 367.189 tấn, giảm 1,8% so cùng kỳ. Nguyên nhân do diện tích gieo trồng giảm. Năm nay, giá bán giá lúa tươi bán tại ruộng từ 6.500- 7.500 đ/kg cao hơn so với cùng kỳ năm trước từ 1.900-2.500 đ/kg tùy theo loại giống nên bà con nông dân có lãi.  Vụ Hè thu (Xuân Hè + Hè Thu): Mùa mưa đến sớm, không chịu ảnh hưởng bởi hạn, mặn nên sản xuất lúa vụ Hè thu 2021 tương đối thuận lợi. Bố trí sản xuất hợp lý, lịch thời vụ chuyển dịch phù hợp với điều kiện từng vùng sinh thái. Diện tích gieo trồng 74.728 ha (bao gồm vụ Xuân hè 24.905 ha và Hè thu 49.823 ha) đạt 97,5% kế hoạch, giảm 1,5% so cùng kỳ. Thu hoạch lúa Hè Thu đạt 64.211 ha, tăng 21,7% so cùng kỳ; năng suất đạt 56,9 tạ/ha, giảm 1,9% so cùng kỳ. Sản lượng đạt 365.277 tấn, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích gieo trồng giảm so cùng kỳ do chuyển đổi sang trồng cây rau màu, cây ăn quả và nuôi trồng thủy sản có hiệu quả kinh tế cao hơn và nhu cầu nguồn nước tưới ít hơn so với trồng lúa.  Vụ Thu đông: Diện tích gieo trồng 4.967 ha; tăng 92,2% so cùng kỳ (gieo trồng chủ yếu ở huyện Tân Phước 1.190 ha, Châu Thành 737 ha và 05 huyện phía đông 3.040 ha). Dù chủ trương cắt vụ lúa Thu đông nhằm tránh ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, đặc biệt là tình hình hạn, mặn đã được ngành Nông nghiệp khuyến cáo, nhưng việc tổ chức thực hiện vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhiều hộ dân không tuân thủ khuyến cáo, chấp nhận thiệt hại dù đã được các địa phương tuyên truyền, vận động.  - Cây ngô: Diện tích trồng trong tháng 85 ha, nâng tổng diện tích gieo trồng 2.236 ha, giảm 33,7% so cùng kỳ; năng suất bình quân 35,6 tạ/ha, sản lượng 7.905 tấn, giảm 32,8% so cùng kỳ, do chịu ảnh hưởng một phần hạn mặn kéo dài của năm 2020 và chuyển đổi sang trồng cây thanh long, một số cây ăn quả khác. Trong đó, huyện Chợ Gạo nằm trong vùng ngọt hóa Gò Công phía đông tỉnh Tiền Giang có diện tích trồng ngô lớn nhất tỉnh với 958 ha chiếm 42,8% diện tích ngô toàn tỉnh. Đây cũng là địa phương có tốc độ chuyển dịch cơ cấu sản xuất từ trồng lúa sang các cây trồng khác mạnh nhất tỉnh.  Cây rau đậu các loại: 9 tháng năm 2021 gieo trồng 53.837 ha, đạt 86,2% kế hoạch, tăng 6,3% so cùng kỳ; thu hoạch 45.374 ha, tăng 2,9% so cùng kỳ; với sản lượng 919.928, đạt 76% kế hoạch, tăng 3,4% so cùng kỳ. Bao gồm diện tích gieo trồng rau các loại 53.589 ha, tăng 6,3% so cùng kỳ, nguyên nhân do chuyển từ đất trồng lúa, năng suất ước 203,4 tạ/ha tăng 0,4% so cùng kỳ, sản lượng 919.421 tấn, tăng 3,4% so cùng kỳ do nông hộ tăng cường ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong sản xuất, mở rộng quy mô trồng rau trong nhà lưới kiểm soát được sâu bệnh, nhiều loại giống mới được đưa vào sản xuất nên năng suất, sản lượng tăng; Diện tích gieo trồng đậu các loại 248 ha, so cùng kỳ tăng 19,9%; Sản lượng 507 tấn, so cùng kỳ tăng 4,5% do diện tích thu hoạch tăng.  Chăn nuôi: Thời điểm 01/9/2021 tổng đàn gian súc, gia cầm của tỉnh như sau: Đàn bò hiện có 120.351 con, tăng 1,8% so cùng kỳ, tương ứng tăng 2.157 con so cùng kỳ, sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng trong tháng đạt 1.543 tấn, cộng dồn đạt 16.986 tấn, giảm 4,2% tương ứng giảm 744,29 tấn so với cùng kỳ; Đàn lợn là 273.816 con, giảm 5,3% tương ứng giảm 420 con so với cùng kỳ, sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 9 đạt 5.901 tấn giảm 15,4% tương ứng giảm 1.075 tấn so cùng kỳ, cộng dồn 9 tháng đạt 57.067 tấn, giảm 13,3% tương ứng giảm 8.753 tấn. Nguyên nhân chủ yếu là do dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang diễn biến rất phức tạp, dịch vụ vận tải đã ngừng hoạt động, trên địa bàn tỉnh thực hiện giãn cách nghiêm ngặt và phong tỏa khu Trung tâm Thành phố Mỹ Tho, vì vậy khâu tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi gặp rất nhiều khó khăn. Tổng đàn gia cầm của tỉnh là 17.200 ngàn con, tăng 2,8% tương ứng tăng 470,96 ngàn con so với cùng kỳ. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng trong tháng 9 đạt 3.770 tấn, giảm 15,6% tương ứng giảm 695 tấn. Nâng tổng số sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 9 tháng năm 2021 đạt 41.385,15 tấn, giảm 2,5% tương ứng giảm 1.045,45 tấn so với cùng kỳ. Nguyên nhân do dịch Covid-19, tình hình tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi gặp nhiều khó khăn.  b. Lâm nghiệp  Tổng diện tích rừng hiện có là 1.925,1 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng). Trong đó rừng phòng hộ 1.337,4 ha (huyện Gò Công Đông: 444,8 ha; huyện Tân Phú Đông: 848,8 ha và huyện Tân Phước: 43,8 ha) và 587,7 ha rừng sản xuất.  Trong tháng 9/2021 toàn tỉnh thực hiện trồng mới được 8,3 ngàn cây phân tán nâng tổng số cây trồng từ đầu năm đến nay là 827,9 ngàn cây các loại, tăng 31,4% so với cùng kỳ do trong tháng có mưa nhiều, cây đựợc trồng ven các tuyến đường đi mới mở, nâng cấp theo chuẩn nông thôn mới (các loại cây trồng mới chủ yếu là cây bạch đàn, tràm bông vàng).  Trong 9 tháng năm 2021, sản lương khai thác gỗ đạt 27.531 m3, giảm 7,5% so với cùng kỳ. Các loại gỗ được khai thác chủ yếu từ các loại cây bạch đàn, bạch đàn cao sản, dầu gió, tràm lanh. Nguyên nhân giảm là do diện tích rừng và chuyển đổi sang trồng các loại cây ăn quả khác như cây khóm, mít, chanh, sầu riêng nên sản lượng gỗ khai thác giảm; Khai thác củi đạt 108.872 Ste củi các loại, giảm 1,4% so cùng kỳ. Sản lượng củi khai thác giảm do các hộ dân ở huyện Cái Bè, Cai Lậy, Tân Phước ít khai thác và chuyển qua trồng cây ăn trái.  c. Thủy hải sản:  Diện tích nuôi thủy hải sản các loại trong tháng 9 đạt 693 ha, giảm 2,7% so cùng kỳ năm 2020; Trong quý III/2021 diện tích nuôi trong thủy sản đạt 1.565 ha, giảm 21,4% so cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2021, diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 14.778 ha, đạt 97,3% kế hoạch, tăng 0,3% so với cùng kỳ năm 2020; bao gồm nuôi thủy sản nước ngọt thả nuôi được 4.430 ha, so cùng kỳ tăng 0,4%. Nguyên nhân nuôi trồng thủy sản nước ngọt tăng là do ít bị ảnh hưởng hạn mặn kết hợp với mực nước nội đồng đủ nước nên các hộ tiến hành thả nuôi. Ngoài việc nuôi theo truyền thống ở hộ gia đình thì phong trào nuôi cá da trơn dọc bờ sông Tiền với hình thức nuôi công nghiệp cũng duy trì; nuôi thủy sản mặn, lợ trong 9 tháng đầu năm toàn tỉnh nuôi được 10.348 ha, tăng 0,3% so cùng kỳ, diện tích tăng chủ yếu là nuôi tôm sú nuôi quảng canh và nuôi tôm thẻ chân trắng do độ mặn và thời tiết thích hợp thì tiến hành thả giống, các hộ nuôi tôm thâm canh và quảng canh cải tiến rất thận trọng trong việc chọn mua giống. Tình hình nuôi nghêu ổn định, các sân nuôi tiếp tục thu hoạch và thả nuôi nghêu trở lại, ngành chức năng tăng cường thực hiện quan trắc môi trường tại vùng nuôi nghêu tập trung.  Sản lượng thủy sản trong tháng 9 đạt 26.515 tấn, giảm 3,5% so với cùng kỳ; trong quý III/2021 sản lượng thủy sản đạt 93.566 tấn, tăng 0,7% so cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2021, sản lượng thủy sản đạt 235.109 tấn, đạt 80,1% kế hoạch, tăng 1,9% so với cùng kỳ; gồm có sản lượng thu hoạch từ nuôi thu hoạch 9 tháng đầu năm 2021 đạt 120.884 tấn, tăng 1,1% so với cùng kỳ, do những diện tích thả nuôi đã đến kỳ thu hoạch. Tiền Giang đa dạng hóa mô hình và đối tượng nuôi thủy sản, chú ý các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao, phù hợp với đặc thù hệ sinh thái vùng sông nước hạ lưu sông Tiền như: Nuôi tôm sú và tôm thẻ ở ven biển, nuôi cá tra thương phẩm trên các cù lao trên sông Tiền thuộc các huyện Cai Lậy và Cái Bè phía thượng lưu, nuôi và sản xuất cá giống nước ngọt ở vùng ven Đồng Tháp Mười, nuôi cá lồng bè trên sông Tiền, nuôi cá lồng ghép trong các mô hình kinh tế tổng hợp; khai thác thủy sản 9 tháng năm 2021 đạt 114.225 tấn, tăng 2,7% so cùng kỳ, do thời tiết thuận lợi cho hoạt động khai thác biển nên đa số các tàu có công suất lớn, nhất là các phương tiện đánh bắt biển xa, nghề lưới đều trúng mùa, sản lượng tăng khá, ngư dân phấn khởi. Hiện nay, các phương tiện không còn đánh bắt nhỏ lẻ như trước đây mà đã tự nguyện gia nhập vào các tổ hợp tác hoặc hợp tác xã để thuận lợi hơn trong đánh bắt hải sản nhất là khi khai thác xa bờ dễ dàng tương trợ, phối hợp cùng nhau để đạt hiệu quả được cao hơn và an toàn hơn, nên ngư dân khai thác trúng mùa, đạt sản lượng.  6. Sản xuất công nghiệp:  Đợt dịch Covid-19 bùng phát lần thứ 4 với biến chủng Delta, ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp vốn đã bị tổn thương lại càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Các nguồn lực dự trữ đang cạn dần trong khi thị trường chưa có dấu hiệu phục hồi hoặc đang phục hồi rất chậm. Đặc biệt, dịch đã xâm nhập và tác động tiêu cực tới các khu công nghiệp, nơi tập trung một lượng lớn người lao động dẫn đến nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng, chuỗi lao động, sản xuất quy mô lớn, ảnh hưởng lớn đến kinh tế. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2021 tăng 19,1% so tháng 8/2021 và giảm 12,1% so cùng kỳ, trong đó: Công nghiệp chế biến chế tạo giảm 13,7%; sản xuất thiết bị điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 2,4% và cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,1%.  Chỉ số sản xuất công nghiệp quý III/2021 giảm 13,5% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 14,6% (tập trung ở một số ngành chủ yếu sau: Sản xuất thiết bị điện giảm 71,6%; Sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 58,4%, dệt giảm 63,5%...); Ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 7,3%; Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,5%.  Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm 2021 giảm 1,7% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 1,9% (tập trung ở một số ngành chủ yếu sau: sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 50,12%, sản xuất kim loại giảm 0,5%, sản xuất thiết bị điện giảm 18,1%, dệt giảm 27,8%...); ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 1,1%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,8%.  Giá trị sản xuất công nghiệp địa phương 9 tháng đầu năm 2021 theo giá so sánh 2010 thực hiện 61.793 tỷ đồng, giảm 1,7% so cùng kỳ. Trong đó: Khu vực kinh tế nhà nước 782 tỷ đồng, giảm 5,8%; Khu vực kinh tế ngoài nhà nước 23.734 tỷ đồng, giảm 4,4%; Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 37.277 tỷ đồng, tăng 0,2%. Phân theo ngành công nghiệp: chế biến, chế tạo thực hiện 60.911 tỷ đồng, giảm 1,7%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí thực hiện 489 tỷ đồng, tăng 1%; cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải thực hiện 392 tỷ đồng, giảm 1,8% so cùng kỳ.  Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 9/2021 so với tháng trước tăng 0,5%, (trong đó: doanh nghiệp nhà nước giảm 0,1%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 1,8%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,2%) và so với cùng kỳ giảm 27,7%, (trong đó: doanh nghiệp nhà nước giảm 2,2%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 35,6%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 26,6%). Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 9 năm 2021 giảm 12,9%, (trong đó: doanh nghiệp nhà nước giảm 1,6%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 11,4%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 13,7%). Chia theo ngành công nghiệp: Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 9 năm 2021 giảm 12,9%, trong đó ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 13,2%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 0,4%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải giảm 2,5%.  Sản phẩm sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2021: có 13/43 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Bộ com lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 47,5%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 22%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng bột/cốm tăng 18,9%; Bia đóng chai tăng 16,5%; Bia đóng lon tăng 12,3%; Túi xách tăng 10,8%; Phanh và trợ lực phanh tăng 8,7%; Giày, dép thể thao có đế ngoài và mũ giày bằng cao su và plastic tăng 4,6%; Dịch vụ thu gom rác thải không độc hại có thể tái chế tăng 2,2%; Ống và ống dẫn bằng đồng tăng 2%;... Có 30/43 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Đồ chơi hình con vật hoặc sinh vật không phải hình người giảm 49,2%; Dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu, thuyền giảm 48,4%; Dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 43,1%; Các bộ phận của bi, bánh răng, hộp số, các bộ phận điều khiển và truyền chuyển động khác giảm 42,7%; Giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài giảm 33,4%; Áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc giảm 29,4% …  7. Thương mại, dịch vụ:  a. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng:  Chín tháng đầu năm 2021, do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 doanh thu của các ngành dịch vụ giảm mạnh do tỉnh thực hiện biện pháp phong tỏa và giãn cách xã hội. Ngoài một số loại hàng hóa như lương thực thực phẩm, thuốc và các loại thiết yếu khác tăng, hầu hết các nhóm hàng hóa, hoạt động dịch vụ đều giảm.  Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng quý III/2021 thực hiện 11.415 tỷ đồng, giảm 34,1% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 11.043 tỷ đồng, giảm 20,8%; lưu trú, ăn uống 2,5 tỷ đồng, giảm 73,2%; dịch vụ tiêu dùng khác 366 tỷ đồng, giảm 78,9% so cùng kỳ.  Chín tháng đầu năm 2021, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 44.609 tỷ đồng, đạt 63,5% kế hoạch, giảm 3,2% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 37.863 tỷ đồng, tăng 1,3%; lưu trú, ăn uống 2.901 tỷ đồng, giảm 30,7%; du lịch lữ hành 6 tỷ đồng, giảm 77,9%; dịch vụ tiêu dùng 3.839 tỷ đồng, giảm 14,5% so cùng kỳ, do một số ngành nghề, hoạt động liên quan tạm ngưng một thời gian dài để thực hiện phòng chống Covid. Nếu loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ 9 tháng đầu năm 2021 dự kiến giảm 5,8% so cùng kỳ.  b. Xuất - Nhập khẩu:  * Xuất khẩu:  Do ảnh hưởng của Covid-19, đã ảnh hưởng đến hoạt động giao dịch, trao đổi giữa doanh nghiệp và đối tác, đặc biệt đối với các giao dịch cần có sự trao đổi trực tiếp; hoạt động thông quan hàng hóa gặp khó khăn làm tăng thêm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhờ tốc độ tăng trưởng cao 6 tháng đầu năm nên tính chung 9 tháng đầu năm 2021 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong 9 tháng đầu năm 2021 ước đạt 2.373 triệu USD, đạt 73% kế hoạch, tăng 7,3% so cùng kỳ; bao gồm: kinh tế nhà nước 30 triệu USD, giảm 10,1%; kinh tế ngoài nhà nước 404 triệu USD, giảm 12,2%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.940 triệu USD, tăng 12,9% so cùng kỳ. Kết quả có được như trên là do thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) Tiền Giang những năm qua cao nhờ vào lợi thế gần TP. Hồ Chí Minh và có hạ tầng khu công nghiệp, giao thông kết nối khá tốt.  Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của tỉnh như sau:  - Thủy sản: ước tính 9 tháng xuất 65.656 tấn, giảm 23,6% so cùng kỳ; trị giá xuất 144,3 triệu USD, đạt 45,1% kế hoạch, giảm 29% so cùng kỳ.  - Gạo: ước tính 9 tháng xuất 150.449 tấn, giảm 17,9% so cùng kỳ; trị giá xuất 80 triệu USD, đạt 57,1% kế hoạch, giảm 15,8% so cùng kỳ.  - Hàng dệt, may: ước tính 9 tháng xuất 107.644 ngàn sản phẩm, giảm 43,8% so cùng kỳ; trị giá xuất 375,3 triệu USD, đạt 62,6% kế hoạch, giảm 15% so cùng kỳ.  - Kim loại thường và sản phẩm (kể cả đồng): ước tính 9 tháng xuất 58.675 tấn, giảm 16% so cùng kỳ; trị giá xuất 547 triệu USD, tăng 16,9% so cùng kỳ.  Ngoài các mặt hàng chủ yếu, trị giá xuất khẩu một số mặt hàng trong 8 tháng năm 2021 như: túi xách, vali, mũ và ô dù 194,5 triệu USD, tăng 1%; giày dép các loại 390 triệu USD, tăng 17,8%; xơ, sợi dệt các loại 91 triệu USD, tăng 54,1%... so cùng kỳ.  b. Nhập khẩu:  Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 9 tháng đầu năm 2021 thực hiện 1.337,5 triệu USD, đạt 74,3% kế hoạch, tăng 18,4% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 82,7 triệu USD, tăng 10,2%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.254,8 triệu USD, tăng 18,9% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu 9 tháng chủ yếu các mặt hàng như: kim loại thường khác 508,4 triệu USD, tăng 15,7%; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 246,7 triệu USD, tăng 44,5%; vải các loại 148 triệu USD, giảm 4,6%... so cùng kỳ.  c. Vận tải:  Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải quý III/2021 thực hiện 246 tỷ đồng, giảm 49,4% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 21 tỷ đồng, giảm 84,6% so cùng kỳ; vận tải hàng hóa thực hiện 191 tỷ đồng, giảm 35,7% so cùng kỳ. Vận tải đường bộ thực hiện 63 tỷ đồng, giảm 47,4%; vận tải đường thủy thực hiện 128 tỷ đồng, giảm 28%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 33 tỷ đồng, giảm 30,9% so cùng kỳ. Chín tháng đầu năm 2021, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải thực hiện 1.219 tỷ đồng, giảm 18,2% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 295 tỷ đồng, giảm 30,2% so cùng kỳ; vận tải hàng hóa thực hiện 790 tỷ đồng, giảm 13,4% so cùng kỳ. Vận tải đường bộ thực hiện 311 tỷ đồng, giảm 13,7%; vận tải đường thủy thực hiện 479 tỷ đồng, giảm 13,3%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 134 tỷ đồng, giảm 13,1% so cùng kỳ.  Vận chuyển hành khách quý III/2021 đạt 2.022 ngàn hành khách, giảm 77,7% và luân chuyển 12.310 ngàn hành khách.km, giảm 92% so cùng kỳ; trong đó: vận chuyển đường bộ 820 ngàn hành khách, giảm 78,3% và luân chuyển 10.633 ngàn hành khách.km, giảm 92,8% so cùng kỳ; vận chuyển đường thủy 1.202 ngàn hành khách, giảm 77,2% và luân chuyển 1.677 ngàn hành khách.km, giảm 72,2% so cùng kỳ. Chín tháng đầu năm 2021, vận chuyển hành khách đạt 17.612 ngàn hành khách, giảm 31,6% và luân chuyển 309.453 ngàn hành khách.km, giảm 30,7% so cùng kỳ, do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 xảy ra trên diện rộng, thời gian thực hiện giãn cách xã hội kéo dài, gây ảnh hưởng đến quá trình sản xuất hàng hoá và dịch vụ của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, trong đó có hoạt động vận tải, kho bãi. Trong đó: vận chuyển đường bộ 8.283 ngàn hành khách, giảm 24,3% và luân chuyển 296.547 ngàn hành khách.km, giảm 30,2% so cùng kỳ; vận chuyển đường thủy 9.329 ngàn hành khách, giảm 37% và luân chuyển 12.906 ngàn hành khách.km, giảm 40,2% so cùng kỳ.  Vận tải hàng hóa quý III/2021 đạt 1.924 ngàn tấn, giảm 31,1% và luân chuyển được 263.862 ngàn tấn.km, giảm 27.2% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ thực hiện 364 ngàn tấn, giảm 42,3% và luân chuyển được 41.818 ngàn tấn.km, giảm 43,2% so cùng kỳ; vận tải đường thủy thực hiện 1.560 ngàn tấn, giảm 27,8% và luân chuyển được 222.044 ngàn tấn.km, giảm 23,1% so cùng kỳ. Chín tháng đầu năm 2021, vận tải hàng hóa đạt 7.580 ngàn tấn, giảm 11,4% và luân chuyển 980.649 ngàn tấn.km, giảm 11,7% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ thực hiện 1.777 ngàn tấn, giảm 5,2% và luân chuyển được 189.041 ngàn tấn.km, giảm 17,3% so cùng kỳ; vận tải đường thủy thực hiện 5.803 ngàn tấn, giảm 13,1% và luân chuyển 791.608 ngàn tấn.km, giảm 10,2% so cùng kỳ.  * Phương tiện giao thông: trong tháng đăng ký mới 11 xe ô tô, và 01 chiếc xe khác. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.355.009 chiếc, trong đó mô tô xe máy: 1.312.967 chiếc, 41.251 xe ô tô, 152 xe ba bánh, 192 xe đạp điện và 447 xe khác.  d. Du lịch:  Trong tháng 9, dịch vụ lưu trú và du lịch lữ hành tiếp tục bị ảnh hưởng mạnh bởi dịch Covid-19, đợt dịch lần 4 này người dân và du khách e dè hơn trong việc tổ chức đi tham quan du lịch.  Khách du lịch đến tỉnh trong quý III/2021 ước tính 325 lượt, bằng 0,2% so cùng kỳ. Doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 5.380 tỷ đồng, bằng 0,3% so cùng kỳ; chủ yếu là doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống. Chín tháng đầu năm 2021, lượng khách du lịch đến tỉnh 263,6 ngàn lượt, đạt 24% kế hoạch, giảm 56,4% so cùng kỳ; trong đó khách quốc tế 3,8 ngàn lượt, bằng 3,9%. Doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 2.907 tỷ đồng, giảm 31% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm 99,8%.  e. Bưu chính - Viễn thông:  Doanh thu tháng 9 đạt 265 tỷ đồng, tăng 3,9% so tháng trước; trong đó: doanh thu bưu chính 25 tỷ đồng, tăng 2,1% và viễn thông 239 tỷ đồng, tăng 4,1%. Cộng dồn 9 tháng doanh thu 2.372 tỷ đồng, đạt 76,5% so kế hoạch và tăng 4% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính 214 tỷ đồng, tăng 12,4% so cùng kỳ và đạt 98,9% so kế hoạch, doanh thu viễn thông 2.158 tỷ đồng, tăng 3,2% so cùng kỳ và đạt 74,8% so kế hoạch.  Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng ước tính đến cuối tháng 9 năm 2021 là 97.655 thuê bao, mật độ bình quân đạt 5,5 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây từ đầu năm 2021 đến nay tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa và giá cước điện thoại ngày càng giảm cho nên khách hàng dần chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Số thuê bao điện thoại di động có sử dụng internet (3G, 4G) đến cuối tháng 8 năm 2021 là 1621.013 thuê bao. Chín tháng đầu năm 2021 số thuê bao internet phát triển 46.082 thuê bao. Tổng số thuê bao internet trên mạng ước tính đến tháng 9 năm 2021 là 282.127 thuê bao, mật độ internet bình quân ước đạt 15,9 thuê bao/100 dân.  Tỉnh hiện có 15 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, chuyển phát Có 206 điểm phục vụ bưu chính, trong đó có 44 điểm bưu cục, 111 điểm Bưu điện Văn hóa xã và 51 đại lý bưu điện và thùng thư công cộng. Các dịch vụ truyền thống giảm do sự phát triển mạnh của viễn thông, Internet. Doanh nghiệp bưu chính tiếp tục tăng cường, củng cố các dịch vụ hiện có, quan tâm phát triển các dịch vụ có doanh thu cao và dịch vụ mới, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng nghiệp vụ.  II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI  1. Lao động, giải quyết việc làm:  Chín tháng đầu năm 2021, tư vấn cho 18.799 lượt lao động, giảm 26% so với cùng kỳ năm 2020, đạt 94% kế hoạch năm, trong đó tư vấn nghề cho 4.288 lượt lao động, tư vấn việc làm 2.277 lượt lao động, tư vấn việc làm cho 11.394 lượt lao động thất nghiệp, tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác cho 889 lượt lao động; giới thiệu việc làm cho 2.012 lượt lao động, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2020, đạt 50,3% kế hoạch năm; đã giới thiệu cho 754 lao động có được việc làm ổn định, giảm 17,8% so với cùng kỳ năm 2020; Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, bao gồm tư vấn cho 562 lượt lao động có nguyện vọng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm 2020 (23 lượt lao động đăng ký tham gia, giảm 20,7% so với cùng kỳ); 143 lao động xuất cảnh, giảm 4% so với cùng kỳ năm 2020, đạt 47,7% so với kế hoạch năm, trong đó xuất cảnh qua Nhật Bản 110 lao động, Đài Loan 30 lao động và thị trường khác 03 lao động. Chín tháng đầu năm, tiếp nhận được 11.411 người hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 40,8% so với cùng kỳ năm 2020, 12.424 trường hợp được hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 29,9% so với cùng kỳ năm 2020, với tổng số tiền chi trả trên 187 tỷ đồng; thực hiện tư vấn, giới thiệu việc làm và tư vấn học nghề cho 61.744 lượt lao động thất nghiệp, 23 người lao động thất nghiệp đã đăng ký học nghề.   Trong quý III năm 2021 tình hình dịch bệnh Covid-19 xảy ra tại tỉnh Tiền Giang đã ảnh hưởng đến khoảng 96% các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tạm dừng hoạt động để phòng, chống dịch. Do đó, số lao động ngừng việc rất lớn, chiếm khoảng 94% tổng số lao động tại các doanh nghiệp. Theo tổng hợp sơ bộ Điều tra lao động việc làm quý III năm 2021, dân số từ 15 tuổi trở lên là 2.219 người (nữ chiếm 51,6%). Trong đó lực lượng lao động là 1.542 lao động, chiếm 69,5% dân số từ 15 tuổi trở lên của quý III năm 2021.  Theo kết quả điều tra mẫu lao động việc làm quý III/2021 tỷ trọng lực lượng lao động khu vực thành thị là 30%. Tỷ trọng của lực lượng lao động hiện nay vẫn tập trung chủ yếu là ở khu vực nông thôn (chiếm 70%). Số người từ 15 tuổi trở lên có việc làm của tỉnh quý III năm 2021 là 1.319 người, chiếm 59,4% so với tổng số người từ 15 tuổi trở lên. Trong tổng số lao động có việc làm của toàn tỉnh, lao động khu vực nông thôn chiếm 71,4% và khu vực thành thị chiếm 28,6%.  Theo kết quả sơ bộ điều tra mẫu lao động việc làm quý III/2021 cho thấy, trong tổng số 1.319 lao động đang làm việc của tỉnh đã có 214 lao động thiếu việc làm chiếm 16,2%, tăng 12,2 điểm phần trăm so quý II/2021 và tăng 7,2 điểm phần trăm so cùng kỳ năm 2020 (từ 9,1% năm 2020 tăng lên 16,2% năm 2021), đã làm cho tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị tăng 12,7 điểm phần trăm so quý II và tăng 6,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2020 (từ 12,4% năm 2020 lên 18,8%). Đối với khu vực nông thôn tỷ lệ thiếu việc làm quý III tăng 12,2 điểm phần trăm so quý II và tăng 7,6% điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2020 (từ 7,6% năm 2020 lên 15,2%). Tình trạng số lao động thiếu việc làm trong quý III năm 2021 chủ yếu là ở khu vực nông thôn (chiếm 66,8% trong tổng số số lao động thiếu việc làm của toàn tỉnh).  Theo kết quả điều tra mẫu lao động việc làm quý III/2021 tỷ lệ thất nghiệp tăng 13,1 điểm phần trăm so quý II năm 2021 và tăng 12,1 điểm phần trăm so cùng kỳ năm 2020 (từ 2,4% năm 2020 lên 14,5% năm 2021). Trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị quý III tăng 16,3 điểm phần trăm so quý II và tăng 15,8 điểm phần trăm so cùng kỳ năm 2020 (từ 2,8% lên 18,6%). Vì vậy, đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn tăng 11,8 điểm phần trăm so quý II và tăng 10,5 điểm phần trăm so cùng kỳ năm 2020 (từ 2,2% năm 2020 lên 12,7% năm 2021). Cũng chính vì vậy, đã làm cho tỷ trọng thất nghiệp ở khu vực thành thị chiếm 38,6% so với tổng số lao động thất nghiệp của toàn tỉnh và tỷ trọng số lao động thất nghiệp khu vực thành thị trong quý III năm 2021 tăng 2,7 điểm phần trăm so cùng kỳ năm 2020. Trong 9 tháng đầu năm 2021, tỷ lệ lao động thất nghiệp của tỉnh tăng 3,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2020 (từ 2,0% lên 5,6%) và tỷ lệ lao động thất nghiệp khu vực thành thị tăng 5,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ từ 2,0% năm 2020 lên 7,3% năm 2021 đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn tăng 2,8 điểm phần trăm (từ 2,0% năm 2020 lên 4,8% năm 2021). Tỷ lệ lao động thiếu việc làm 9 tháng đầu năm 2021 tương tự 9 tháng đầu năm 2020 là 7,4%.  Nhìn chung tỷ lệ thất nghiệp chung của toàn tỉnh, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và nông thôn cũng như tỷ lệ số lao động thiếu việc làm trong quý III và 9 tháng đầu năm 2021 nhìn chung đều tăng so cùng kỳ năm 2020, là do trong quý III/2021 tỉnh Tiền Giang chịu sự tác động nặng nề của đại dịch Covid-19. Đã ảnh hưởng tiêu cực đến các mặt đời sống, xã hội, các hoạt động dịch vụ du lịch, giao thông vận tải, sản xuất, kinh doanh, các hoạt động vui chơi, giải trí... nên số lao động thất nghiệp của quý III và 9 tháng năm 2021 tăng cao hơn quý III và 9 tháng năm 2020. Riêng số lao động thiếu việc làm trong quý III năm 2021 tăng cao hơn quý III năm 2020 và số lao động thiếu việc làm 9 tháng năm 2021 tương đương cùng kỳ.  2. Đời sống dân cư và an sinh xã hội:  Từ đầu năm đến nay, đã trình Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, ban hành quyết định phê duyệt danh sách và kinh phí hỗ trợ cho 3.715/3.855 người lao động, với tổng số tiền hỗ trợ trên 3,8 tỷ đồng. Trong đó, mức hỗ trợ 1.800.000 triệu đồng/người cho 136 người lao động với tổng số tiền 244,8 triệu đồng, mức hỗ trợ 1.000.000 đồng/người cho 3.579 người lao động với tổng số tiền gần 3,6 tỷ đồng. Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành 04 quyết định phê duyệt danh sách và kinh phí hỗ trợ cho 3.715/3.715 người lao động, với tổng số tiền hỗ trợ trên 3,8 tỷ đồng. Chính phủ phê duyệt hỗ trợ tỉnh Tiền Giang 200.415 người, với trên 3.006 tấn gạo. Đến nay, tỉnh đã nhận được trên 1.490 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia và đã tổ chức cấp phát cho 99.253 người dân, số lượng gạo tỉnh chưa được cấp từ Tổng cục Dự trữ nhà nước so với số lượng đã được Trung ương phê duyệt là gần 1.516 tấn gạo; sẽ cấp cho 101.062 người. Đồng thời, UBND tỉnh xem xét tiếp tục đề nghị Trung ương hỗ trợ đợt 2 cho 163.262 người dân, người lao động gặp khó khăn do dịch Covid-19, với số lượng gạo gần 2.449 tấn.  Quỹ đền ơn đáp nghĩa trong 9 tháng năm 2021 đã vận động được 5,9 tỷ đồng, xây dựng được 35 căn nhà tình nghĩa với tổng số tiền 1,4 tỷ đồng; sửa chữa 51 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí trên 1 tỷ đồng. Các chính sách bảo trợ xã hội được thực hiện đồng bộ, các đối tượng xã hội đã được tạo điều kiện để tiếp cận tốt các chính sách và các nguồn hỗ trợ từ nhà nước, cộng đồng. Tổng số đối tượng hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội tại cộng đồng 72.709 người với tổng kinh phí thực hiện trên 169,4 tỷ đồng.  3. Hoạt động giáo dục:  Trong 9 tháng đầu năm 2021, ngành giáo dục Tiền Giang đã tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2020-2021 từ ngày 25/12/2020 đến ngày 27/12/2020 tại trường THPT Chuyên Tiền Giang với 54 thí sinh dự thi ở 09 môn Ngữ văn, Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Lịch sử, Địa lý, Tin học, Tiếng Anh. Cử đoàn cán bộ, giáo viên tham gia coi thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2020-2021 tại tỉnh Quảng Ngãi, Kon Tum. Kết quả đạt 06 giải/54 học sinh dự thi, trong đó có 01 giải nhì (Tiếng Anh), 05 giải khuyến khích (Sinh học, Toán, Ngữ văn, Vật lý) đều là học sinh trường THPT Chuyên. Xếp hạng 61/69 đơn vị dự thi toàn quốc; xếp hạng 9/13 tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long. Phát hành bản chính bằng tốt nghiệp THPT năm 2020, công khai thông tin cấp phát văn bằng tốt nghiệp năm học 2020-2021 trên Website Sở GDĐT để phục vụ tra cứu, xác minh. Phát hành Giấy chứng nhận nghề phổ thông năm 2020 cho các đơn vị dự thi và thực hiện tổng hợp chỉnh sửa các trường hợp sai sót.  Tổ chức kỳ thi tuyển sinh lớp 10 năm học 2021-2022 vào các ngày 04, 05, 06/6/2021. Kỳ thi tốt nghiệp THPT diễn ra thành công vào ngày 07, 08/7/2021 (đợt 1) và 06, 07/8/2021 (đợt 2). Kết quả tổng số thí sinh đỗ tốt nghiệp cả 02 đợt là 15.895/16.015 thí sinh dự thi (tỉ lệ 99,25%, không bao gồm thí sinh tự do).  Năm học 2021-2022: Thực hiện Quyết định 2259/QĐ-UBND ngày 25/8/2021 về kế hoạch năm học 2021 - 2022 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên, toàn tỉnh sẽ khai giảng năm học mới bằng hình thức trực tuyến vào ngày 5/9/2021. Đối với bậc giáo dục mầm non chỉ tổ chức dạy và học tập trung khi tình hình dịch Covid-19 được kiểm soát và đảm bảo an toàn cho giáo viên và trẻ. Đối với bậc tiểu học sẽ bắt đầu dạy và học trực tuyến từ ngày 13/9/2021, bậc THCS và THPT (khối lớp 9, lớp 12) sẽ bắt đầu dạy học trực tuyến từ ngày 6/9/2021, các khối lớp còn lại và hệ Giáo dục thường xuyên sẽ bắt đầu dạy học trực tuyến từ ngày 13/9/2021.   4. Hoạt động y tế:  Theo báo cáo Sở Y tế, kể từ khi có ca nhiễm đầu tiên ngoài cộng đồng (ngày 05/6/2021) đến ngày 15/9/2021, Tiền Giang ghi nhận 12.561 ca mắc, 9.320 người đã khỏi bệnh (74,2%) và 314 ca tử vong (2,5%); trong đó Thành phố Mỹ Tho có 5.940 ca (41,6%), Châu Thành có 1.211 ca (8,5%), Chợ Gạo có 603 ca (4,2%). Các cơ sở điều trị (tầng 1 và 2) hoạt động với khoảng 60% công suất, còn trống hơn 3.000 giường bệnh để thu dung điều trị. Các sơ sở điều trị tầng 3 (điều trị bệnh nhân nặng, bệnh nhân có bệnh nền kèm theo) hoạt động với 90% công suất. Trung tâm Hồi sức Covid-19 hoạt động gần 100% công suất, trong đó có nhiều trường hợp bệnh nhân điều trị giảm được đưa xuống tầng điều trị hoặc cho ra viện trong ngày. Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang đã ban hành kế hoạch Tiêm vaccine phòng COVID-19 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2021-2022 số lượng vaccine là 1.371.674 liều. Tính đến cuối ngày 14/9/2021 toàn tỉnh đã tiêm được 294.809 liều vắc xin, trong đó mũi 1 là 269.308 (18,1%), mũi 2 là 25.501 (1,7%).  Trong 9 tháng năm 2021 ghi nhận 14/44 bệnh truyền nhiễm. So với cùng kỳ có 03 bệnh tăng: tay chân miệng (+800 ca), viêm não do vi rút (+4 ca), Covid-19 (+12.561 ca); 14 bệnh giảm: liên cầu lợn ở người (-2 ca), ho gà, lao phổi (-265 ca), lỵ a míp (-2 ca), Quai bị (-30 ca), sởi (-33 ca), Sốt xuất huyết (-379 ca), thương hàn (-6 ca), thủy đậu (-74 ca), tiêu chảy (-461 ca), uốn ván khác (-2 ca), viêm gan siêu vi A (-2 ca), viêm gan siêu vi B (-6 ca), viêm gan siêu vi C(-3 ca); 27 bệnh tương đương và hoặc không xảy ra ca mắc; Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết 9 tháng đầu năm ghi nhận 1.729 ca mắc SXHD, giảm 11,7% so với cùng kỳ, 01 trường hợp tử vong do SXHD; Phòng chống HIV/AIDS cộng dồn đến tháng 9, toàn tỉnh có 5.945 người nhiễm HIV, 1.805 người chuyển sang AIDS, 999 người tử vong do AIDS; Xảy ra 05 vụ ngộ độc thực phẩm, 01 trường hợp tử vong do ngộ độc thực phẩm. Tình hình khám chữa bệnh tại các tuyến do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 một số cơ sở tạm ngưng tiếp nhận bệnh nhân hoặc phải chuyển đổi công năng để tập trung điều trị bệnh nhân Covid-19 cũng như phải cách ly phong tỏa để phòng chống dịch bệnh ảnh hưởng đến công tác khám, chữa bệnh trên địa bàn, số lượng bệnh đến khám ngoại trú và điều trị nội trú đều giảm nhiều giảm so với cùng kỳ năm 2020: tổng số lần khám bệnh 2.978.889 lần giảm 13,5% so cùng kỳ; tổng số người điều trị nội trú 138.529 người, giảm 4,4% so cùng kỳ. Công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong 9 tháng đạt 52,2%.  5. Hoạt động văn hóa - thể thao:  Trong 9 tháng năm 2021, hoạt động văn hóa trên địa bàn tỉnh có những điểm nổi bật như sau: tổ chức họp mặt các giới Mừng Đảng Mừng Xuân Tân Sửu năm 2021; tổ chức chương trình nghệ thuật chào giao thừa tại Trung tâm Đào tạo, Huấn luyện và Thi đấu Thể dục Thể thao; tổ chức lễ truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; lễ phát động trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” và triển khai thực hiện đề án “Trồng một tỷ cây xanh giai đoạn 2021-2025” trên địa bàn tỉnh Tiền Giang; tổ chức các hoạt động phục vụ nhân dân dịp Tết Nguyên Đán Tân Sửu trong điều kiện phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Tập trung công tác tuyên truyền mừng Đảng, mừng xuân; chào mừng thành công Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tiền Giang lần thứ XI, nhiệm kỳ 2021-2025, chào mừng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; chào mừng cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.  Toàn tỉnh hiện có 424.893/459.435 hộ đạt 3 tiêu chuẩn Gia đình văn hóa, đạt 92,8%; 998/1005 ấp, khu phố văn hóa, đạt tỷ lệ 99,3%; 152/172 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị; 59 chợ văn hóa; 17 công viên văn hóa; 729 con đường văn hóa, 537 cơ sở thờ tự văn hóa.  Trong 9 tháng đầu năm 2021, hệ thống thư viện tỉnh đã phục vụ được 36.023 lượt bạn đọc tăng 132,6% so cùng kỳ năm trước, với 165.347 lượt sách báo được lưu hành tăng 200,3% so với cùng kỳ năm trước. Hệ thống thư viện huyện và các phòng đọc cơ sở đã tiếp được 55.848 lượt bạn đọc, với 132.691 lượt sách báo lưu hành. Bảo tàng tỉnh và các di tích quốc gia trên địa bàn tỉnh đã đón hơn 20 nghìn lượt khách tham quan, giảm 52,3% so với cùng kỳ năm 2020, bán được 2.049 vé, sưu tầm được 30 hiện vật.  Trong 9 tháng năm 2021, tổ chức 06 giải thể thao: giải Bóng đá hạng Nhì Quốc gia, giải Bóng bàn tỉnh Tiền Giang mở rộng lần VII – Tranh Cúp Sài Gòn Pingpong, giải Bóng chuyền hơi nữ CĐVC tỉnh Tiền Giang, giải Bóng đá mini trẻ tỉnh Tiền Giang, giải Bóng đá vô địch tỉnh Tiền Giang, giải thể thao kỷ niệm 75 năm ngày Thể thao Việt Nam. Tham dự 11 giải Quốc gia và khu vực, đạt 33 huy chương các loại (12 HCV, 8 HCB, 13 HCĐ). Triển khai xây dựng khu thể thao dưới nước tại Trung tâm Đào tạo, Huấn luyện và Thi đấu Thể dục Thể thao tỉnh. Các đội vận động viên tỉnh được trở về gia đình tiếp tục tự tập luyện online theo giáo án 2021.  6. Trật tự an toàn giao thông: (Theo báo cáo của ngành Công an).  Giao thông đường bộ: Tai nạn giao thông trong tháng xảy ra 09 vụ, giảm 27 vụ so tháng trước và giảm 22 vụ so cùng kỳ, làm chết 06 người, giảm 13 người so tháng trước và giảm 20 người so cùng kỳ, bị thương 07 người, giảm 14 người so tháng trước và giảm 03 người so cùng kỳ. Nguyên nhân gây ra tai nạn: vi phạm tốc độ 02 vụ; sai làn đường, phần đường 02 vụ; không nhường đường 01 vụ; thiết bị không đảm bảo an toàn 01 vụ; nguyên nhân khác 03 vụ. Nâng tổng số vụ từ đầu năm đến nay 418 vụ tăng 153 vụ so cùng kỳ, làm chết 202 người, tăng 32 người so cùng kỳ, bị thương 278 người, tăng 145 người so cùng kỳ.  Giao thông đường thủy: Trong tháng không phát sinh, tổng số vụ tai nạn từ đầu năm đến nay là 03 vụ, giảm 02 vụ so cùng kỳ (không phát sinh số người chết và bị thương).  Tình hình TTATGT trong 04 ngày nghỉ lễ Quốc khánh 02/9/2021 (từ 07 giờ ngày 02/9 đến 07 giờ ngày 05/9/2021): không xảy ra, tình hình dich bệnh COVID-19 đang diễn biến phức tạp, toàn tỉnh đang áp dụng Chỉ thị số 15/CT-TTg và Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ nên lưu lượng phương tiện trên các tuyến giao thông giảm, chủ yếu phương tiện vận chuyển hàng hóa thiết yếu, không xảy ra ùn tắc giao thông.  7. Tình hình an ninh trật tự an toàn xã hội: theo báo cáo ngành Công an  Trong 9 tháng năm 2021, tội phạm về trật tự xã hội xảy ra 935 vụ, giảm 5,5% so cùng kỳ; điều tra khám phá 498 vụ, bắt xử lý 686 đối tượng, thu hồi tài sản trị giá 1,5 tỷ đồng, phát hiện, triệt xóa 314 tụ điểm, xử lý 2.140 đối tượng liên quan cờ bạc; 180 vụ, 211 đối tượng tàng trữ, mua bán vận chuyển trái phép chất mà túy và xử lý hành chính 1.257 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; 38 vụ tội phạm về kinh tế, tham nhũng, xử lý 44 đối tượng và xử lý vi phạm hành chính, 39 trường hợp vi phạm pháp luật trên lĩnh vực kinh tế, 134 trường hợp vi phạm pháp luật về môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm và khai thác cát trái phép.  8. Tình hình cháy nổ, môi trường:  Tình hình cháy nổ trong tháng xảy ra 03 vụ, trong đó có 01 vụ cháy nhà dân, 01 vụ cháy chợ ở thành phố Mỹ Tho và 01 vụ cháy khác ở huyện Gò Công Đông; nguyên nhân cháy do sự cố điện; uớc giá trị thiệt hại tài sản là 70 triệu đồng. Nâng tổng số vụ cháy, nổ trên địa bàn tỉnh từ đầu năm đến nay là 28 vụ cháy, nổ; ước tính thiệt hại tài sản gần 5,5 tỷ đồng.  Chín tháng năm 2021, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 16 cơn lốc xoáy ở các huyện: Cái Bè, Cai Lậy, thị xã Cai Lậy, Tân Phước, Châu Thành, Thành phố Mỹ Tho, Chợ Gạo, thị xã Gò Công, Gò Công Đông và Tân Phú Đông đã gây thiệt hại về nhà: 249 căn nhà (sập 7 căn, tốc mái 242 căn), 1,7 ha cây bắp thiệt hại 100%, 120 ha lúa bị ngã đỗ và 765 cây thiệt hại, ước tính thiệt hại khoảng trên 6,7 tỷ.  Lĩnh vực môi trường trong tháng 9 đã phát hiện vi phạm và xử lý 1 vụ, 03 quyết định xử phạt vi phạm hành chính (với 03 tổ chức); tiền xử phạt vi phạm là 160 triệu đồng; vi phạm đánh giá tác động môi trường và các yêu cầu trong Quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; không báo cáo kết quả giám sát chất thải định kỳ (một năm một lần trước ngày 31 tháng 01 hàng năm) cho cơ quan đã phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường thuộc thẩm quyền phê duyệt của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định. Nâng tổng số vụ vi phạm về lĩnh vực môi trường trong 9 tháng năm 2021 là 37 vụ; tổng số tiền xử phạt gần 762 triệu đồng.