Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang tháng 8 năm 2021
- 18/06/2024 16:08
Tình hình dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh diễn biến phức tạp ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của nhân dân. Được sự quan tâm lãnh - chỉ đạo kịp thời của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế, Lãnh đạo tỉnh đã tập trung chỉ đạo, đề ra các giải pháp kịp thời giảm tác động của dịch bệnh Covid-19, vượt qua khó khăn, thách thức; đồng thời đề ra các giải pháp để tận dụng thời cơ thuận lợi sớm phục hồi, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Kết quả thực hiện trên các lĩnh vực như sau: I. SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN 1. Nông nghiệp Cây lương thực có hạt: Trong tháng diện tích gieo trồng trên địa bàn tỉnh đạt 254 ha, sản lượng thu hoạch đạt 63.470 tấn. Ước tính 8 tháng năm 2021, diện tích gieo trồng đạt 128.526 ha, đạt 96% so với kế hoạch, giảm 5,9% so cùng kỳ năm 2020; sản lượng lương thực có hạt đạt 589.529 tấn, đạt 73,4%, tăng 11,4%, trong đó cây lúa gieo sạ đạt 126.375 ha, diện tích thu hoạch đạt 88.375 ha, tăng 9,3% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch đạt 582.421 tấn, tăng 12,2% so cùng kỳ. - Cây lúa: Vụ Hè Thu (Xuân Hè + Hè Thu chính vụ), tổng diện tích gieo trồng chính thức đạt 74.728 ha, đạt 97,5% kế hoạch, giảm 1,5% so cùng kỳ năm trước; diên tích thu hoạch đạt 36.728 ha, đạt 47,9% kế hoạch, tăng 51,9% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch đạt 215.232 tấn, đạt 50,5% kế hoạch, tăng 48,4% so cùng kỳ. Nguyên nhân: Vụ Hè Thu gieo trồng sớm hơn cùng kỳ năm 2020, nên diện tích thu hoạch tăng. - Cây ngô: Trong tháng gieo trồng 254 ha, thu hoạch 266 ha, sản lượng thu hoạch đạt 953 tấn. Ước tính 8 tháng năm 2021, diện tích gieo trồng 2.151 đạt 61,5% kế hoạch, giảm 32,7% so cùng kỳ năm 2020; diện tích thu hoạch 1.991 ha, đạt 56,9%, giảm 31%; sản lượng thu hoạch 7.108 tấn, đạt 56%, giảm 30,9%, năng suất đạt 35,7 tạ/ha, đạt 98,4% kế hoạch, tăng 1,7% so cùng kỳ. Cây rau đậu các loại: Trong tháng gieo trồng đạt 4.515 ha, diện tích thu hoạch đạt 3.432 ha, sản lượng thu hoạch đạt 65.474 tấn. Ước tính 8 tháng năm 2021, diện tích gieo trồng trên địa bàn đạt 51.761 ha, đạt 82,9% kế hoạch, tăng 6,6% so cùng kỳ năm 2020; diện tích thu hoạch đạt 42.529 ha, đạt 68,1%, tăng 0,9%; sản lượng thu hoạch đạt 839.078 tấn, đạt 69,4%, tăng 3%; năng suất đạt 197,3 tạ/ha, đạt 101,9% kế hoạch, tăng 0,1% so cùng kỳ. Chăn nuôi: Trước diễn biến tình hình phức tạp của dịch bệnh Covid-19, từ ngày 12/7/2021 toàn tỉnh Tiền Giang đã thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ (huyện Tân Phú Đông từ ngày 19/7/2021). Dịch vụ vận tải hàng hóa bị hạn chế hoạt động, vì vậy ảnh hưởng tiêu cực đến việc tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi. Kết quả ước tính thời điểm 01/07/2021: đàn bò đạt 120,8 ngàn con, tăng 2,4% so với cùng kỳ; đàn lợn đạt 276,8 ngàn con, tăng 11,9%; đàn gia cầm đạt 16,9 triệu con, tăng 1,2% so cùng kỳ. 2. Lâm nghiệp Trong tháng Tám, tổng diện tích rừng hiện có trên địa bàn tỉnh là 1.925,1 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng), bao gồm rừng phòng hộ đạt 1.337,4 ha; rừng sản xuất đạt 587,8 ha; thực hiện trồng mới 460,1 ngàn cây phân tán. Tnh chung cho 8 tháng năm 2021 tổng số cây phân tán đạt 819,6 ngàn cây các loại, giảm 57,9% so cùng kỳ. 3. Thủy hải sản Sản lượng thủy sản tháng Tám ước tính đạt 28.643 tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2020, bao gồm: cá 23.406 tấn, tăng 4,1%; tôm 1.241 tấn, giảm 3,8%; thủy sản khác 3.996 tấn, giảm 4,7%. Cụ thể như sau: Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 10.745 tấn, giảm 9,5% so cùng kỳ năm 2020, trong đó cá 9.567 tấn, giảm 8,1%; tôm 875 tấn, giảm 5,3%; thủy sản khác 303 tấn, giảm 44,1%. Thời gian gần đây, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, nhiều thương lái chuyên thu mua cá bè tạm ngưng hoạt động do các chợ đầu mối ở TP.HCM và các cảng cá, chợ cá, chợ truyền thống tại tỉnh Tiền Giang bị đóng cửa. Trong khi đó, nhiều lồng bè cá của người dân ở tỉnh Tiền Giang đã tới giai đoạn thu hoạch, người nuôi cá bè điêu đứng. Việc tồn đọng cá bè chưa thể thu hoạch được gây khó khăn cho người dân, nhất là nợ vay của ngân hàng đến thời điểm phải hoàn vốn. Ngoài ra, giá thức ăn ở mức cao làm chi phí đầu tư tăng, khi kéo dài thời gian thu hoạch tỉ lệ cá hao hụt lớn, cá quá lứa sẽ rất khó tiêu thụ. Chỉ riêng tại cồn Tân Long và cồn Thới Sơn, thành phố Mỹ Tho hiện nay, có hàng trăm tấn cá bè cần thu hoạch để ngư dân giảm bớt khó khăn. Sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 17.898 tấn, tăng 11,3% so cùng kỳ năm 2020, trong đó cá 13.839 tấn, tăng 14,7%; tôm 366 tấn, tăng 0,2%; thủy sản khác 3.693 tấn, tăng 1,1%. Tính chung 8 tháng năm 2021, sản lượng thủy sản ước tính đạt 210.622 tấn, giảm 3,3% so cùng kỳ năm 2020, bao gồm cá 146.797 tấn, giảm 6,2%; tôm 24.665 tấn, tăng 2%; thủy sản khác 39.160 tấn, tăng 5,3%. II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP Sản xuất công nghiệp giảm mạnh so cùng kỳ do ảnh hưởng dịch Covid-19. Toàn tỉnh có 72/186 doanh nghiệp đang áp dụng phương án “3 tại chỗ”, tuy nhiên việc thực hiện chưa đạt yêu cầu, vì nhiều doanh nghiệp không thực hiện đúng cam kết, còn chủ quan, thiếu kiểm tra, kiểm soát để xảy ra các ổ dịch lớn trong doanh nghiệp. Một số ngành sản xuất giảm như: sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm, thủy sản….Ngoài ra thị trường tiêu thu trong nước và xuất khẩu còn nhiều khó khăn với lượng đặt hàng mới không nhiều, lượng hàng tồn kho cao cùng, giá xuất khẩu thấp,... Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8/2021 giảm 43,2% so với tháng trước, chỉ số sản xuất công nghiệp giảm sâu do thực hiện phương án ba tại chỗ để phòng chống dịch Covid-19; (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 47,37%, sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 3,24%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 4,73%)và giảm 27,05% so cùng kỳ. Các ngành chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh có chỉ số giảm so cùng kỳ, như: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 23,6%, sản xuất kim loại giảm 30%, sản xuất thiết bị điện giảm 75%... (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 30,5%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 0,2%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,9%). Chỉ số sản xuất công nghiệp 8 tháng đầu năm 2021 giảm 0,47% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,69%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 4,2%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 2,9%. Chỉ số sản xuất sản phẩm trong 8 tháng so cùng kỳ như sau: - Có 13/42 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Bộ com lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 53%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo tăng 38,3%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 36,5%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng bột/cốm tăng 21,4%; Dịch vụ thu gom rác thải không độc hại có thể tái chế tăng 4,9%; Điện thương phẩm tăng 4,2%;…. - Có 29/42 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Đồ chơi hình con vật hoặc sinh vật không phải hình người giảm 48,3%; Dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu, thuyền giảm 41,5%; Dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 30%; Giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài giảm 23,3%; Phi lê đông lạnh giảm 23,1%; Các bộ phận của bi, bánh răng, hộp số, các bộ phận điều khiển và truyền chuyển động khác giảm 23%; Áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc giảm 17,8%; Phân vi sinh giảm 15,8%; Cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép giảm 13,7%; Bao và túi (kể cả loại hình nón) từ plastic khác giảm 13,3%; Thức ăn cho thủy sản giảm 12,8%; … Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 8/2021 so với tháng trước giảm 5,74%, trong đó doanh nghiệp nhà nước giảm 0,75%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 16,42%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 2,55%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 8/2021 so với cùng kỳ giảm 7,45%, trong đó doanh nghiệp nhà nước giảm 2,06%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 4,02%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 8,54%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 8 năm 2021 giảm 8,54%, trong đó doanh nghiệp nhà nước giảm 1,55%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 5,13%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 9,72%. Chia theo ngành công nghiệp: Công nghiệp chế biến chế tạo giảm 8,72%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 0,32%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải giảm 2,73%. * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: - Chỉ số tiêu thụ tháng 8/2021 so với tháng trước giảm 48,2% và giảm 52,02% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 8 năm 2021 giảm 12,95%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ là: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 20,51%, trong đó chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản giảm 35,13%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 20,84%; Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 19,04%; Sản xuất sản phẩm cao su và plastic giảm 18,09%; Sản xuất kim loại giảm 15,86%;… Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng hơn so cùng kỳ: Sản xuất đồ uống tăng 9,51%, trong đó sản xuất bia tăng 9,51%; Dệt tăng 2,25%, trong đó sản xuất hàng may sẳn tăng 43,05%; Sản xuất trang phục tăng 1,71%; Sản xuất da tăng 5,14%, trong đó sản xuất va li, túi xách tăng 20,3%; Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 15,83%; Sản xuất thiết bị điện tăng 1,67%, trong đó sản xuất mô tơ tăng 15,53%; - Chỉ số tồn kho tháng 8/2021 so với tháng trước giảm 0,46% và so với cùng kỳ tăng 6,42%. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ là: Sản xuất trang phục giảm 4,69%; Chế biến gỗ giảm 37,98%; Chế biến, chế tạo khác giảm 49,31%, trong đó sản xuất đồ chơi, trò chơi giảm 49,3%;… Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 26,64%, trong đó sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 58,74%; Sản xuất đồ uống tăng 17,29%, trong đó sản xuất bia tăng 17,29%; Dệt tăng 6,56%, trong đó sản xuất hàng may sẳn tăng 34,66%;… * Tình hình thu hút đầu tư và phát triển các khu - cụm công nghiệp: - Khu công nghiệp: đến nay tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương quy hoạch 7 khu công nghiệp với tổng diện tích 2.083,5 ha; trong đó có 4 khu công nghiệp đi vào hoạt động. Trong tháng, Ban Quản lý các khu công nghiệp không cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới. Điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư cho 15 dự án tại các khu, cụm công nghiệp; trong đó có 05 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn, tổng vốn đầu tư tăng thêm là 178,9 USD. Đến cuối tháng 8/2021, tổng số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp là 107 dự án, trong đó: có 78 dự án đầu tư nước ngoài; tổng vốn đầu tư là 2,5 tỷ USD và 4.575,86 tỷ đồng; diện tích đất thuê là 571,09 ha/770,14 ha chiếm tỷ lệ 74,13% diện tích đất công nghiệp cho thuê. - Cụm công nghiệp: trên địa bàn tỉnh có 27 cụm công nghiệp được quy hoạch; trong đó có 8 cụm công nghiệp đang hoạt động. Trong tháng không thu hút dự án đầu tư mới. Tổng số dự án đầu tư tại các cụm công nghiệp hiện nay là 79 dự án (trong đó: có 06 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư là 0,2 tỷ USD và 2.306,2 tỷ đồng, diện tích thuê đất là 89,78 ha/120,56 ha, đạt 74,47% diện tích đất công nghiệp cho thuê. III. ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện trong tháng là 245 tỷ đồng, giảm 61,7% so cùng kỳ. Tám tháng đầu năm 2021 thực hiện 1.971 tỷ đồng, đạt 53,8% kế hoạch, giảm 27,4% so cùng kỳ. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý giảm do các ngành các cấp tập trung cho công tác phòng, chống dịch Covid-19, tuy nhiên để đảm bảo các nhiệm vụ phát triển kinh tế, UBND tỉnh thường xuyên kiểm tra giám sát nhằm tháo gỡ khó khăn tạo điều kiện thuận lơi đẩy mạnh đầu tư công. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh thực hiện 1.499 tỷ đồng, đạt 50,4% kế hoạch, giảm 25,9% so cùng kỳ, chiếm 76% tổng số; trong đó: vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 281 tỷ đồng, giảm 27,1%, vốn xổ số kiến thiết thực hiện 782 tỷ đồng, giảm 15,6% so cùng kỳ... Các ngành các cấp yêu cầu các ban quản lý chủ đầu tư tập trung điều kiện đẩy nhanh tiến độ, đồng thời thực hiện các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 để không ảnh hưởng đến tiến độ thi công. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện 353 tỷ đồng, đạt 90,1% kế hoạch, giảm 30,9% so cùng kỳ, chiếm 18% tổng số; trong đó: vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 178 tỷ đồng, giảm 24,4% so cùng kỳ... Các Ban quản lý dự án cấp huyện tập trung điều kiện đẩy nhanh công tác bồi thường, tiến độ thi công, hỗ trợ tái định cư cho hộ dân một số công trình, dự án đang triển khai trên địa bàn huyện. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp xã thực hiện 120 tỷ đồng, đạt 39,5% kế hoạch, giảm 33,1% so cùng kỳ, chiếm 6% tổng số; trong đó: vốn huyện hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 82 tỷ đồng,giảm 35,4% so cùng kỳ... Các xã tập trung điều kiện đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình xây dựng nông thôn mới năm 2021 nhằm phục vụ đi lại và vận chuyển hàng hóa của người dân đồng thời hoàn thành tiêu chí để ra mắt xã nông thôn mới. IV. THƯƠNG MẠI - GIÁ CẢ - DỊCH VỤ 1. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng: Toàn tỉnh Tiền Giang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ, các biện pháp tăng cường kiểm tra tình hình dịch bệnh được các ngành các cấp áp dụng chặt chẽ và nghiêm ngặt. Nhìn chung tình hình thị trường lưu chuyển hàng hóa trong tháng tương đối lắng đọng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong thời gian phòng chống dịch. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong tháng thực hiện 3.822 tỷ đồng, giảm 3,2% so tháng trước và giảm 35,5% so cùng kỳ. Cụ thể các nhóm hàng có tỉ trọng cao giảm như: Lương thực thực phẩm giảm 3,51%, đồ dùng gia đình giảm 2,83%, gỗ và vật liệu xây dựng giảm 15,42%, phân bón và thuốc trừ sâu giảm 9,93%, xăng dầu giảm 0,86%, hàng hóa khác giảm 1,14%... Tám tháng đầu năm 2021, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thực hiện 40.471 tỷ đồng, đạt 57,6% kế hoạch, tăng 1,2% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 34.103 tỷ đồng, tăng 5,1%; lưu trú 16 tỷ đồng, giảm 55,9%; ăn uống 2.635 tỷ đồng, giảm 26,7%; du lịch lữ hành 6 tỷ đồng, giảm 76,8%; dịch vụ tiêu dùng khác 3.711 tỷ đồng, giảm 4,7% so cùng kỳ. Tình hình xúc tiến thương mại trên địa bàn tỉnh, đã tổ chức các hoạt động như: Tổ chức điểm bán hàng hóa thiết yếu phục vụ người dân trong thời gian cách ly (theo tinh thần Chỉ thị 16/CT-TTg) tại xã Phước Trung, huyện Gò Công Đông (2 đợt) và xã Phú Tân, huyện Tân Phú Đông. Riêng trên địa bàn xã Thạnh Mỹ huyện Tân Phước do tình hình dịch bệnh, hỗ trợ cung cấp hàng hóa (theo nhu cầu đăng ký của người dân) cho Ủy ban nhân dân xã Thạnh Mỹ và Phòng Kinh tế và Hạ tầng huyện Tân Phước phân phối đến người dân, đồng thời thu và thanh toán tiền hàng trực tiếp với đơn vị cung ứng. Nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân tiêu thụ nông sản của tỉnh, các ngành liên quan đã giới thiệu và được các đơn vị thu mua ở thành phố Hồ Chí Minh tiêu thụ (vận chuyển bằng tàu cao tốc) khoảng 50 tấn gồm dưa hấu, thanh long, dưa lưới, khóm và rau củ các loại. Tình hình hoạt động các chợ và trung tâm thương mại: Theo số liệu của Sở Công thương tỉnh tính đến ngày 11/8/2021 tình hình các chợ, siêu thị, cửa hàng tạm ngưng hoạt động trên địa bàn tỉnh là: 53/175 chợ, 13/79 cửa hàng Bách hóa Xanh, Co.op Mart Gò Công, 17/640 cửa hàng bán lẻ xăng dầu, 6/6 cửa hàng bán lẻ của Hợp tác xã Thương mại dịch vụ Phường 1, thành phố Mỹ Tho. 2. Xuất - Nhập khẩu: a. Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng thực hiện 226 triệu USD; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 33 triệu USD, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 192 triệu USD. Tám tháng xuất khẩu 2.199 triệu USD, đạt 67,7% kế hoạch, tăng 14,4% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 28 triệu USD, tăng 3,1%; kinh tế ngoài nhà nước 334 triệu USD, giảm 18,6%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.836 triệu USD,tăng 23,7% so cùng kỳ. Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của tỉnh như sau: - Thủy sản: ước tính tháng 8/2021 xuất 4.401 tấn, về trị giá đạt 7 triệu USD. Tám tháng xuất 56.815 tấn, giảm 23,2%; về trị giá đạt 121 triệu USD, giảm 32% so cùng kỳ.Theo Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, các thị trường chính của Việt Nam đã có những sự hồi phục trong thời gian vừa qua. Mỹ, EU hay Nhật Bản đều không còn chịu quá nhiều sự tác động từ dịch bệnh Covid-19 do đó nhu cầu tiêu thụ tại các thị trường này tăng lên. Tuy nhiên. trong thời gian qua, hoạt động sản xuất của nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh nói chung và trong ngành thủy sản nói riêng gặp khó khăn do thực hiện theo chỉ thị 16/TTg và phương án “3 tại chỗ”. - Gạo: ước tính tháng 8/2021 xuất 7.688 tấn, về giá trị đạt 5 triệu USD. Tám tháng xuất 120.570 tấn, giảm 27,7%, về trị giá đạt 67 triệu USD, giảm 22,5% so cùng kỳ.Sau một thời gian dài duy trì ở mức cách biệt khá lớn, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam hiện đã giảm sâu và được đưa về tiệm cận với mức giá của các đối thủ cạnh tranh, nhất là với Thái Lan. Theo Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA), trong vòng khoảng hơn 5 tháng qua (từ giữa tháng 2-2021 đến nay), giá gạo xuất khẩu loại 5% tấm của Việt Nam đã “rớt” trên 110 USD/tấn, đây là mức giá giảm mạnh nhất nếu so với các đối thủ cạnh tranh trong mối tương quan cùng chủng loại và thời gian. Theo đó, thời điểm giữa tháng 5-2021, gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán với giá 513 - 517 USD/tấn, thì cũng phân khúc này được Ấn Độ chào bán với 398 - 402 USD/tấn và của Pakistan là 448 - 452 USD/tấn, trong khi đó, mức giá chào bán của Thái Lan là 480 - 484 USD/tấn. Ở thời điểm hiện tại, gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán với giá 400 - 404 USD/tấn, trong khi của Ấn Độ và Pakistan chào bán cùng mức giá là 383 - 387 USD/tấn và của Thái Lan là 390 - 394 USD/tấn. Như vậy, sau khoảng 5 tháng, giá chào xuất khẩu gạo của Việt Nam đối với chủng loại 5% tấm đã giảm 113 USD/tấn, trong khi đó, giá chào của Ấn Độ giảm 15 USD/tấn, của Pakistan giảm 65 USD/tấn và của Thái Lan giảm 90 USD/tấn. Rõ ràng, khi so sánh với các đối thủ cạnh tranh trong cùng phân khúc và khoảng thời gian, thì gạo Việt Nam có mức giá giảm mạnh nhất. Giá lúa gạo tại đồng bằng sông Cửu Long nhìn chung đang thấp hơn so với cùng kỳ năm trước khoảng 500 - 1.000 đồng/kg. Theo Bộ Công Thương, giá lúa gạo tại đồng bằng sông Cửu Long trong tuần từ 2/8 đến ngày 6/8 ổn định vào đầu tuần; giữa tuần giá lúa giảm từ 50 - 300 đồng kg sau đó cuối tuần tăng nhẹ. Cụ thể, giá lúa IR50404 dao động trong khoảng 4.400 đồng/kg, giảm so với cùng kỳ năm trước từ 900-1.300 đồng/kg; lúa OM9577 và OM9582 trong khoảng 5.600-5.800 đồng/kg, thấp hơn 1.000 đồng/kg. Khó khăn mà doanh nghiệp đang gặp phải là không đủ khả năng duy trì hoạt động sản xuất theo “3 tại chỗ” do tỷ lệ tiêm vacine còn hạn chế; nhiều các cơ sở sấy và xay sát lúa cũng phải dừng hoạt động do không đáp ứng việc test nhanh COVID-19. Ngoài ra, lượng hàng còn tồn kho trong doanh nghiệp cũng ảnh hưởng lớn đến tổ chức ký kết mới các hợp đồng thu mua lúa gạo cho nông dân do chưa mua cho hợp đồng xuất khâu mới. Tình hình bốc xếp, vận chuyển, lưu thông hàng hóa, từ ngoài đồng, đến nhà máy, đến giao ra cảng và lên tàu cho khách hàng, gặp nhiều khó khăn. Thực tế hiện nay, nhiều tỉnh áp dụng giãn cách rất chặt nên việc lưu thông ngay nội địa cũng phức tạp hơn. Hiện nay, giá lúa đang giảm, để tránh xảy ra tình trạng giá lúa giảm sâu, tồn động trong dân, ngành Nông nghiệp và địa phương đã và đang kết nối với thương lái, doanh nghiệp để tổ chức thu mua lúa cho người dân... - Hàng dệt, may: ước tính tháng 8/2021 xuất 4.682 ngàn sản phẩm, về giá trị xuất đạt 43,4 triệu USD. Tám tháng kim ngạch xuất khẩu đạt 345,5 triệu USD, giảm 7,1% so cùng kỳ. Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, khả năng nếu dịch bệnh còn tiếp tục thì hàng dệt, may của chúng ta không còn có khả năng để giữ khách hàng tại Việt Nam, nhãn hàng tại thị trường Việt Nam không ổn định, họ sẽ chuyển đi nơi khác sẽ gây ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh trung hạn, đặt ra thách thức cực kỳ lớn cho ngành. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp cũng đối mặt với thách thức lớn khi người lao động ở các địa phương về quê tránh dịch rồi tìm được việc làm phù hợp, khi doanh nghiệp sản xuất trở lại thì người lao động quay lại thì dự kiến số lao động chỉ đạt được 70 - 75%, nên nguy cơ thiếu nguồn lực là một thách thức trong tháng 9-2021 và quý 4 năm nay. Ngoài các mặt hàng chủ yếu, trị giá xuất khẩu một số mặt hàng trong 8 tháng năm 2021có giá trị xuất khẩu tăng cao như: Sắt thép 52 triệu USD tăng 82,4%; Sản phẩm mây, tre, cói, thảm xuất 7 triệu USD, tăng 30,4%; Sản phẩm từ chất dẻo 211 triệu USD, tăng 57,1%; Giày dép các loại 372 triệu USD, tăng 27,9%; Kim loại thường và SP (kể cả đồng) 555 triệu USD, tăng 38,1% ... so cùng kỳ. b. Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng 8/2021 đạt 127 triệu USD, chủ yếu ở thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tám tháng, kim ngạch nhập khẩu 1.261 triệu USD, đạt 70,1% kế hoạch, tăng 25,6% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước nhập 77,9 triệu USD, tăng 13,4%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập 1.182,9 triệu USD, tăng 26,5% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu 8 tháng chủ yếu các mặt hàng như: Chất dẻo (plastic) nguyên liệu tăng 71,1%; Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 235 triệu USD, tăng 59,1%; Kim loại thường khác 503 triệu USD, tăng 29,7%... so cùng kỳ. 3. Chỉ số giá tháng 7: Trên địa bàn tỉnh Tiền Giang tình hình dịch Covid- 19 diễn biến phức tạp, toàn tỉnh Tiền Giang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ từ ngày 12/7/2021 cho đến nay, từ ngày 18/8 thành phố Mỹ Tho cách ly và phong tỏa 10 ngày, cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ không thiết yếu tạm dừng hoạt động để phục vụ công tác phòng, chống dịch. Ngoài các điểm chợ truyền thống bị phong tỏa phục vụ công tác phòng, chống dịch, thì các siêu thị, cửa hàng tiện ích, bách hóa xanh trên địa bàn của tỉnh vẫn còn hoạt động bình thường, nhưng sức mua hàng hóa của người dân trong tháng giảm hơn so với tháng trước. Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ nhằm giảm bớt khó khăn cho người dân tác động chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8/2021 giảm 0,42% so tháng 7/2021 (thành thị giảm 0,21%, nông thôn giảm 0,47%); so cùng kỳ tăng 3,48%. Bình quân tám tháng đầu năm 2021, CPI tăng 2,83% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng 7/2021, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 5 nhóm giảm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,16%; Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,02%; Giao thông giảm 0,2%; Bưu chính viễn thông giảm 0,12% và Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,13%. Có 04 nhóm tăng: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,02%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,08%; Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%; Hàng hóa dịch vụ khác tăng 0,15%. Có 2 nhóm: đồ uống, thuốc lá và Giáo dục chỉ số giá ổn định. Một số mặt hàng có chỉ số giá tiêu dùng tháng 8/2021 giảm so tháng 7/2021: - Giá thịt lợn giảm 5,68% do bệnh dịch tả Lợn Châu Phi tại địa phương được kiểm soát tốt, tổng đàn đang dần phục hồi trở lại; mặc khác do thực hiện nghiêm giãn cách xã hội, sức mua giảm, dẫn đến giá giảm. Cùng với đó, giá thịt bò giảm 0,32%, nội tạng động vật giảm 4,8%, mỡ lợn giảm 8,28%. - Giá thịt gia cầm giảm 4,72%, hiện nay đang vào giai đoạn gia cầm xuất chuồng, sản lượng thịt hơi dồi dào, trong khi đó khâu lưu thông tiêu thụ bị hạn chế vì thực hiện giãn cách xã hội, dẫn đến sức mua giảm. Cùng với đó giá rau tươi, khô và chế biến giảm 0,34%, quả tươi khô và chế biến giảm 15,97%. - Giá điện giảm 1,33%, nước sinh hoạt giảm 0,17%, do thực hiện chỉ đạo của Thủ trướng Chính phủ hỗ trợ giảm giá điện, nước sinh hoạt cho các khách hàng sử dụng bị ảnh hưởng của dịch Covid-19; mặc khác, tại Tiền Giang thời tiết mưa nhiều, người dân sử dụng điện, nước sinh hoạt giảm. - Giá xăng dầu giảm 0,4% so với tháng trước là do nhà nước giảm giá (ngày 11/8/2021) để hỗ trợ chia sẻ với người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh và hỗ trợ các lực lượng trên các tuyến phòng chống dịch. Bên cạnh đó, một số mặt hàng có chỉ số giá tăng như: - Giá lương thực tăng 0,4%, trong đó giá gạo tẻ tăng 0,32%, giá lương thực chế biến như: bánh mì, mì tôm, miếng, bột ngũ cốc ăn liền…tăng 2,07%. Ngoài ra người dân lo sợ dịch kéo dài hàng hóa khan hiếm, giãn cách xã hội còn tiếp tục nên thu mua hàng hoá tích trữ để dành tiêu dùng, dẫn đến giá bán lẻ tăng nhẹ. Cùng với đó, giá thịt chế biến (thịt quay, giò, chả, thịt hộp) tăng 0,56%; trứng gia cầm các loại tăng 7,04%, cá khô và chế biến tăng 4,87%. - Giá gas tăng 3,39% (tăng 12.000 đồng/bình 12kg) vào ngày 01/8/2021, tác động đến nhóm gas và các loại chất đốt khác tăng 3,12% so tháng trước. Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 8/2021 giảm 0,23% so tháng trước, giá bình quân tháng 8/2021 là 5.181 ngàn đồng/chỉ, giảm 336 ngàn đồng/chỉ so cùng kỳ. Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 8/2021 giảm 0,42% so tháng trước, giá bình quân 23.013 đồng/USD, giảm 257 đồng/USD so cùng kỳ. Ước chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2021 tăng từ 0,05% đến 0,15% so tháng 8/2021 do Giá gạo tiếp tục tăng (nhu cầu xuất khẩu cuối năm tăng, mặc khác do dịch bệnh kéo dài người dân mua gạo tích trữ); Nhóm hàng giáo dục như sách, vở giá sẽ tăng nhẹ (các cấp học chuẩn bị bước vào năm học mới). 4. Du lịch: Trong tháng thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg trên phạm vi toàn tỉnh, nên hoạt động lưu trú ăn uống du lịch trên địa bàn tỉnh không phát sinh doanh thu. Tính chung tám tháng đầu năm 2021, lượt khách du lịch đến Tiền Giang là 239,3 ngàn lượt khách, đạt 21,8% kế hoạch và giảm 57,2% so cùng kỳ; trong đó: khách quốc tế 3,8 ngàn lượt khách, đạt 0,8% kế hoạch, giảm 96,1% so cùng kỳ. Tổng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác đạt 6.368 tỷ đồng, giảm 15,7% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ ăn uống chiếm tỷ trọng 41,6%, ước đạt 2.651 tỷ đồng, giảm 27%; lưu trú đạt 16 tỷ đồng, giảm 55,9% so cùng kỳ... 5. Vận tải: Sở Giao thông Vận tải tỉnh Tiền Giang ban hành các văn bản và triển khai hướng dẫn về tổ chức hoạt động vận tải trên địa bàn tỉnh trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 trên phương tiện như: Công văn số 1739/SGTVT-VTPTNL ngày 03/8/2021 yêu cầu các đơn vị vận tải thực hiện nghiêm công tác phòng, chống dịch Covid-19 đối với người trên phương tiện vận chuyển hàng hóa; Công văn số 1799/SGTVT-VTPTNL ngày 9/8/2021 về việc hướng dẫn hoạt động vận chuyển của doanh nghiệp bưu chính, vận tải hàng hóa thiết yếu của Công ty Cổ phần Dịch vụ giao hàng nhanh; Công văn 1788/SGTVT-VTPTNL ngày 8/8/2021 triển khai một số nội dung hướng dẫn nhằm tạo thuận lợi cho người và phương tiện tham gia vận chuyển hàng hóa phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản, thu hoạch, thu mua, vận chuyển tiêu thụ nông sản, thủy hải sản, cung ứng vật tư cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản trong điều kiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số16/CT-TTg. Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải trong tháng thực hiện 83 tỷ đồng, tăng 1,3% so tháng trước và giảm 48,4% so cùng kỳ. Tám tháng thực hiện 1.138 tỷ đồng, giảm 14,3% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 282 tỷ đồng, giảm 25,3%; doanh thu vận tải hàng hóa thực hiện 736 tỷ đồng, giảm 9,5% so cùng kỳ. Doanh thu vận tải đường bộ thực hiện 537 tỷ đồng, giảm 15,8%; doanh thu vận tải đường thủy thực hiện 480 tỷ đồng, giảm 13,1%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 121 tỷ đồng, giảm 12,1% so cùng kỳ. Vận tải hành khách trong tháng đạt 458 ngàn hành khách, giảm 18,4% so tháng trước; luân chuyển 2.238 ngàn hành khách.km, giảm 13,8% so tháng trước. Tám tháng, vận chuyển 16.610 ngàn hành khách, giảm 27,6% so cùng kỳ; luân chuyển 301.976 ngàn hành khách.km, giảm 23,8% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 7.785 ngàn hành khách, giảm 20,1% và luân chuyển 289.999 ngàn hành khách.km, giảm 23% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 8.825 ngàn hành khách, giảm 33,1% và luân chuyển 11.977 ngàn hành khách.km, giảm 38,9% so cùng kỳ. Vận tải hàng hóa trong tháng đạt 689 ngàn tấn, tăng 2,3% so tháng trước và giảm 24,5% so cùng kỳ; luân chuyển 96.763 ngàn tấn.km, tăng 2,5% so tháng trước và giảm 8,3% so cùng kỳ. Tám tháng, vận tải 7.036 ngàn tấn hàng hóa, giảm 7,7% so cùng kỳ; luân chuyển 907.918 ngàn tấn.km, giảm 8,3% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 1.665 ngàn tấn, tăng 0,3% và luân chuyển 176.241 ngàn tấn.km, giảm 13,3% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 5.371 ngàn tấn, giảm 9,9% và luân chuyển 731.677 ngàn tấn.km, giảm 7% so cùng kỳ. Doanh thu, sản lượng vận chuyển, luân chuyển hàng hoá và hành khách ước tính tháng 8/2021 so với tháng trước giảm, do ảnh hưởng đợt bùng phát đại dịch bệnh COVID-19 lần thứ 4 kéo dài, gây ảnh hưởng nặng nề đến tình hình sản xuất, kinh doanh của 19 tỉnh, thành phía Nam, trong đó có tỉnh Tiền Giang, dẫn đến kết quả hoạt động vận tải, kho bãi trong tháng giảm mạnh. * Công tác quản lý phương tiện giao thông: Trong tháng đăng ký mới 52 chiếc ô tô. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.350.328 chiếc, trong đó mô tô xe máy: 1.308.634 chiếc, xe ô tô 40.925 chiếc, xe ba bánh 152 chiếc, xe đạp điện 183 chiếc và 434 xe khác. 6. Bưu chính viễn thông: Doanh thu trong tháng 8/2021 đạt 273 tỷ đồng, tăng 1,3% so tháng trước và tăng 3,7% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt25 tỷ đồng, tăng 0,6% và viễn thông 249 tỷ đồng, tăng 1,4% so tháng trước. Tám tháng doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 2.124 tỷ đồng, tăng 5,1% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 188 tỷ đồng, tăng 13,8% và viễn thông 1.936 tỷ đồng, tăng 4,4% so cùng kỳ. Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 8/2021 là 98.182 thuê bao, mật độ bình quân đạt 5,6 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Thuê bao internet có trên mạng cuối tháng 8/2021 là 279.952 thuê bao, mật độ internet bình quân đạt 15,9 thuê bao/100 dân. Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa dẫn đến khách hàng dần chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 8 năm 2021 là 98.182 thuê bao. Thuê bao điện thoại bình quân đạt 5,57 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Số thuê bao điện thoại di động có sử dụng internet (3G, 4G) đến cuối tháng 7/2021 là 1.366.583 thuê bao. V.TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG 1. Tài chính: Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn trong tháng thực hiện 405 tỷ đồng; trong đó: thu nội địa 385 tỷ đồng. Tám tháng, thu 6.409 tỷ đồng, đạt 60,4% kế hoạch, giảm 6,4% so cùng kỳ; trong đó: thu nội địa thực hiện 6.122,4 tỷ đồng, đạt 59,2% dự toán và giảm 8,6% so cùng kỳ; (trong thu nội địa: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.027,7 tỷ đồng, đạt 58,8% dự toán, giảm 9,9% so cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 694,8 tỷ đồng, đạt 49,6% dự toán, giảm 10,7% so cùng kỳ...). Tổng chi ngân sách nhà nước trong tháng 935 tỷ đồng; trong đó: chi đầu tư phát triển 300 tỷ đồng. Tám tháng, chi 7.378 tỷ đồng, đạt 60,2% dự toán, giảm 38,8% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 2.076,8 tỷ đồng, đạt 56,1% dự toán, giảm 42,9% so cùng kỳ; chi hành chính sự nghiệp 3.627,6 tỷ đồng, đạt 52,8% dự toán và giảm 21,9% so cùng kỳ. 2. Ngân hàng: Các tổ chức tính dụng chấp hành nghiêm mức trần lãi suất theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh, đến cuối tháng 7/2021, lãi suất cho vay phổ biến ở mức trên 4,5% - 9%/năm đối với ngắn hạn và trên 11% -13%/năm đối với trung dài hạn. Đến cuối tháng 7/2021, vốn huy động đạt 77.225 tỷ đồng, tăng 1,85% so với cuối năm 2020, tăng bình quân 0,27%/tháng; tổng dư nợ toàn tỉnh đạt 70.499 tỷ đồng, tăng 9,64% so với cuối năm 2020, tăng bình quân 1,33%/tháng. Ước đến cuối tháng 8/2021, nguồn vốn huy động đạt 77.373 tỷ đồng, tăng 2,01%; tổng dư nợ đạt 70.520 tỷ đồng, tăng 9,67% so với cuối năm 2020. Nợ xấu: ước đến cuối tháng 8/2021, nợ xấu là 762 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,08%, giảm 0,02% so với cuối năm 2020, tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp, nằm trong sự kiểm soát, có chuyển biến tích cực theo chiều hướng giảm. VI. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Trong tháng, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành quyết định công nhận kết quả thực hiện 01 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh và gia hạn 01 nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở. - Ban hành quyết định phê duyệt danh mục nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp cơ sở triển khai năm 2021-2022. - Ban hành thông báo chuẩn bị hồ sơ đăng ký tham gia giao trực tiếp nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp cơ sở triển khai năm 2021 - 2022. Đến tháng 8/2021, thẩm định nội dung 13 nhiệm vụ ( 06 cấp tỉnh, 07 cấp cơ sở); nghiệm thu kết thúc 08 nhiệm vụ (07 cấp tỉnh , 01 cấp cơ sở); nghiệm thu giai đoạn 14 nhiệm vụ (07 cấp tỉnh, 07 cấp cơ sở); Quyết định triển khai 16 nhiệm vụ (09 cấp tỉnh, 07 cấp cơ sở); Quyết định công nhận 13 nhiệm vụ (10 cấp tỉnh, 03 cấp cơ sở); Gia hạn 05 nhiệm vụ KH&CN (03 cấp tỉnh, 02 cấp cơ sở). VII. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Lao động việc làm: Tình dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp và khó lường, Tiền Giang đã và đang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg, gần như toàn bộ các doanh nghiệp đã tạm dừng hoạt động hoặc tạm dừng hoạt động một số bộ phận, ảnh hưởng tiêu cực đến đại đa số người lao động trên địa bàn tỉnh. Trong tháng, tư vấn việc làm cho 510 lượt lao động, giảm 89,4% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó: tư vấn nghề cho 01 lượt lao động, tư vấn việc làm 01 lượt lao động, tư vấn việc làm cho 508 lượt lao động thất nghiệp; giới thiệu việc làm cho lao động không phát sinh, giảm 442 lượt lao động. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng: tư vấn cho 02 lao động có nguyện vọng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, giảm 97,2% so với cùng kỳ năm 2020, có 02 lao động đăng ký tham gia, tăng 50%; lao động xuất cảnh không phát sinh. Giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp: tiếp nhận được 508 người đăng ký thất nghiệp, giảm 81,7% so với cùng kỳ năm 2020, cơ quan chức năng đã ban hành 1.294 quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 53,1%, với tổng số tiền chi trả tương đương 23 tỷ đồng, giảm gần 25,2 tỷ đồng, tương đương giảm 52,2%; thực hiện tư vấn, giới thiệu việc làm và tư vấn học nghề cho 432 lượt lao động thất nghiệp. Ngoài ra, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành 05 quyết định phê duyệt danh sách và kinh phí hỗ trợ cho 237 người lao động không có giao kết hợp đồng lao động (lao động tự do) bị mất việc làm của huyện Gò Công Tây với tổng số tiền gần 356 triệu đồng (mức hỗ trợ 1.500.000 đồng/người); 3.634 người bán lẻ xổ số lưu động của huyện Gò Công Tây (1.270 người), Chợ Gạo (1.467 người) và thị xã Cai Lậy (897 người) với tổng số tiền 5.451 triệu đồng (mức hỗ trợ 1.500.000 đồng/người). Riêng Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã tiếp nhận hồ sơ và đang phối hợp, đề nghị các ngành liên quan xem xét, có ý kiến hỗ trợ 16 người lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động của 01 doanh nghiệp với tổng số tiền đề nghị hỗ trợ gần 64,4 triệu đồng (mức hỗ trợ 3.710.000 đồng/người, và có 05 người được hỗ trợ thêm nuôi con nhỏ chưa đủ 6 tuổi là 1.000.000 đồng/bé). 2. Chính sách xã hội: Trong tháng, quỹ đền ơn đáp nghĩa vận động được gần 288,7 triệu đồng, lũy kế từ đầu năm vận động được 4,3 tỷ đồng đạt 43%, giảm 30% so với cùng kỳ năm 2020, xây dựng 05 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 200 triệu đồng đạt 12% kế hoạch năm, lũy kế từ đầu năm xây dựng được 20 căn nhà tình nghĩa với tổng số tiền 800 triệu đồng đạt 16% kế hoạch năm, giảm 55% so với cùng kỳ năm 2020; sửa chữa 20 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 400 triệu đồng, lũy kế từ đầu năm xây dựng 36 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 720 triệu đồng đạt 72% kế hoạch năm, giảm 22% so với cùng kỳ năm 2020. Ngoài ra, cơ quan chức năng đã tặng quà và trợ cấp cho gia đình chính sách nhân kỷ niệm 74 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7, bao gồm quà của Chủ tịch Nước 36.531 người với số tiền hơn 11,1 tỷ đồng; trợ cấp của địa phương 51.938 người, với số tiền gần 8,3 tỷ đồng. 3. Hoạt động y tế: Theo báo cáo Sở Y tế, tính đến ngày 15/8/2021 toàn tỉnh có 149 ổ dịch với tổng số 5.955 bệnh nhân, 3.326 F1, 5.642 F2 (trong đó có 3.241 bệnh nhân được Bộ Y tế công bố mã số, các bệnh nhân còn lại đang chờ Bộ Y tế cấp mã số); điều trị khỏi 2.698 bệnh nhân; đã tử vong 141 bệnh nhân. Trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19, Tiền Giang tiếp tục thực hiện cách ly toàn xã hội toàn tỉnh theo Chỉ thị 16/CT-TTg trong tháng 8 và phong tỏa Thành phố Mỹ Tho với 3 khu vực dự kiến trong vòng 10 ngày, khu vực I gồm Phường 2, Phường 3, Phường 8, Ấp Mỹ An – xã Mỹ Phong với 10.378 hộ, 34.550 nhân khẩu, kể từ 0h ngày 18/08/2021; khu vực II gồm Phường 1, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7 với 17.922 hộ, 72.697 nhân khẩu, kể từ 0h ngày 19/08/2021; khu vực III gồm các địa bàn còn lại với các khu nguy cơ rất cao hoặc xuất hiện F0 qua tầm soát, kể từ 0h ngày 20/08/2021. Thành lập 06 Bệnh viện Dã chiến để điều trị bệnh nhân Covid-19 (12 cơ sở) quy mô 2.760 giường, khả năng mở rộng tối đa đến 3.150 giường. Đang triển khai Bệnh viện dã chiến số 07 (Trường Đại học Tiền Giang) với quy mô 3.000 giường để điều trị bệnh nhân nhiễm Covid-19 không triệu chứng, không bệnh nền. Để điều trị các bệnh nhân COVID-19 nặng, nguy kịch, tỉnh đã triển khai Trung tâm Hồi sức (ICU) COVID-19 quy mô 60 giường (khả năng mở rộng đến 100 giường). Tại các Bệnh viện tuyến tỉnh (03 bệnh viện) có 60 giường điều trị bệnh nhân COVID-19 (mỗi đơn vị 20 giường); 11 Trung tâm Y tế (13 cơ sở) có 130 giường điều trị bệnh nhân COVID-19 (mỗi đơn vị 10 giường), chủ yếu thu dung điều trị các trường hợp không triệu chứng, nhẹ, trung bình để giảm tải cho các Bệnh viện Dã chiến. Tiêm ngừa vắc xin COVID-19: Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang đã ban hành Kế hoạch Tiêm vaccine phòng COVID-19 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2021-2022: ước tính số lượng vaccine cần cho giai đoạn 2021-2022 là 1.371.674 liều; từ tháng 04 /2021 đến tháng 7/2021, tỉnh đã nhận 04 đợt phân bố vaccine phòng COVID-19 từ Bộ Y tế (loại AstraZeneca) với 83.220 liều, đã tổ chức tiêm đạt 99,1%; số lượng vaccine nhận từ đầu tháng 8/2021: 166.410 liều, số người đã được tiêm vaccine đến 12/8/2021: 77.679 người, tỷ lệ 46,7%; theo Công văn số 5946/BYT-DP ngày 24/7/2021 của Bộ Y tế, từ tháng 8/2021 đến tháng 12/2021 số vaccine phòng COVID-19 dự kiến phân bố cho Tiền Giang là 2.219.628 liều. Cũng trong tháng Tám, có 07/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận. So với cộng dồn cùng kỳ năm trước có 04 bệnh tăng (tay chân miệng, viêm gan siêu vi B, viêm não do vi rút, Covid-19); 13 bệnh giảm (liên cầu lợn ở người, ho gà, lao phổi, lỵ a míp, quai bị, sởi, sốt xuất huyết, thương hàn, thủy đậu, tiêu chảy, uốn ván khác, viêm gan siêu vi A, viêm gan siêu vi C); 27 bệnh tương đương và hoặc không xảy ra ca mắc; Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết trong tháng ghi nhận 159 ca mắc SXHD, từ đầu năm đến nay ghi nhận 1.658 ca, giảm 1,7% so với cùng kỳ, Không ghi nhận ca tử vong do SXHD; Phòng chống HIV/AIDS: Tính đến thời điểm hiện tại toàn tỉnh có 5.935 người nhiễm HIV; 1.805 người chuyển sang AIDS; tử vong do AIDS: 997 người; Tình hình khám chữa bệnh tại các tuyến do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 một số cơ sở tạm ngưng tiếp nhận bệnh nhân do chuyển đổi công năng để tập trung điều trị bệnh nhân Covid-19 cũng như phải cách ly phong tỏa để phòng chống dịch bệnh ảnh hưởng đến công tác khám, chữa bệnh trên địa bàn, số lượng bệnh đến khám bệnh đều giảm nhiều giảm so với cùng kỳ năm 2020: Tổng số lần khám bệnh trong tháng đạt 162.298 lần, giảm 62,9%; Tổng số người điều trị nội trú đạt 9.323 người, giảm 57,8%. Công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong tháng đạt 38,97%. 4. Hoạt động giáo dục: Ngành Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức thi tốt nghiệp THPT năm 2021 đợt 2 vào các ngày 06, 07 tháng 8 (đợt 1 vào ngày 07, 08 tháng 7), chấm thi đợt 2 tốt nghiệp THPT năm 2021 từ ngày 07/8/2021 đến ngày 10/8/2021 và phúc khảo bài thi Kỳ thi Tốt nghiệp THPT năm 2021 từ ngày 12/8/2021. Hướng dẫn thí sinh điều chỉnh nguyện vọng xét tuyển vào đại học, cao đẳng năm 2021. Hoàn thành việc tải dữ liệu thông tin văn bằng tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2018, 2019, 2020 lên hệ thống tra cứu văn bằng của Bộ GDĐT theo quy định. 5. Hoạt động văn hóa - thể thao: Trong tháng 8/2021, do tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp nên các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao đông người của tiếp tục tạm dừng để tập trung công tác tuyên truyền như: Đài Phát thanh huyện và cấp xã truyền thanh để Nhân dân được biết (mỗi ngày ít nhất 3 lượt), tổ chức 132 lượt xe loa tuyên truyền (bao gồm xe chuyên dụng và xe máy gắn loa di động). 6. Tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội: (Theo báo cáo ngành công an) Tội phạm về trật tự xã hội trong tháng ghi nhận 69 vụ (giảm 49 vụ so với liền kề, giảm 67 vụ so với cùng kỳ), bị thương 08 người, tài sản thiệt hại khoảng 1,9 tỷ đồng; đa số các loại tội phạm đều giảm, xảy ra chủ yếu là hành vi cố ý gây thương tích, trộm cắp và hủy hoại tài sản,... Điều tra khám phá bước đầu đạt tỷ lệ 75,4% (52 vụ), bắt xử lý 75 đối tượng, thu hồi tài sản khoảng 200 triệu đồng. Phát hiện, xử lý 19 tụ điểm cờ bạc, 76 đối tượng liên quan (tiến hành khởi tố 04 vụ, 15 bị can về hành vi đánh bạc và tổ chức đánh bạc); 29 vụ, 32 đối tượng phạm tội về ma túy và xử lý vi phạm hành chính 114 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; 03 vụ, 04 đối tượng có hành vi buôn bán, buôn bán hàng cấm, thu giữ 13.240 bao thuốc lá điếu nhập lậu (khởi tố vụ án 01 vụ, 01 bị can) và xử lý hành chính 03 trường hợp vi phạm pháp luật trật tự quản lý kinh tế. 7. Trật tự an toàn giao thông: (Theo báo cáo ngành công an) Giao thông đường bộ: Trong tháng, trên địa bàn tỉnh xảy ra 36 vụ tai nạn giao thông, làm chết 19 người, bị thương 21 người; So với tháng trước, tai nạn giao thông (-13 vụ), chết (-08 người), bị thương (-02 người); So cùng kỳ năm trước, tai nạn giao thông tương đương, chết (-02 người), bị thương (+01 người). Tổng số vụ tai nạn giao thông đường bộ từ đầu năm 2021 đến nay là 409 vụ, làm 196 người chết, làm 271 người bị thương; So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông đường bộ về số vụ (+175 vụ), chết (+52 người), bị thương (+148 người). Giao thông đường thủy: Trong tháng không xảy ra vụ tai nạn, tương đương so tháng trước và cùng kỳ. Tính từ đầu năm đến nay xảy ra 03 vụ, giảm 02 vụ so cùng kỳ, số người chết và bị thương không phát sinh, tương đương so cùng kỳ. 8. Tình hình cháy nổ, môi trường: Trong tháng, tình hình cháy nổ trên địa bàn đã xảy ra 04 vụ, trong đó có 01 vụ nổ, 03 vụ cháy nhà dân, làm chết 01 người, ước giá trị thiệt hại tài sản là 56 triệu đồng, nguyên nhân 01 vụ do chập điện, 01 vụ do đốt, 02 vụ đang điều tra. Về lĩnh vực môi trường, cơ quan chức năng đã ban hành 19 quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền gần 215 triệu đồng, lỗi vi phạm: khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường không giấy phép. Thiên tai xả ra trong tháng Tám là 03 vụ lốc xoáy với 33 căn nhà bị tốc mái và 34 điểm đê bị sạt lở, ngã đổ và gãy cành 175 cây, gãy 01 trụ điện và 01 trụ phát thanh xã. Ước tổng giá trị thiệt hại trên 36,1 tỷ đồng.
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang 7 tháng đầu năm 2021
- 18/06/2024 16:10
Trong tháng 7, trên địa bàn tỉnh dịch Covid -19 tiếp tục diễn biến phức tạp, số ca nhiễm hiện nay tăng, đã đặt ra không ít thách thức trong công tác quản lý, điều hành để phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Với sự lãnh đạo toàn diện, trọng tâm của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã đề ra các giải pháp kịp thời nhằm giảm thiểu tác động của dịch bệnh Covid-19, vượt qua khó khăn, tận dụng thời cơ để sớm phục hồi, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Kết quả thực hiện trên các lĩnh vực như sau: I. SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN 1. Nông nghiệp Cây lương thực có hạt: trong tháng gieo trồng 15.136 ha, thu hoạch 378 ha với sản lượng 1.367 tấn; ước tính đến cuối tháng 7/2021, gieo trồng được 128.273 ha, đạt 95,8% kế hoạch, giảm 5,8% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch 526.059 tấn; trong đó: cây lúa gieo sạ 126.375 ha, thu hoạch 76.552 ha, sản lượng 519.904 tấn. - Cây lúa: Vụ Hè Thu (gồm Xuân Hè và Hè Thu): trong tháng gieo trồng 14.872 ha, nâng diện tích gieo trồng 74.728 ha, diện tích thu hoạch chủ yếu là lúa vụ Xuân Hè 24.905 ha tăng 8,7% so cùng kỳ, năng suất ước đạt 61,3 tạ/ha, giảm 1,1% so cùng kỳ; sản lượng 152.715 tấn, tăng 7,5% so cùng kỳ, do diện tích thu hoạch tăng. - Cây ngô: trong tháng gieo trồng 264 ha, thu hoạch 378 ha với sản lượng 1.367 tấn. Đến nay gieo trồng được 1.898 ha, đạt 54,2% kế hoạch, giảm 35,8% so cùng kỳ, thu hoạch 1.725 ha, năng suất quy thóc 35,7 tạ/ha với sản lượng quy thóc 6.155 tấn, đạt 48,5% kế hoạch, giảm 31% so cùng kỳ do chịu ảnh hưởng một phần hạn mặn kéo dài và chuyển đổi sang trồng cây thanh long và một số cây ăn quả khác. Cây rau đậu các loại: trong tháng gieo trồng 5.366 ha, thu hoạch 3.879 ha với sản lượng 78.558 tấn. Đến nay gieo trồng được 47.246 ha, đạt 75,7% kế hoạch, tăng 11,4% so cùng kỳ, thu hoạch 39.097 ha với sản lượng 773.604 tấn, đạt 64% kế hoạch, tăng 5,4% so cùng kỳ (trong đó: rau các loại 47.033 ha, thu hoạch 38.950 ha với sản lượng 773.148 tấn) so cùng kỳ, do nông dân tăng cường ứng dụng khoa học- kỹ thuật trong sản xuất, mở rộng quy mô trồng rau trong nhà lưới kiểm soát được sâu bệnh, nhiều loại giống mới được đưa vào sản xuất. Đồng thời nông dân Tiền Giang đang phát triển nhiều mô hình trồng rau màu: chuyên canh, luân canh trên nền đất lúa, xen canh lúa và màu… Chăn nuôi: ước thời điểm 01/07/2021 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 121,2 ngàn con, tăng 2,4%; đàn lợn 279,4 ngàn con, giảm 4,9%; đàn gia cầm (không kể chim cút) 17,8 triệu con, tăng 8,6% so cùng kỳ. Chăn nuôi lợn giảm so cùng kỳ do dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang diễn biến phức tạp, dịch vụ vận tải đã ngừng hoạt động, vì vậy khâu tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi gặp rất nhiều khó khăn bên cạch đó, giá thức ăn tăng cao, giá thịt lợn hơi thường xuyên liên tục biến động, người chăn nuôi không dự đoán được thị trường nên rất lo lắng khi tái đàn. 2. Lâm nghiệp: Tổng diện tích rừng hiện có trên địa bàn tỉnh Tiền Giang là 1.928,2 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng), cụ thể: 1.337,4 ha rừng phòng hộ và 590,8 ha rừng sản xuất.Ước đến hết tháng 7/2021 toàn tỉnh thực hiện trồng mới được 290,4 ngàn cây phân tán, nâng tổng số cây trồng 359,5 ngàn cây, so với cùng kỳ giảm 4,2%. Những cây trồng mới chủ yếu là cây xà cừ, bạch đàn, tràm bông vàng lấy bóng mát để chắn gió, bụi cặp theo các tuyến đường đi, tuyến kênh, đê ở huyện Tân Phước, Chợ Gạo và Gò Công Đông. 3. Thủy hải sản: Diện tích nuôi thủy sản các loại trong tháng 307 ha tăng 1% so cùng kỳ; ước đến tháng 7/2021 toàn tỉnh thả nuôi được 13.520 ha, đạt 89% kế hoạch và tăng 0,5% so cùng kỳ; Nuôi thủy sản nước ngọt trong 7 tháng đầu năm tỉnh thả nuôi được 4.078 ha, so cùng kỳ tăng 0,3%, nguyên nhân tăng là do ít bị ảnh hưởng hạn mặn kết hợp với mực nước nội đồng đủ nước nên các hộ tiến hành thả nuôi; Nuôi thủy sản mặn, lợ ước tính đến tháng 7 toàn tỉnh nuôi được 9.442 ha, tăng 0,5% so cùng kỳ, diện tích tăng chủ yếu là nuôi tôm sú nuôi quảng canh và nuôi tôm thẻ chân trắng do độ mặn và thời tiết thích hợp thả giống, các hộ nuôi tôm thâm canh và quảng canh cải tiến rất thận trọng trong việc chọn mua giống. Sản lượng thủy sản trong tháng ước tính thu hoạch 38.782 tấn, tăng 1,6% so cùng kỳ. Bảy tháng đầu năm thu hoạch 183.454 tấn, đạt 62,5% kế hoạch, tăng 2,8% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 97.161 tấn, đạt 59,7% kế hoạch, tăng 2,1% so cùng kỳ; sản lượng khai thác 86.293 tấn, đạt 66% kế hoạch, tăng 3,6% so cùng kỳ. II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7/2021 giảm 0,4% so với tháng trước (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,04%, sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 5,6%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,6%) và tăng 3,3% so cùng kỳ. Các ngành chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh sản xuất tăng hơn so cùng kỳ, trong đó: Sản xuất đồ uống tăng 19,6%; Sản xuất trang phục tăng 39,5; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 36,9%... Chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng đầu năm 2021 tăng 3,1% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,1%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 5,6%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 3,2%. * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: - Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 7/2021 so với tháng trước giảm 0,04% và giảm 10,1% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 7 năm 2021 giảm 7,3%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất đồ uống tăng 10,1%, trong đó sản xuất bia tăng 10,1%; Dệt tăng 9,2%, trong đó sản xuất hàng may sẳn tăng 40,3%; Sản xuất trang phục tăng 10,3%; Sản xuất da tăng 13,3%, trong đó sản xuất giày dép tăng 2,1%;… Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 15,5%, trong đó chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản giảm 29,4%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 10,4%; Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 5,6%; Sản xuất sản phẩm cao su và plastic giảm 11,85%;… - Chỉ số tồn kho tháng 7/2021 so với tháng trước tăng 5,2% và so với cùng kỳ giảm 3,4%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 11,4%, trong đó sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 50,6%; Sản xuất đồ uống tăng 3,3%, trong đó sản xuất bia tăng 3,3%; Sản xuất da tăng 28,1%, trong đó sản xuất va li, túi xách tăng 50,4%; Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 32,2%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 41,3%; ... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ: Dệt giảm 0,9%, trong đó sản xuất sợi giảm 61,4%; Sản xuất trang phục giảm 2,7%; Sản xuất kim loại giảm 39,9%; Sản xuất thiết bị điện giảm 36,3%, trong đó sản xuất mô tơ điện giảm 38,3%; … * Tình hình thu hút đầu tư và phát triển các khu - cụm công nghiệp: - Khu công nghiệp: đến nay tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương quy hoạch 7 khu công nghiệp với tổng diện tích 2.083,5 ha; trong đó có 4 khu công nghiệp đi vào hoạt động. Trong tháng, Ban Quản lý các khu công nghiệp không cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới. Điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 04 lượt dự án tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, trong đó có 02 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn đầu tư với tổng vốn đầu tư tăng là 5,8 triệu USD.Đến cuối tháng 7/2021, tổng số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp là 107 dự án, trong đó: có 78 dự án đầu tư nước ngoài; tổng vốn đầu tư là 2,5 tỷ USD và 4.575,8 tỷ đồng. Diện tích cho thuê của các doanh nghiệp đạt 571 ha/770 ha, chiếm tỷ lệ 74,1% diện tích các khu công nghiệp đang cho thuê. - Cụm công nghiệp: trên địa bàn tỉnh có 27 cụm công nghiệp được quy hoạch; trong đó có 4 cụm công nghiệp đang hoạt động. Trong tháng không thu hút dự án đầu tư mới. Tổng số dự án đầu tư tại các cụm công nghiệp hiện nay là 79 dự án (trong đó: có 6 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 0,2 tỷ USD và 2.306 tỷ đồng, diện tích thuê đất là 89,7/120,6 ha, tỷ lệ lắp đầy đạt 74,5%. III. ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện trong tháng là 291 tỷ đồng, giảm 44,4% so cùng kỳ. Bảy tháng đầu năm 2021 thực hiện 1.716 tỷ đồng, đạt 46,8% kế hoạch, giảm 17,2% so cùng kỳ. Ngay từ đầu năm Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các sở, ngành, UBND các huyện, thành phố, thị xã như: Tuyên truyền rộng rãi về việc triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ các nhóm đối tượng gặp khó khăn do dịch Covid-19, đẩy nhanh tiến độ đầu tư công, nhất là các công trình sạt lở; hỗ trợ nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ, sớm hoàn thành, đưa dự án vào sử dụng. Từ đầu năm các Ban quản lý dự án, chủ đầu tư tập trung triển khai các công trình chuyển tiếp, đồng thời hoàn chỉnh hồ sơ, đấu thầu đưa vào khởi công các công trình mới theo Nghị quyết 39/NQ-HĐND ngày 10/12/2020 của Hội Đồng Nhân Dân tỉnh. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh thực hiện 1.304 tỷ đồng, giảm 16,8% so cùng kỳ, chiếm 76% tổng số; trong đó: vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 243 tỷ đồng, giảm 16%, vốn xổ số kiến thiết thực hiện 673 tỷ đồng, giảm 9,4% so cùng kỳ... Các ngành các cấp yêu cầu các Ban quản lý dự án, Chủ đầu tư tập trung với cường độ cao hơn trong tổ chức thực hiện sau thời điểm giãn cách xã hội, đồng thời ưu tiên đẩy nhanh tiến độ đầu tư công, kể cả tiến độ giải ngân nhằm phát triển kinh tế - xã hội do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện 313 tỷ đồng, giảm 17,5% so cùng kỳ, chiếm 18,3% tổng số; trong đó: vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 158 tỷ đồng, giảm 12,7% so cùng kỳ... Hiện nay nguồn vốn đầu tư của huyện, thành phố, thị xã thực hiện chủ yếu nguồn vốn phân cấp, tập trung cho các công trình, dự án giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới nên khối lượng thực hiện không nhiều. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp xã thực hiện 99 tỷ đồng, giảm 22,1% so cùng kỳ, chiếm 5,7% tổng số; trong đó: vốn huyện hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 67 tỷ đồng, giảm 25% so cùng kỳ... Đối với các công trình do Ban quản lý công trình xã làm chủ đầu tư thực hiện chủ yếu từ nguồn vốn phân cấp để thực hiện các công trình giao thông nông thôn, thủy lợi nội đồng phục vụ địa phương. Ngoài ra các ngành các cấp đẩy nhanh tiến độ thẩm định hồ sơ xây dựng cơ bản của các xã nông thôn mới từ nguồn vốn thủy lợi phí, vốn phân cấp... để tiến hành giải ngân. IV. THƯƠNG MẠI - GIÁ CẢ - DỊCH VỤ 1. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng: Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong tháng thực hiện 4.230 tỷ đồng, giảm 13,5% so tháng trước và giảm 20,8% so cùng kỳ. Bảy tháng đầu năm 2021, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thực hiện 37.425 tỷ đồng, đạt 53,3% kế hoạch, tăng 9,2% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 30.690 tỷ đồng, tăng 10,3%; lưu trú 18 tỷ đồng, giảm 46,9%; ăn uống 3.061 tỷ đồng, tương đương cùng kỳ; du lịch lữ hành 5,7 tỷ đồng, giảm 75,6%; dịch vụ tiêu dùng khác 3.649 tỷ đồng, tăng 10,5% so cùng kỳ.Hiện nay, tình hình Covid-19 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang tiếp tục diễn biến phức tạp, số lượng ca dương tính với Covid-19 liên tục được phát hiện, có 10/11 huyện thành thị có ca dương tính, gây tâm lý hoang mang cho người tiêu dùng. Có 10/11 huyện, thành, thị thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ từ ngày 12/7/2021, đến ngày 19/7 có 11/11 huyện thực hiện CT16/TTg các biện pháp tăng cường kiểm tra tình hình dịch bệnh được các ngành các cấp áp dụng chặt chẽ và nghiêm ngặt. Người dân được yêu cầu ở tại nhà, chỉ ra ngoài khi thật sự cần thiết, khi đi ra đường phải mang theo các loại giấy tờ tùy thân và giấy tờ khác để chứng minh ra khỏi nhà trong trường hợp thật sự cần thiết. 2. Xuất - Nhập khẩu: a. Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng thực hiện 260 triệu USD; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 28,4 triệu USD, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 231 triệu USD. Bảy tháng xuất khẩu 1.976,7 triệu USD, đạt 60,8% kế hoạch, tăng 21% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 4,2 triệu USD, giảm 79,9%; kinh tế ngoài nhà nước 288,7 triệu USD, giảm 16,7%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.683,8 triệu USD, tăng 32,9% so cùng kỳ. Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của tỉnh như sau: - Thủy sản: ước tính tháng 7/2021 xuất 3.153 tấn, với trị giá 6,7 triệu USD. Bảy tháng xuất 51.617 tấn, giảm 18,8%; giá trị xuất 113,2 triệu USD, đạt 35,4% kế hoạch, giảm 26,7% so cùng kỳ. - Gạo: ước tính tháng 7/2021 xuất 11.216 tấn, với giá trị 6,9 triệu USD. Bảy tháng xuất 78.382 tấn, giảm 46,1%; giá trị xuất 44,9 triệu USD, đạt 32,1% kế hoạch, giảm 39,9% so cùng kỳ. Philippines - thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất từ Việt Nam đang chậm lại do gạo Việt Nam đang chịu áp lực cạnh tranh từ gạo giá rẻ của Ấn Độ và việc doanh nghiệp Việt Nam nhập gạo giá rẻ từ Ấn Độ, họ cho rằng sẽ gây tác động đến xuất khẩu gạo Việt Nam, bởi tâm lý của bên nhập khẩu họ băn khoăn tại sao Việt Nam nhập gạo Ấn Độ, từ đó, người ta cũng không muốn mua gạo Việt Nam. Điều này có những tác động đáng kể lên thị trường lúa gạo nội địa trong thời điểm hiện nay. - Hàng dệt, may: ước tính tháng 7/2021 xuất 8.634 ngàn sản phẩm, với giá trị 43,8 triệu USD. Bảy tháng xuất 90.707 ngàn sản phẩm, giảm 37,2%; giá trị xuất 305,5 triệu USD, đạt 51% kế hoạch, tương đương so cùng kỳ. - Kim loại thường và sản phẩm (kể cả đồng): ước tính tháng 7/2021 xuất 7.050 tấn, với giá trị 74,2 triệu USD. Bảy tháng xuất 54.094 tấn, tăng 2,8%; giá trị xuất 502 triệu USD, tăng 46,4% so cùng kỳ. Nếu tình hình dịch bệnh Covid-19 được khống chế tốt thì ngành sản xuất kim loại sẽ tăng mạnh trong thời gian tới do Công ty Trách nhiệm hữu hạn gia công Đồng Hải Lượng là doanh nghiệp xuất nhập khẩu ống đồng và linh kiện lớn, hợp tác kinh doanh lâu dài với hơn 800 khách hàng ở trên toàn thế giới và với 188 quốc gia. Ngoài các mặt hàng chủ yếu, trị giá xuất khẩu một số mặt hàng trong 7 tháng đầu năm 2021 có giá trị xuất khẩu tăng cao như: Giày dép các loại 356,5 triệu USD, tăng 39,8%; Kim loại thường và sp (kể cả đồng) 502 triệu USD tăng 46,4%; Xơ, sợi dệt các loại 61 triệu USD, tăng 64,4%... so cùng kỳ. b. Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng 7/2021 đạt 132,9 triệu USD. Bảy tháng, kim ngạch nhập khẩu 1.136,8 triệu USD, đạt 63,2% kế hoạch, tăng 35,1% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước nhập khẩu 59,1 triệu USD, tăng 13,1%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập 1.077,6 triệu USD, tăng 36,5% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu 7 tháng chủ yếu các mặt hàng như kim loại thường khác 425,6 triệu USD, tăng 31,2%; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 228,6 triệu USD, tăng 69,6%; vải các loại 134,7 triệu USD, tăng 22,8%... so cùng kỳ. 3. Chỉ số giá: Tình hình dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh diễn biến phức tạp, đến ngày 26/7/2021 có 11/11 huyện có ca dương tính trong cộng đồng đã gây tâm lý hoang mang cho người tiêu dùng. Toàn tỉnh thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ từ ngày 12/7/2021. Các cơ sở kinh doanh ăn uống, giải khát mang về, nhà nghỉ, khách sạn, các loại hàng hóa, dịch vụ không thiết yếu tạm dừng hoạt động từ ngày 12/7/2021. Đến ngày 14/7/2021 có 25 chợ bị phong tỏa phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19; Ngoài một số chợ truyền thống, các siêu thị, cửa hàng tiện ích hoạt động bình thường và bán hàng bằng các hình thức như: Bán hàng qua điện thoại; Giao hàng tận nơi cho khách hàng... được đẩy mạnh, vì vậy sức mua hàng qua điện thoại, online tăng 30 - 40% là cho giá tăng, sức mua tại các chợ truyền thống giảm từ 20 - 30% so với những ngày bình thường. Mặc khác do giá dầu thế giới luôn biến động tăng tác động làm chỉ số giá tháng 7 tăng. Từ những nguyên nhân trên, tác động đến (CPI) tháng 7/2021 tăng 0,97% so tháng 6/2021(thành thị tăng 0,85%, nông thôn tăng 1%); so cùng kỳ tăng 4,08%. CPI bình quân bảy tháng đầu năm 2021 so cùng kỳ tăng 2,73%. So với tháng 6/2021, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 6 nhóm tăng: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,48% (trong đó lương thực tăng 0,85%, thực phẩm tăng 2,21% và ăn uống ngoài gia đình tăng 0,01%); Đồ uống và thuốc lá tăng 0,32%; May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,11%; Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,78%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,03%; Giao thông tăng 3,2%. Có 3 nhóm giảm: Bưu chính viễn thông giảm 0,12%; Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,03%; và nhóm hàng hoá và dịch vụ khác giảm 0,01%. Nhóm Thuốc, dịch vụ y tế tăng và nhóm Giáo dục có chỉ số giá ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2021 tăng so tháng 6/2021 do: - Giá lương thực tăng 0,85%, thực phẩm tăng 2,21% do tâm lý của người dân thu mua hàng hoá tích trữ tiêu dùng trong mùa dịch bệnh vừa qua, dẫn đến sức mua tăng, giá bán lẻ tăng theo, tác động đến nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng 1,75% so với tháng trước, đóng góp vào mức tăng CPI chung tháng này khoảng 0,52%. - Giá xăng dầu tăng 6,8% so với tháng trước, do sự phục hồi kinh tế thế giới sau các đợt dịch bệnh Covid, nên nhu cầu sử dụng nhiên liệu sản xuất tăng, tác động giá xăng dầu trong nước tăng theo (ngày 26/6 và ngày 12/7/2021), tính chung: xăng A95 tăng 7,06%, xăng sinh học E5 tăng 7,26%, dầu Diezen 0,05S tăng 7,09%, đóng góp vào mức tăng CPI chung khoảng 0,3%. - Giá gas ngày 01/7/2021 tăng 9,24% tương ứng tăng 30.000 đồng/bình 12kg so tháng trước; giá dầu hoả tăng 7,33% tương ứng tăng 1.090 đồng/lít vào 26/6 và ngày 12/7/2021. Tác động nhóm gas và chất đốt tăng 8,62%, đóng góp vào mức tăng CPI chung khoảng 0,12%. - Giá điện sinh hoạt tăng 1,07% do vào mùa hè, nắng nóng; mặc khác do người dân ở nhà nên nhu cầu sử dụng điện nhiều hơn tháng trước (do thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ), dẫn đến giá điện sinh hoạt bình quân trong tháng 7/2021 tăng lên. - Một số mặt hàng thuốc hút giá tăng 0,76% do thực hiện giãn cách xã hội, dẫn đến giao thương hàng hoá khó khăn, giá bán lẻ cho người tiêu dùng tăng nhẹ Bên cạnh đó, một số mặt hàng lương thực thực phẩm có chỉ số giá giảm sâu làm kềm hãm tốc độ tăng trong tháng 7/2021. - Giá thịt lợn giảm 0,12% so với tháng trước, do nguồn cung được phục hồi sau các đợt bệnh dịch tả lợn Châu Phi, mặc khác do nhu cầu tiêu dùng trong nước có giới hạn, dẫn đến giá giảm nhẹ. - Giá sắt thép các loại dùng trong xây dựng giảm bình quân từ 2% -3%, tương ứng giảm từ 300- 500 đồng/kg so với tháng trước, nguyên nhân do dịch bệnh bùng phát, thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16, kinh tế khó khăn, nhu cầu xây dựng giảm so với tháng trước. - Khi xã hội bùng phát dịch bệnh, kinh tế khó khăn, người dân chi tiêu tiết kiệm hơn, dẫn đến giá xe ô tô đã qua sử dụng giảm 0,76%, cùng với đó, điện thoại di động thông minh giảm 0,66%, hoa cây cảnh giảm 1,2%, du lịch trọn gói giảm 0,21% so tháng trước. Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm bình quân trong tháng giảm 1,55%. Hiện nay giá vàng bình quân duy trì ở mức 5.193.000 đồng/chỉ, tăng 231.000 đồng/chỉ so cùng kỳ. Chỉ số giá đô la Mỹ trong nước bình quân trong tháng giảm 0,01%. Hiện nay giá bình quân Đô la Mỹ duy trì ở mức 23.111 đồng/USD, giảm 176 đồng/USD so cùng kỳ. 4. Du lịch: Tính chung bảy tháng đầu năm 2021, lượt khách du lịch đến Tiền Giang là 265,2 ngàn lượt khách, đạt 24,1% kế hoạch và bằng 51,7% so cùng kỳ; trong đó: khách quốc tế 3,8 ngàn lượt khách, giảm 96,1% so cùng kỳ. Tổng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ lữ hành, hoạt động hỗ trợ du lịch dịch vụ tiêu dùng đạt 6.734,3 tỷ đồng, tăng 4,8% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ ăn uống chiếm tỷ trọng 45,5%, ước đạt 3.061 tỷ đồng, tương đương so cùng kỳ; lưu trú đạt 18 tỷ đồng, giảm 46,9% so cùng kỳ...,Trước tình hình dịch Covid-19 tiếp tục có những diễn biến phức tạp trên địa bàn tỉnh đã tác động tiêu cực đến ngành du lịch. Lượng khách du lịch tiếp tục giảm so cùng kỳ, nguyên nhân khách du lịch quốc tế hiện nay chưa được cấp phép nhập cảnh. 5. Vận tải: Doanh thu, sản lượng vận chuyển, luân chuyển hàng hoá và hành khách 07 tháng đầu năm 2021 đều giảm so với cùng kỳ, nguyên nhân do ảnh hưởng dịch Covid -19. Ở đợt thứ 04 bị ảnh hưởng nặng nề nhất, dẫn đến đa số các doanh nghiệp vận tải, cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh gặp rất nhiều khó khăn, hoạt động cầm chừng ảnh hưởng đến các đơn hàng xuất khẩu đã ký kết ngay đầu năm... Vì vậy, để duy trì hoạt động sản xuất buộc các doanh nghiệp phải thu hẹp lại quy mô sản xuất, cắt giảm chi phí, giảm số lượng lao động..., trong đó có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động của ngành vận tải. Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải trong tháng thực hiện 116 tỷ đồng, giảm 12,5% so tháng trước và giảm 28,7% so cùng kỳ. Bảy tháng thực hiện 1.089 tỷ đồng, giảm 6,6% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 293 tỷ đồng, giảm 11,4%; doanh thu vận tải hàng hóa thực hiện 680,7 tỷ đồng, giảm 4,7% so cùng kỳ. Doanh thu vận tải đường bộ thực hiện 532,2 tỷ đồng, giảm 4,6%; doanh thu vận tải đường thủy thực hiện 441,4 tỷ đồng, giảm 9,5%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 115,8 tỷ đồng, giảm 4,9% so cùng kỳ. Nguyên nhân doanh thu vận tải giảm là do diễn biến phức tạp dịch bệnh Covid-19, tỉnh Tiền Giang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 15 và 16 của Thủ tướng Chính phủ ảnh hưởng đến doanh thu vận tải.Vận tải hành khách trong tháng đạt 1.251 ngàn hành khách, giảm 31,4% so tháng trước và giảm 60,8% so cùng kỳ; luân chuyển 18.008 ngàn hành khách.km, giảm 43,1% so tháng trước và giảm 56,6% so cùng kỳ. Bảy tháng, vận chuyển 16.840 ngàn hành khách, giảm 15,4% so cùng kỳ; luân chuyển 315.151 ngàn hành khách.km, giảm 8,6% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 8.094 ngàn hành khách, giảm 4,5% và luân chuyển 303.103 ngàn hành khách.km, giảm 7,4% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 8.746 ngàn hành khách, giảm 23,4% và luân chuyển 12.048 ngàn hành khách.km, giảm 31,8% so cùng kỳ. Vận tải hàng hóa trong tháng đạt 795 ngàn tấn, giảm 4,8% so tháng trước và giảm 15% so cùng kỳ; luân chuyển 105.841 ngàn tấn.km, giảm 3,5% so tháng trước và giảm 12,7% so cùng kỳ. Bảy tháng, vận tải 6.451 ngàn tấn hàng hóa, giảm 3,7% so cùng kỳ; luân chuyển 822.627 ngàn tấn.km, giảm 5,4% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 1.580 ngàn tấn, tăng 9,3% và luân chuyển 165.207 ngàn tấn.km, giảm 7,7% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 4.871 ngàn tấn, giảm 7,3% và luân chuyển 657.420 ngàn tấn.km, giảm 4,8% so cùng kỳ. * Công tác quản lý phương tiện giao thông: Trong tháng đăng ký mới 4.137 chiếc xe mô tô xe máy, 307 chiếc xe ô tô, 11 xe đạp điện và 18 xe khác. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.354.947 chiếc, trong đó mô tô xe máy 1.312.971 chiếc, xe ô tô 41.186 chiếc, 152 xe ba bánh, 192 xe đạp điện và 446 xe khác. 6. Bưu chính viễn thông: Doanh thu trong tháng 7/2021 đạt 262 tỷ đồng, tăng 0,1% so tháng trước; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 25 tỷ đồng, tăng 1% và viễn thông 245 tỷ đồng, tương đương so tháng trước. Bảy tháng doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 1.851 tỷ đồng, tăng 7,1% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 163 tỷ đồng, tăng 42,6% và viễn thông 1.688 tỷ đồng, tăng 4,6% so cùng kỳ. Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 7/2021 là 98.525 thuê bao, mật độ bình quân đạt 6 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Thuê bao internet có trên mạng cuối tháng 7/2020 là 278.280 thuê bao, mật độ internet bình quân đạt 15,8 thuê bao/100 dân. Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa dẫn đến khách hàng dần chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Số thuê bao điện thoại di động có sử dụng internet (3G, 4G) đến cuối tháng 6 năm 2021 là 1.366.583 thuê bao. V. TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG 1. Tài chính: Tổng thu ngân sách nhà nước trong tháng thực hiện 854,5 tỷ đồng; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn 670 tỷ đồng, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 200 tỷ đồng. Bảy tháng, thu 12.596 tỷ đồng, đạt 93,8% kế hoạch, giảm 9,8% so cùng kỳ; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 5.956 tỷ đồng, đạt 56,1% dự toán và giảm 2,3% so cùng kỳ; thu nội địa 5.781 tỷ đồng, đạt 55,9% dự toán, giảm 3% so cùng kỳ (trong thu ngân sách trên địa bàn: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.877 tỷ đồng, đạt 54,4% dự toán, giảm 7,3% so cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 651 tỷ đồng, đạt 46,5% dự toán, giảm 8,2% so cùng kỳ...). Tổng chi ngân sách nhà nước trong tháng 931 tỷ đồng; trong đó: chi đầu tư phát triển 300 tỷ đồng. Bảy tháng, chi 7.374 tỷ đồng, đạt 60,2% dự toán, giảm 31,8% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 2.077 tỷ đồng, đạt 56,1% dự toán, gảm 31,2% so cùng kỳ; chi hành chính sự nghiệp 3.628 tỷ đồng, đạt 52,8% dự toán và giảm 11,2% so cùng kỳ. 2. Ngân hàng: Đến cuối tháng 6/2021, vốn huy động đạt 77.831 tỷ, tăng 2,6% so với cuối năm 2020, bình quân mỗi tháng tăng 0,44%/tháng. Huy động vốn chủ yếu ở khu vực dân cư, chiếm tỷ trọng 88,9% tổng nguồn.Tổng dư nợ toàn tỉnh đến cuối tháng 6/2021 đạt 71.016 tỷ đồng, tăng 10,44% so với cuối năm 2020, bình quân tăng 1,7%/tháng. Tăng trưởng dư nợ cao hơn 5,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, dư nợ khối Ngân hàng Thương mại nhà nước và cổ phần nhà nước chiếm 62,9%. Có thể thấy, trong 6 tháng đầu năm, mặc dù trước tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp nhưng dư nợ đạt mức tăng cao, điều này hỗ trợ rất lớn trong việc cung ứng vốn phục vụ sản xuất của nền kinh tế. Cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tích cực tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh nhất là lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ. Kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tăng cường quản lý rủi ro đối với cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, tín dụng tiêu dùng. Ước đến cuối tháng 7/2021, nguồn vốn huy động đạt 77.889 tỷ đồng, tăng 2,7%; tổng dư nợ đạt 71.163 tỷ đồng, tăng 10,7% so với cuối năm 2020. *Nợ xấu: đến cuối tháng 6/2021 là 739,60 tỷ đồng, tỷ lệ 1,04%, giảm 0,21% so với cuối năm 2020. Trong đó khối NHTM nhà nước là 1,01%; khối còn lại là 1,10%.Tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp, nằm trong sự kiểm soát, có chuyển biến tích cực theo chiều hướng giảm. Trong đó, nợ nhóm 3 chiếm 17,15%, nhóm 4 chiếm 27,89%, nhóm 5 chiếm 54,30%. Ước đến cuối tháng 7/2021, nợ xấu là 745 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,1%, tăng 0,01% so với cuối năm 2020. VI. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Đến cuối tháng 7/2021, thẩm định nội dung 13 nhiệm vụ ( 06 cấp tỉnh, 07 cấp cơ sở); nghiệm thu kết thúc 08 nhiệm vụ; nghiệm thu giai đoạn 12 nhiệm vụ; Quyết định triển khai 16 nhiệm vụ; Quyết định công nhận 12 nhiệm vụ và Gia hạn 04 nhiệm vụ KH&CN. VII. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Lao động việc làm: Tính đến tháng 7/2021, tư vấn cho 18.076 lượt lao động, tăng 8,6% so với cùng kỳ, đạt 90,4% kế hoạch năm; tư vấn nghề cho 4.287 lượt lao động, tư vấn việc làm 2.220 lượt lao động, tư vấn việc làm cho 10.680 lượt lao động thất nghiệp, tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác cho 889 lượt lao động; giới thiệu việc làm cho 1.969 lượt lao động, tăng 72% so với cùng kỳ, đạt 49,2% kế hoạch năm; đã giới thiệu cho 539 lao động có được việc làm ổn định, giảm 9,1% so với cùng kỳ. Trong tháng 7, tư vấn cho 155 lượt lao động có nguyện vọng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, giảm 1,9% so với cùng kỳ, có 01 lượt lao động đăng ký tham gia, tương đương so với cùng kỳ. Xuất cảnh 14 lao động, tăng 133,3% so với cùng kỳ, trong đó xuất cảnh qua Nhật Bản là 07 lao động, Đài Loan là 05 lao động và thị trường khác là 02 lao động. Tiếp nhận 4.474 người đăng ký thất nghiệp, giảm 12,6% so với cùng kỳ, giải quyết cho 5.532 trường hợp hưởng cấp thất nghiệp, tăng 44,7% so với cùng kỳ, với tổng số tiền chi trả hơn 59 đồng, tăng hơn 2 tỷ đồng, tương đương tăng 5,1% so với cùng kỳ. 2. Chính sách xã hội: Quỹ đền ơn đáp nghĩa vận động được 252 triệu đồng, lũy kế từ đầu năm vận động được 4 tỷ đồng đạt 40% kế hoạch năm tương đương cùng kỳ năm 2020, xây dựng 15 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 600 triệu đồng đạt 12% kế hoạch năm giảm 25% so với cùng kỳ; sửa chữa 16 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 320 triệu đồng đạt 32% kế hoạch năm giảm 22% so với cùng kỳ.Quỹ Bảo trợ trẻ em vận động tiền mặt được hơn 30 triệu đồng; lũy kế từ đầu năm vận động được hơn 1,9 đồng, trong đó tiền mặt là gần 1,7 tỷ đồng; hàng hóa là hơn 230 triệu đồng đạt 54,9% kế hoạch năm, hỗ trợ cho khoảng 157 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn thông qua các hoạt động thăm và trao tặng quà; tặng “Mái ấm Khuyến học”, “Tiếp sức đến trường”. 3. Hoạt động y tế: Theo báo cáo của Sở Y tế tỉnh Tiền Giang: kể từ ngày 05/6/2021, khi có trường hợp mắc COVID-19 đầu tiên ngoài cộng đồng, đến ngày 25/07/2021 đã có 119 ổ dịch với 1.988 bệnh nhân (914 bệnh nhân đã được Bộ Y tế công bố mã số, số bệnh nhân còn lại đang chờ cấp mã số), 168 bệnh nhân được điều trị khỏi và 31 ca tử vong. UBND tỉnh thành lập 03 bệnh viện Dã chiến điều trị Covid-19 với 5 cơ sở điều trị. Quy mô 1.060 giường bệnh (Bệnh viện dã chiến số 1 là 350 giường (2 cơ sở); Bệnh viện dã chiến số 3 là 650 giường (3 cơ sở); Bệnh viện Dã chiến số 2 là bệnh viện tuyến cuối của tỉnh chuyên về điều trị Covid-19 với quy mô 60 giường bệnh), đồng thời phối hợp với Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh tham mưu thành lập bệnh viện Dã chiến trực thuộc Bộ Quốc phòng (bệnh viện Dã chiến số 6) với quy mô 500 giường bệnh. Ngoài ra, Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định thực hiện cách ly xã hội toàn tỉnh trong vòng 14 ngày, kể từ 00 giờ ngày 19/7/2021, theo tinh thần Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ, trước đó ngày 12/7/2021 tỉnh đã thực hiện cách ly toàn xã hội 10/11 huyện, thành, thị theo Chỉ thị số 16/CT-TTg. Trong tháng 7 có 09/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận. Cộng dồn so với cùng kỳ có 08 bệnh tăng (Sốt xuất huyết +7,6%, tay chân miệng +220,5%, tiêu chảy +5,1%, uốn ván khác +11,1%, viêm gan siêu vi A +100%, viêm gan siêu vi B +25%, viêm não do vi rút +100, Covid-19 +100%); 09 bệnh giảm (liên cầu lợn ở người -100%, ho gà -100%, lao phổi -11,3%, lỵ a míp -100%, quai bị -65,1%, sởi -55,4%, thương hàn -16,7%, thủy đậu -29,7%, viêm gan siêu vi C -50%); 27 bệnh tương đương và hoặc không xảy ra ca mắc. Phòng chống HIV/AIDS bảy tháng đầu năm toàn tỉnh có 5,920 người nhiễm HIV; 1,805 người chuyển sang AIDS; tử vong do AIDS: 997 người.Số lượng bệnh đến khám ngoại trú và điều trị nội trú đều giảm nhiều giảm so với cùng kỳ năm 2020: tổng số lần khám bệnh trong tháng 265.853 lượt người, giảm 37,1%; tổng số người điều trị nội trú 12.510 lượt người, giảm 34,6%. Công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong tháng đạt 52,5%. 4. Hoạt động giáo dục: Ngành Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức thi tốt nghiệp THPT năm 2021 vào các ngày 07 và 08/7/2021 với hơn 16.000 thí sinh dự thi, chấm thi tốt nghiệp THPT năm 2021 từ ngày 09/7/2021 đến 26/7/2021. Hướng dẫn thí sinh điều chỉnh nguyện vọng xét tuyển vào đại học, cao đẳng năm 2021. Thành lập Hội đồng xét tuyển và công bố điểm chuẩn tuyển sinh vào lớp 10 năm học 2021-2022. 5. Hoạt động văn hóa – thể thao: Trong tháng 7/2021, do tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trên địa bàn tỉnh Tiền Giang tổ chức tuyên truyền phòng chống dịch bệnh Covid-19 trên Đài Phát thanh huyện và cấp xã để Nhân dân được biết (mỗi ngày ít nhất 3 lượt) và trên 225 lượt xe loa tuyên truyền (bao gồm xe chuyên dụng và xe máy gắn loa di động); các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao đông người đã tạm dừng; Tạm ngưng phục vụ tại Bảo tàng, Thư viện tỉnh, các di tích trực thuộc, Trung tâm Văn hóa – Nghệ thuật, Trung tâm Phát triển Du lịch, Trung tâm Đào tạo, Huấn luyện và Thi đấu thể dục thể thao để thực hiện phòng, chống dịch Covid-19 kể từ ngày 12/7/2021; Tổ chức huấn luyện, ăn ở khép kín cho vận động viên tại Trung tâm Đào tạo, Huấn luyện và Thi đấu Thể dục Thể thao tỉnh; các vận dộng viên được về nhà thì tổ chức huấn luyện qua hình thức online. 6. Tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội: (Theo báo cáo của ngành công an) Tội phạm về trật tự xã hội xảy ra 118 vụ (tăng 42 vụ so với liền kề, giảm 05 vụ so với cùng kỳ), bị thương 14 người, tài sản thiệt hại trị giá khoảng 4,9 tỷ đồng. Điều tra khám phá bước đầu đạt tỷ lệ 52,5% (62 vụ), bắt xử lý 116 đối tượng, thu hồi tài sản trị giá khoảng 272 triệu đồng. Phát hiện, xử lý 32 tụ điểm cờ bạc, 196 đối tượng liên quan (khởi tố 13 vụ, 53 bị can về hành vi đánh bạc và tổ chức đánh bạc); 27 vụ, 35 đối tượng phạm tội về ma túy và xử lý hành chính 209 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; 02 vụ - 02 đối tượng có hành vi buôn bán, vận chuyển hàng cấm, thu giữ 6.940 bao thuốc lá điếu nhập lậu (khởi tố vụ án, khởi tố bị can) và xử lý phạt tiền 04 trường hợp vi phạm pháp luật về môi trường, khai thác cát trái phép. 7. Trật tự an toàn giao thông: (Theo báo cáo ngành công an tỉnh) Giao thông đường bộ: Tai nạn giao thông trong tháng xảy ra 49 vụ, giảm 08 vụ so tháng trước và tăng 12 vụ so cùng kỳ, làm chết 27 người, giảm 03 người so tháng trước và tăng 02 người so cùng kỳ, bị thương 23 người, giảm 11 người so tháng trước và tăng 06 người so cùng kỳ. Nâng tổng số vụ từ đầu năm đến nay 373 vụ, tăng 175 vụ so cùng kỳ, làm chết 177 người, tăng 54 người so cùng kỳ, bị thương 250 người tăng 147 người so cùng kỳ. Vi phạm trật tự an toàn gia o thông đường bộ trong tháng xảy ra 2.671 vụ giảm 857 vụ so tháng trước và giảm 6.314 vụ so cùng kỳ. Đã xử lý tạm giữ giấy tờ và phương tiện 2.286 vụ, tước giấy phép lái xe 199 vụ, phạt tiền 385 vụ với số tiền phạt 3.049 triệu đồng. Nâng tổng số vụ vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ từ đầu năm đến nay 21.188 vụ, giảm 20.219 vụ so cùng kỳ. Đã xử lý tạm giữ giấy tờ và phương tiện 17.162 vụ, tước giấy phép lái xe 1.215 vụ, phạt tiền 4.026 vụ với số tiền phạt 18.848 triệu đồng. Giao thông đường thủy: Trong tháng không xảy ra. Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 vụ tai nạn, so cùng kỳ giảm 02 vụ, số người chết và bị thương không phát sinh, tương đương so với cùng kỳ.Vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy trong tháng xảy ra 3.690 vụ, tăng 1.840 vụ so tháng trước và tăng 1.831 vụ so cùng kỳ. Đã xử lý vi phạm lập biên bản tạm giữ giấy tờ 696 vụ và phạt tiền tại chỗ 2.994 vụ với số tiền phạt: 572,7 triệu đồng. Nâng tổng số vụ vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy từ đầu năm đến nay 9.671 vụ tăng 16 vụ so cùng kỳ. Đã xử lý vi phạm lập biên bản tạm giữ giấy tờ 1.659 vụ và phạt tiền 8.012 vụ với số tiền phạt: 2.638 triệu đồng. 8. Tình hình cháy nổ, môi trường Tình hình cháy nổ, thiên tai trên địa bàn tỉnh Tiền Giang trong tháng 7/2021 đã xảy ra 1 vụ cháy do chập điện, chưa xác định thiệt hại tài sản; 3 vụ lốc xoáy và 3 điểm sạt lỡ, với 44 căn nhà tốc mái, 2 căn nhà bị sập, gãy 1 trụ điện và gãy đổ 1,7 ha bắp ( ngô), ước tính thiệt hại gần 1.009 triệu đồng. Tính từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 08 cơn lốc xoáy với 100 căn nhà (sập 5 căn, tốc mái 95 căn), 1,7 ha cây bắp thiệt hại 100% và 179 cây thiệt hại 100%. Ước tính thiệt hại trên 1.595 triệu đồng. Phát hiện 02 tổ chức vi phạm lĩnh vực môi trường như: không báo cáo kết quả giám sát chất thải định kỳ (một năm một lần trước ngày 31 tháng 01 hàng năm) cho cơ quan đã phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường thuộc thẩm quyền phê duyệt của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định; khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường không giấy phép. Quyết định xử phạt hành chính về lĩnh vực môi trường đối với 2 tổ chức với số tiền là 100 triệu đồng.
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang 6 tháng đầu năm 2021
- 18/06/2024 16:12
I. TÌNH HÌNH CHUNG Sáu tháng đầu năm 2021, triển vọng kinh tế toàn cầu đã được cải thiện rõ rệt sau khi các quốc gia triển khai vắc-xin hiệu quả và đối phó tốt hơn với dịch COVID-19. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa tỷ lệ tiêm chủng của các nền kinh tế phát triển với các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi đã làm kinh tế thế giới phục hồi không đồng đều và mong manh. Ngân hàng Thế giới và Liên minh châu Âu đều dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2021 đạt 5,6%, tốc độ tăng mạnh nhất sau suy thoái. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế dự báo GDP toàn cầu tăng 5,8% trong năm 2021. Theo Fitch Ratings, dự báo GDP toàn cầu sẽ tăng 6,3% trong năm 2021, cao hơn mức dự báo trong tháng 3/2021 (6,1%). Liên hợp quốc nhận định sau khi giảm 3,6% trong năm 2020, nền kinh tế toàn cầu dự báo tăng trưởng 5,4% năm 2021, tăng 0,7 điểm phần trăm so với mức dự báo 4,7% đưa ra trong báo cáo phát hành vào tháng 1/2021. Ngân hàng Thế giới nhận định GDP của Hoa Kỳ, khu vực đồng Euro, Nhật Bản và Trung Quốc trong năm 2021 tăng lần lượt là 6,8%, 4,2%, 2,9% và 8,5%. Đối với khu vực Đông Nam Á, Ngân hàng Thế giới dự báo Việt Nam và Ma-lai-xi-a là động lực tăng trưởng của khu vực khi đạt mức tăng trưởng lần lượt là 6,6% và 6,0% trong năm 2021. Phi-li-pin, Thái Lan và In-đô-nê-xi-a được dự báo tăng trưởng tương ứng là 4,7%, 2,2% và 4,4% trong năm 2021. Theo Báo cáo Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 6/2021, WB nhận định đợt bùng phát dịch COVID-19 thứ tư bắt đầu từ cuối tháng 4/2021 đã làm số ca nhiễm tăng mạnh. Hoạt động sản xuất công nghiệp trong tháng 5 cho thấy khả năng chống chịu cao với tốc độ tăng trưởng 1,6% (so với tháng trước), nhưng doanh số bán lẻ giảm 3,1% do tác động của giãn cách xã hội. Vị thế kinh tế đối ngoại của Việt Nam giảm nhẹ trong tháng 5 do kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và cam kết vốn FDI giảm lần lượt 6,7% và 20% so với tháng 4. Giá cả trong nước tăng 0,3% (so với tháng trước) do giá hàng hóa toàn cầu tăng. Trong thời gian tới, cần đặc biệt quan tâm đến sự phát triển của sản xuất công nghiệp và bán lẻ vì cả hai ngành này đều có thể tiếp tục bị ảnh hưởng bởi đợt bùng phát dịch COVID-19 thứ tư. II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã tổ chức thành công cuộc bầu cử Quốc Hội và Hội Đồng Nhân Dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2016 trong điều kiện dịch Covid-19 bùng phát mạnh. Đầu tháng 6 trên địa bàn tinh có ca mắc Covid-19 trong công đồng. Lãnh đạo địa phương cùng các cấp, các ngành của tỉnh tập trung thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh. Quán triệt quan điểm “chống dịch như chống giặc” và phương châm “4 tại chỗ”, không lơ là, mất cảnh giác, đồng thời không hoang mang, lúng túng, bị động, quyết tâm, quyết liệt trong công tác phòng, chống dịch, huy động mạnh mẽ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và mọi người dân, đề cao kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm của người đứng đầu; quyết tâm giữ vững thành quả chống dịch của địa phương. Với tinh thần vượt qua khó khăn, thách thức, để phấn đấu đạt mục tiêu kép sáu tháng đầu năm kết quả đạt được trên các lĩnh vực như sau: 1. Tăng trưởng kinh tế (GRDP): Kinh tế của tỉnh sáu tháng đầu năm 2021, đang trên đà phục hồi và tăng trưởng tích cực, thời tiết những tháng đầu năm tương đối thuận lợi, dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát tốt là những điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, dịch Covid - 19 bùng phát, trên địa bàn tỉnh có ca mắc trong cộng đồng đã đặt ra không ít khó khăn, thách thức trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Trước những thuận lợi và khó khăn đan xen, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh ngay từ đầu năm đã chỉ đạo các các sở, ngành tỉnh, các huyện, thành, thị thực hiện đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe nhân dân, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2021. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu năm 2021 ước đạt 28.956 tỷ đồng, (giá so sánh năm 2010) tăng 3,31% so với cùng kỳ, khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,25%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,22% và khu vực dịch vụ tăng 4,56% (bao gồm thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); Nếu tách riêng thuế sản phẩm thì khu vực dịch vụ giảm 5,20% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 1,70% so cùng kỳ. Trong 3,31% tăng trưởng khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 25,40%, công nghiệp xây dựng đóng góp 27,57%, dịch vụ đóng góp 43,81% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đóng góp 3,22%. GRDP tính theo giá hiện hành đạt 49.197 tỷ đồng. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: 6 tháng đầu năm 2021 tăng 2,25% so với 6 tháng đầu năm 2020; trong đó nông nghiệp tăng 2,13% (cùng kỳ giảm 6,10%). Trồng trọt có nhiều thuận lợi hơn 6 tháng đầu năm 2020, công tác phòng chống hạn mặn được triển khai sớm, diện tích bị thiệt hại không nhiều. Trà lúa Đông Xuân năm nay phát triển tốt, năng suất bình quân 71,1 tạ/ha, tăng 7,8% so cùng kỳ tương ứng tăng 5,1 tạ/ha; Giá lúa bình quân cao hơn so cùng kỳ nên bà con nông dân có lãi (cao hơn từ 1.900 đồng đến 2.500 đồng/kg tùy loại). Tuy nhiên có một số khu vực do chịu tác động của hạn mặn năm 2020 nên sản xuất còn khó khăn, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm. Các vườn cây ăn trái ở các huyện phía Tây được nông dân chăm sóc, từng bước được phục hồi, đưỡng cây là chủ yếu, nông dân chưa đồng loạt xử lý cho ra hoa trái vụ. Trong lĩnh vực chăn nuôi, dịch tả lợn châu Phi tuy được kiểm soát tốt nhưng còn xảy ra ở một số địa phương, người dân chưa mạnh dạn tái đàn do còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, giá thức ăn tăng, giá bán sản phẩm chăn nuôi thấp so cùng kỳ … Giá cả các sản phẩm nông nghiệp trong kỳ lên xuống thất thường, có những thời điểm khó tiêu thụ sản phẩm, các loại cây ăn quả có giá bình quân thấp so cùng kỳ, nhất là xoài, bưởi, mít, thanh long ... Ngành thủy sản tăng 3,15% so cùng kỳ, sản lượng nuôi trồng và khai thác đều tăng. Do tác động của dịch Covid - 19, một số mặt hàng thủy sản tiêu thụ chậm. Khu vực công nghiệp - xây dựng: tăng 3,22% so với 6 tháng đầu năm 2020; trong đó công nghiệp tăng 2,42%. Do tác động của dịch bệnh, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, nguyên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất … nhất là các doanh nghiệp chế biến thủy sản, chế biến thức ăn gia súc. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực may mặc, sản xuất giày da từng bước được phục hồi, ổn định sản xuất. Các ngành chức năng thường xuyên theo dõi nắm tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, kịp thời tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp yên tâm sản xuất. Ngành xây dựng tăng 8,54%, trong kỳ chủ yếu thực hiện các công trình chuyển tiếp từ năm 2020 chuyển sang và các công trình chống hạn, mặn. Trên địa bàn tỉnh có nhiều công trình trọng điểm của địa phương và trung ương; trong đó có dự án cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận, cầu Mỹ Thuận 2, bệnh viện Đa khoa tỉnh Tiền Giang ...tuy nhiên, vật liệu xây dựng, nhiên liệu trong 6 tháng đầu năm tăng cao, ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng của các công trình. Khu vực dịch vụ: tăng 5,20% so cùng kỳ. Hầu hết các ngành trong khu vực này điều tăng so cùng kỳ. Tuy nhiên cũng có một số ngành gặp nhiều khó khăn như: vận tải kho bãi, du lịch, ... Số khách du lịch đến địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm đạt 270.255 lượt khách, chỉ bằng 60,6% so cùng kỳ. Trong tháng 6/2021 lần đầu tiên trên địa bàn Tiền Giang có ca mắc Covid -19 trong cộng đồng, Tỉnh đã chủ động, kiểm soát được tình hình nhưng đến thời điểm hiện tại còn diễn biến rất phức tạp, toàn tỉnh thực hiện giản cách xã hội theo Chỉ thị 15/CT-TTg ngày 27/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ từ ngày 12/6 đến ngày 13/6/2021 huyện Cái Bè, Thị xã Cai Lậy và một số xã huyện Cai Lậy cách ly theo Chỉ thị 16/CT-TTG. Một số ngành trong khu vực này tạm dừng hoạt động nếu dịch bệnh kéo dài sẽ ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng trong những tháng cuối năm. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 6 tháng đầu năm tăng 1,70% so cùng kỳ. Cơ cấu kinh tế: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 39,3% (cùng kỳ 39,4%); khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 26,2% (cùng kỳ 26,3%); khu vực dịch vụ chiếm 28,4% (cùng kỳ 28,1%); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,1% (cùng kỳ 6,2%). 2. Sản xuất nông - thủy sản: 2.1. Nông nghiệp: * Trồng trọt: Cây lương thực có hạt: 6 tháng đầu năm 2021, gieo trồng được 113.138 ha, đạt 84,5% kế hoạch, giảm 8,7% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch 524.692 tấn, tăng 0,2 so cùng kỳ; trong đó: cây lúa gieo sạ 111.504 ha, thu hoạch 76.552 ha, sản lượng 519.904 tấn, đạt 65,7% kế hoạch. - Cây lúa: + Vụ Đông Xuân 2020-2021: chính thức xuống giống 51.647 ha, đạt 100% kế hoạch gieo trồng của vụ, giảm 10,3% so cùng kỳ. Nguyên nhân giảm thực hiện đề án cắt vụ để tránh hạn, mặn. + Vụ Hè Thu: Diện tích gieo trồng trong tháng đạt 26.364 ha lũy kế 6 tháng đầu năm diện tích gieo trồng là 59.857 ha, đạt 78,1% kế hoạch gieo trồng. Diện tích thu hoạch chủ yếu là vụ lúa Xuân hè 24.905 ha (ở các huyện phía tây: thị xã Cai Lậy, Tân Phước, Cái Bè, Cai Lậy và Châu Thành), năng suất đạt 61,3 tạ/ha, giảm 1,1% so cùng kỳ; sản lượng đạt 152.715 tấn, tăng 7,5% so cùng kỳ. Cây ngô: trong tháng gieo trồng 172 ha, thu hoạch 62 ha với sản lượng 203 tấn. Đến nay gieo trồng được 1.634 ha, đạt 46,7% kế hoạch, giảm 37,7% so cùng kỳ, thu hoạch 1.384 ha, năng suất quy thóc 35,5 tạ/ha với sản lượng quy thóc 4.788 tấn, đạt 37,7% kế hoạch, giảm 37,1% so cùng kỳ do chịu ảnh hưởng một phần hạn mặn kéo dài nên người dân chuyển đổi sang trồng cây thanh long và một số cây ăn quả khác. Cây rau đậu các loại: Đến nay gieo trồng được 41.881 ha, đạt 67,1% kế hoạch, tăng 10% so cùng kỳ, thu hoạch 35.217 ha với sản lượng 695.044 tấn, đạt 57,5% kế hoạch, tăng 4,9% so cùng kỳ (trong đó: rau các loại 41.678 ha, thu hoạch 35.086 ha với sản lượng 694.639 tấn). * Chăn nuôi: ước thời điểm 01/06/2021 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 121,6 ngàn con, tăng 2,3%; đàn lợn 295,8 ngàn con, giảm 15,9%; đàn gia cầm (không kể chim cút) 18 triệu con, giảm 3% so cùng kỳ. Chăn nuôi gia cầm giảm so cùng kỳ là do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 dẫn đến việc tiêu thụ giảm, chăn nuôi lợn giảm so cùng kỳ do dịch bệnh còn nhiều nguy cơ tiềm ẩn, dịch tả lợn châu phi còn xảy ra trên địa bàn tỉnh, giá thức ăn tăng cao trong khi giá lợn hơi giảm từ 0,8 đến 1 triệu đồng/ tạ so đầu năm người nuôi lo sợ khi tái đàn; một số hộ chuyển sang nuôi vật nuôi khác; giá cả thịt lợn hơi thường xuyên liên tục biến động, người chăn nuôi không dự đoán được thị trường nên rất lo lắng khi tái đàn; giá thức ăn chăn nuôi từ đầu năm đến nay liên tục tăng mạnh (giá hiện nay tăng khoảng 30% so đầu năm). Tình hình dịch bệnh trên vật nuôi 6 tháng đầu năm 2021: Dịch bệnh trên gia cầm: Ghi nhận 03 trường hợp/03 xã/03 huyện có gà bệnh cúm với tổng đàn 15.437 con; trong đó, gà bệnh và chết được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 3.830 con. Tình hình dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP): Từ ngày 15/12/2020, đến nay trên địa bàn toàn tỉnh ghi nhận 16 hộ có heo mắc bệnh DTLCP với tổng đàn 374 con tại 10 xã/06 huyện (Châu Thành: 01 xã; Gò Công Tây: 03 xã; Gò Công Đông: 03 xã; Tân Phú Đông: 01 xã; Cái Bè: 01 xã; Chợ Gạo: 01 xã). Tổng số heo được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 317 con, khối lượng 7.720 kg trên 16 hộ. Ngoài ra, địa phương tiêu hủy heo bệnh chết tại 02 hộ cũ (năm 2020), với số lượng 105 con/2.973 kg. Tình hình dịch bệnh lở mồm long móng (LMLM): Ghi nhận 01 trường hợp heo mắc bệnh LMLM tại huyện Cái Bè, tổng đàn 35 con. Chính quyền địa phương tổ chức tiêu hủy 35 con heo bệnh với khối lượng 3,917 tấn; đồng thời triển khai thực hiện công tác tiêu độc khử trùng tại cơ sở thu gom heo và vùng bị uy hiếp. 2.2. Thủy hải sản: Sáu tháng đầu năm 2021 toàn tỉnh thả nuôi được 13.213 ha, đạt 87% kế hoạch, tăng 3,7% so cùng kỳ, trong đó: + Nuôi thủy sản nước ngọt: Trong sáu tháng đầu năm tỉnh thả nuôi được 3.859 ha, so cùng kỳ tăng 12,4%. Nguyên nhân ít bị ảnh hưởng hạn mặn kết hợp với mực nước nội đồng đủ nước nên các hộ tiến hành thả nuôi. Ngoài việc nuôi theo truyền thống ở hộ gia đình thì phong trào nuôi cá da trơn dọc bờ sông Tiền với hình thức nuôi công nghiệp cũng duy trì. + Nuôi thủy sản mặn, lợ: Trong sáu tháng đầu năm toàn tỉnh nuôi được 9.354 ha, tăng 0,5% so cùng kỳ, diện tích tăng chủ yếu là nuôi tôm sú nuôi quảng canh và nuôi tôm thẻ chân trắng do độ mặn và thời tiết thích hợp, các hộ nuôi tôm thâm canh và quảng canh cải tiến rất thận trọng trong việc chọn mua giống. Tình hình nuôi nghêu ổn định, các sân nuôi tiếp tục thu hoạch và thả nuôi nghêu trở lại, ngành chức năng tăng cường thực hiện quan trắc môi trường tại vùng nuôi nghêu tập trung. Sản lượng thu hoạch 146.237 tấn, đạt 49,8% kế hoạch, tăng 2,6% so cùng kỳ; trong đó: trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 73.593 tấn, tăng 1,7% so cùng kỳ; sản lượng khai thác 72.644 tấn, tăng 3,6% so cùng kỳ, chủ yếu là khai thác biển được đầu tư đóng mới, nâng cấp năng lực khai thác biển. Thời tiết thuận lợi cho hoạt động đánh bắt, hiện nay các phương tiện không còn đánh bắt nhỏ lẻ như trước đây mà ngư dân đã tự nguyện gia nhập vào các tổ hợp tác hoặc hợp tác xã để thuận lợi hơn trong đánh bắt hải sản nhất là khi khai thác xa bờ dễ dàng tương trợ, phối hợp cùng nhau để đạt hiệu quả được cao hơn và an toàn hơn, nên ngư dân khai thác trúng mùa đạt sản lượng. Tỉnh tiếp tục theo dõi tình hình triển khai thực hiện Chỉ thị 45/CT-TTg ngày 13/12/2017 về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách để khắc phục cảnh báo của Ủy ban Châu Âu về chống khai thác hải sản bất hợp pháp và vi phạm lãnh hải, theo quy định không báo cáo đồng thời thiết thực triển khai công điện 732 của Thủ tướng Chính phủ về việc ngăn chặn, chấm dứt tình trạng ngư dân, tàu cá Việt Nam đánh bắt trên lãnh hải nước bạn. 3. Sản xuất công nghiệp: Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 6 tháng đầu năm 2021 tăng 3,1% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,1%; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 5,3%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 3,4%. Sản phẩm sản xuất công nghiệp 6 tháng năm 2021: Có 19/39 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Bộ com lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 57,1%; Cáp đồng trục và dây dẫn điện đồng trục tăng 51%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo tăng 45,9%;... Có 20/39 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Phi lê đông lạnh giảm 24,1%; Giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài giảm 14,1%; Áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc giảm 13,9%; … 4. Chỉ số giá tiêu dùng: Trước tình diễn biến phức tạp của Covid-19, toàn tỉnh cách ly theo Chỉ thi 15/CT-TTg, huyện Cái Bè và Cai Lậy thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ kể từ ngày16/6/2021; Ngày 28/5/2021, Sở Giao thông vận tải tỉnh Tiền Giang ban hành Thông báo số 992/TB-SGTVT về việc tạm dừng hoạt động vận tải hành khách đến tỉnh Long An và Thành phố Hồ Chí Minh, đến ngày 3/6/2021 dừng toàn bộ hoạt động vận chuyển hành khách trên địa bàn tỉnh.....tác động đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2021 tăng 0,04% so tháng 5/2021; so cùng kỳ tăng 3,34%. CPI bình quân sáu tháng đầu năm 2021 so cùng kỳ tăng 2,51%. So với tháng 5/2021, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 6 nhóm tăng: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,18%; Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,61%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,2%; Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%; Giao thông tăng 1,31% và Hàng hóa dịch vụ khác tăng 0,11%. Có 4 nhóm giảm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,63%; Đồ uống và thuốc lá giảm 0,03%; Bưu chính viễn thông giảm 0,15% Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,01%. Riêng nhóm Giáo dục chỉ số giá ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2021 tăng so tháng 5/2021 do: Giá rau tươi, khô và chế biến tăng 3,66% nguyên nhân là do cuối vụ thu hoạch, sản lượng cung cấp ra các chợ giảm, dẫn đến giá tăng; Cùng với đó, tại địa phương thực hiện nghiêm túc giãn cách xã hội (tạm dừng buôn bán các quán ăn, uống bên ngoài) trong mùa dịch bệnh Covid, để tiện lợi ăn uống trong gia đình nên nhu cầu tiêu dùng một số mặt hàng tăng như: trứng gia cầm các loại tăng 5,26%, thuỷ hải sản chế biến tăng 0,71%, nước mắm nước chấm tăng 0,55% so với tháng trước. Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 1,13% và dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,55%. Nguyên nhân do nhu cầu xây dựng trong mùa nắng tăng. Hiện đang vào mùa hè, thực hiện giản cách xã hội nhu cầu sử dụng điện tăng, dẫn đến giá tăng 0,2%. Giá gas tăng 4,51%, tương ứng tăng 14.000 đồng/bình 12kg vào ngày 1/6/2021. Cùng với đó, giá dầu hoả tăng 4,38%, tương ứng tăng 590 đồng/lít vào ngày 11/6/2021, tác động đến nhóm gas và các loại chất đốt khác tăng 4,22%, góp phần làm CPI chung tháng này tăng 0,05%. Giá xăng dầu tăng 2,8% so với tháng trước, góp phần làm CPI chung tăng khoảng 0,12%. Bên cạnh đó, một số mặt hàng có chỉ số giá giảm nhưng tỷ trọng quyền số nhỏ nên tác động chưa đủ lớn đến chỉ số giá tiêu dùng chung như: Do tình hình dịch bệnh Covid diễn biến phức tạp, tình hình giao thương hàng hoá nông sản qua biên giới gặp khó khăn, dẫn đến giá gạo bán lẻ tại địa phương tháng này giảm 0,6% so với tháng trước. Giá thịt lợn giảm 4,02%, thịt bò giảm 1,19%, nội tạng động vật giảm 5,75%, thịt gà giảm 1,04% so với tháng trước. Nguyên nhân do lượng cung trong nước dồi dào, trong khi đó mức tiêu dùng trong nước có giới hạn (do ngành du lịch, các quán ăn, bếp ăn tập thể tạm ngừng hoạt động). Giá quả tươi và chế biến giảm 9,42% do ảnh hưởng bùng phát dịch bệnh, hàng nông sản xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, sản lượng trong nước dồi dào, giá bán lẻ giảm mạnh. Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm bình quân trong tháng giảm 0,08%. Hiện nay giá vàng bình quân duy trì ở mức 5.275.000 đồng/chỉ tăng 483.000 đồng/chỉ so với cùng kỳ. Chỉ số giá đô la Mỹ trong nước bình quân trong tháng giảm 0,17%. Hiện nay giá bình quân Đô la Mỹ duy trì ở mức 23.110 đồng/USD giảm 228 đồng/USD so với cùng kỳ. 5. Thương mại, dịch vụ: Năm tháng đầu năm hoạt động kinh doanh trên địa bàn tỉnh diễn ra ổn định, lượng hàng hóa cung ứng cho thị trường dồi dào, các đơn vị phân phối lớn đã chủ động dự trữ hàng hóa thiết yếu và hàng hóa khác phục vụ nhu cầu mua sắm của người dân đầy đủ. Sang tháng 6 do ảnh hưởng dịch bệnh bùng phát trên địa bàn tỉnh, để phòng chống dịch toàn tỉnh thực hiện giãn cách theo Chỉ thị 15/CT-TTG từ ngày 12/6/2021, từ ngày 13/6/2021 huyện Cái Bè, Thị xã Cai Lậy và một số xã huyện Cai Lậy giản cách theo Chỉ thị 16/CT-TTG nên một số thời điểm, nhu cầu mua dự trữ nhóm lương thực thực phẩm có tăng so với bình thường. 5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng sáu tháng đầu năm 2021 đạt 32.970 tỷ đồng, đạt 46,9% kế hoạch, tăng 14,7% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 26.752 tỷ đồng, tăng 14,2%; lưu trú, ăn uống 2.857 tỷ đồng, tăng 11,7%; du lịch lữ hành 6 tỷ đồng, giảm 70,4%; dịch vụ tiêu dùng 3.356 tỷ đồng, tăng 21,9% so cùng kỳ. Nếu loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2021dự kiến tăng 12,5% so cùng kỳ. 5.2. Xuất nhập khẩu Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2021 ước đạt 1.707 triệu USD, đạt 52,5% kế hoạch, tăng 28,3% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 3,4 triệu USD, giảm 78,3%; kinh tế ngoài nhà nước 263,3 triệu USD, giảm 9,9%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.440,3 triệu USD, tăng 40,9% so cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2021 thực hiện 994 triệu USD, đạt 55,2% kế hoạch, tăng 35,1% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 50,7 triệu USD, tăng 5,8%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 943,3 triệu USD, tăng 37,1% so cùng kỳ. 5.3. Vận tải, kho bãi Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải 6 tháng đầu năm 2021 thực hiện 993 tỷ đồng, giảm 1% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 282 tỷ đồng, giảm 0,1% so cùng kỳ; vận tải hàng hóa thực hiện 610,8 tỷ đồng, giảm 0,7% so cùng kỳ. Vận tải đường bộ thực hiện 255,7 tỷ đồng, tăng 6,2%; vận tải đường thủy thực hiện 335 tỷ đồng, giảm 5,2%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 100 tỷ đồng, giảm 5,4% so cùng kỳ. Vận chuyển hành khách 6 tháng đầu năm 2021 đạt 16.032 ngàn hành khách, giảm 4% và luân chuyển 305.072 ngàn hành khách.km, tăng 4,3% so cùng kỳ; trong đó: vận chuyển đường bộ 7.678 ngàn hành khách, tăng 7,2% và luân chuyển 293.383 ngàn hành khách.km, tăng 5,9% so cùng kỳ; vận chuyển đường thủy 8.354 ngàn hành khách, giảm 12,4% và luân chuyển 11.689 ngàn hành khách.km, giảm 24.8% so cùng kỳ. Vận tải hàng hóa 6 tháng đầu năm 2021 đạt 5.744 ngàn tấn, giảm 0,3% và luân chuyển 727.305 ngàn tấn.km, giảm 2,8% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ thực hiện 1.449 ngàn tấn, tăng 16,5% và luân chuyển được 151.374 ngàn tấn.km, giảm 2,2% so cùng kỳ; vận tải đường thủy thực hiện 4.295 ngàn tấn, giảm 5% và luân chuyển 575.931 ngàn tấn.km, giảm 2,9% so cùng kỳ. 5.4 Du lịch. Trước tình hình dịch Covid-19 có những diễn biến phức tạp trên cả nước. Một số doanh nghiệp du lịch tiếp tục thu hẹp hoặc dừng hoạt động kinh doanh, lượng khách du lịch đến tỉnh giảm mạnh so với cùng kỳ. Ước lượng khách du lịch đến tỉnh 6 tháng đầu năm 2021 được 270 ngàn lượt, đạt 24,6% kế hoạch, giảm 39,4% so cùng kỳ; trong đó khách quốc tế 3,8 ngàn lượt, bằng 4%. Doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 2.862 tỷ đồng, tăng 11,1% so cùng kỳ; trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm 99,8%. 6. Tài chính - Ngân hàng: Thu ngân sách nhà nước: 6 tháng đầu năm 2021 thu được 11.764 tỷ đồng; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 5.309 tỷ đồng, đạt 50% dự toán và tăng 0,2% so cùng kỳ; thu nội địa 5.179 tỷ đồng, đạt 50,1% dự toán, đạt tương đương so cùng kỳ. Nếu loại trừ số thu tiền sử dụng đất thì có 06/11 địa phương ước thu đạt trên 50% dự toán năm cụ thể như: huyện Châu Thành; huyện Tân Phước; huyện Chợ Gạo; huyện Gò Công Đông; thị xã Gò Công; huyện Tân Phú Đông. Các khoản thu chủ yếu như sau: + Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.740 tỷ đồng, đạt 50,4% dự toán, tăng 2,1% so cùng kỳ, do do những tháng đầu năm 2021 tình hình dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định, hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ ăn uống diễn ra bình thường nên các doanh nghiệp đẩy mạnh sản suất và người dân gia tăng tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa. + Thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 595 tỷ đồng, đạt 42,5% dự toán, giảm 6,1% so cùng kỳ do tác động của dịch Covid-19 trong quý II năm 2021. Hiện nay, do yêu cầu của địa phương tiếp tục chống dịch Covid-19, một số ngành nghề chưa được phép hoạt động trở lại... Đồng thời, giảm 30% số thuế thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2020 đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và tổ chức khác theo Nghị định số 114/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 của Chính phủ. Đối với doanh nghiệp vận tải hoạt động giảm sút, vận tải hàng hóa ít, cước vận tải giảm, hạn chế xuất nhập khẩu ở biên giới, phương tiện vận tải hàng hóa đường dài Bắc - Nam giảm sút đáng kể dẫn đến lượng xăng dầu sử dụng giảm nên số thuế bảo vệ môi trường giảm. Năm 2020 Chính phủ ban hành Nghị định số 70/2020/NĐ-CP ngày 28/6/2020 quy định mức thu lệ phí trước bạ đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước giảm 50%, thời gian thực hiện hết năm 2020 nên người dân đã thực hiện giao dịch trong năm 2020. Năm 2021, quy định này đã hết thời gian ưu đãi nên các giao dịch mua bán giảm mạnh. + Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết 860 tỷ đồng, đạt 52,1% dự toán, tăng 4,2% so cùng kỳ do Công ty TNHH MTV Xổ số Kiến thiết Tiền Giang tăng số lượng vé phát hành và đạt tỷ lệ tiêu thụ bình quân trên 99%. Chi ngân sách nhà nước: Tổng chi ngân sách 6 tháng đầu năm 2021 là 6.804 tỷ đồng, đạt 55,5% kế hoạch và giảm 28,5% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 1.804 tỷ đồng, đạt 48,7% dự toán, giảm 39,9%; chi hành chính sự nghiệp 3.330 tỷ đồng, đạt 48,5% dự toán và giảm 1,1% so cùng kỳ. Trong đó: bố trí kinh phí phòng, chống dịch Covid-19 khoảng 42 tỷ đồng; kinh phí tổ chức tiêm vắc xin phòng Covid-19 giai đoạn 2021-2022 là 89,6 tỷ đồng, dự kiến huy động từ nguồn sự nghiệp y tế, kinh phí tiết kiệm chi ngân sách cấp tỉnh năm 2020 và đóng góp của các cá nhân, tổ chức. Ngân hàng: Đến cuối tháng 5/2021, vốn huy động đạt 76.931 tỷ đồng, tăng 1,4% so với cuối năm 2020, giảm 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Tổng dư nợ toàn tỉnh đạt 68.903 tỷ đồng, tăng 7,2% so với cuối năm 2020, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính đến cuối tháng 6/2021 vốn huy động đạt 77.002 tỷ đồng, tăng 1.153 tỷ, tăng 1,5%; tổng dư nợ 69.138 tỷ đồng, tăng 4.836 tỷ đồng, tăng 7,5% so với cuối năm 2020. Mặt bằng lãi suất tiếp tục được duy trì phù hợp, ổn định ở mức thấp nhằm tạo điều kiện cho các đối tượng khách hàng duy trì sản xuất kinh doanh do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19. Lãi suất huy động tối đa bằng VND đối với tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng như sau: 0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,75%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng. Kết quả thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị thiệt hại do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19: Ngân hàng nhà nước tỉnh có văn bản triển khai Thông tư 03/2021/TT-NHNN ngày 02/4/2021sửa đổi, bổ sung Thông tư số 01/2020/TT-NHNN đến các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn. Đồng thời chỉ đạo các TCTD trên địa bàn tỉnh tiếp tục thực hiện các giải pháp hỗ trợ khách hàng tại công văn số 3947/NHNN-TD ngày 03/6/2021 về việc triển khai các biện pháp tăng cường phòng, chống và tháo gỡ khó khăn do tác động của dịch Covid-19. Đến cuối tháng 4/2021, tổng dư nợ bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 là 9.910 tỷ đồng. Trong đó, doanh nghiệp bị ảnh hưởng chiếm 56,7%, cá nhân chiếm 42,4%. Một số ngành có tỷ lệ dư nợ bị ảnh hưởng lớn như: Công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 37,6% tổng dư nợ; bán buôn và bán lẻ 23,5%; hoạt động dịch vụ 15,2% tổng dư nợ. Các TCTD đã triển khai có hiệu quả các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho 3.421 khách hàng như: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho 268 khách hàng với dư nợ được cơ cấu là 139 tỷ đồng; Miễn giảm lãi cho 131 khách hàng với dư nợ 30 tỷ đồng; Cho vay mới với lãi suất ưu đãi thấp hơn so với lãi suất cho vay trước khi có dịch 3.022 khách hàng với doanh số cho vay mới lũy kế từ ngày 23/01/2020 đạt 24.680 tỷ đồng. Thực hiện Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 và Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020 sửa đổi, bổ sung NQ42: Đến cuối tháng 5/2021, Ngân hàng Chính Sách Xã Hội tỉnh đã giải ngân cho vay đối với 6 đơn vị với dư nợ đạt 978 triệu đồng. Thời gian vay là 12 tháng, lãi suất là 0%/năm. 7. Đầu tư và Xây dựng: Vốn đầu tư toàn xã hội quý II/2021, ước thực hiện được 8.775 tỷ đồng, đạt 22,1% kế hoạch, tăng 2,2% so cùng kỳ; trong đó: vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 6.434 tỷ đồng, chiếm 73,3%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 785 tỷ đồng, chiếm 8,9%; vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 925 tỷ đồng, chiếm 10,5%. Ước 6 tháng đầu năm 2021, vốn đầu tư toàn xã hội ước thực hiện 15.443 tỷ đồng, đạt 38,8% kế hoạch, tăng 2,4% so cùng kỳ; trong đó: vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 11.473 tỷ đồng, tăng 7,9%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.565 tỷ đồng, giảm 23,7%, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 1.541 tỷ đồng, giảm 5,8% so cùng kỳ. 8. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp: Trong 6 tháng đầu năm 2021, tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt xây dựng dự thảo Nghị quyết của Tỉnh ủy và Kế hoạch hành động của UBND tỉnh về tiếp tục lãnh đạo nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đến năm 2025. Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi, do tình hình dịch Covid-19 bùng phát trở lại làm ảnh hưởng đến tình hình phát triển doanh nghiệp, đặc biệt trong tháng 5, tháng 6 số lượng doanh nghiệp đăng ký giảm mạnh. Ước thực hiện 6 tháng năm 2021 có 364 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 2.900 tỷ đồng, đạt 51,3% so với kế hoạch phát triển doanh nghiệp năm 2021, giảm 3,2% về số doanh nghiệp và tăng 25,3% về vốn đăng ký so cùng kỳ. Vốn đăng ký bình quân là 8 tỷ đồng/doanh nghiệp. Có 427 đơn vị trực thuộc đăng ký hoạt động (gồm 83 chi nhánh, 330 địa điểm kinh doanh, 13 văn phòng đại diện); 75 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 36%; 35 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh, tăng 130% cùng kỳ. Tính đến cuối tháng 6/2021, toàn tỉnh hiện có khoảng 6.510 doanh nghiệp đăng ký hoạt động. III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Lao động, giải quyết việc làm: Ước tính sáu tháng đầu năm 2021, giải quyết việc làm cho 7.278 lao động đạt 45,5% so với kế hoạch năm, tăng 109,7% so với cùng kỳ; trong đó: 5.525 lao động được tạo việc làm thông qua chính sách thu hút đầu tư phát triển kinh tế xã hội của tỉnh; 1.616 lao động được tạo việc làm thông qua chính sách vay vốn từ Quỹ Quốc gia về việc làm, vốn ủy thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay giải quyết việc làm; đưa 137 lao động làm việc ở nước ngoài đạt 45,7% so với kế hoạch năm, giảm 19,4% so với cùng kỳ năm 2020. Hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19: Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, ban hành quyết định phê duyệt danh sách và kinh phí hỗ trợ cho 3.704 người lao động, trong đó người lao động không có giao kết hợp đồng lao động bị mất việc làm thuộc đối tượng theo quy định tại Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg ngày 24/4/2020 là 775 người, người lao động thuộc đối tượng theo quy định tại Quyết định số 3639/QĐ-UBND ngày 08/12/2020 của UBND tỉnh là 2.793 người và người lao động làm việc theo chế độ hợp đồng lao động phải thỏa thuận tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương theo quy định tại Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ là 136 người, với tổng số tiền hỗ trợ trên 3,8 tỷ đồng. 2. Đời sống dân cư và an sinh xã hội: Quỹ đền ơn đáp nghĩa vận động được gần 3,8 tỷ đồng, đạt 38% kế hoạch năm tương đương cùng kỳ năm 2020, xây dựng 15 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 600 triệu đồng đạt 12% kế hoạch năm giảm 25% so với cùng kỳ năm 2020; sửa chữa 16 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 320 triệu đồng đạt 32% kế hoạch năm giảm 22% so với cùng kỳ năm 2020. 3. Hoạt động y tế: Theo báo cáo của Sở Y tế tỉnh Tiền Giang: kể từ ngày 05/6/2021, khi có trường hợp mắc COVID-19 đầu tiên ngoài cộng đồng, đến ngày 23/6/2021 tỉnh đã có 10 ổ dịch với tổng cộng 61 bệnh nhân, ghi nhận 01 trường hợp bệnh nhân COVID-19 tử vong ngày 21/06/2021. Hoàn thành công tác tiêm vắc xin ngừa COVID-19 đợt 1 và đợt 1 bổ sung năm 2021 với tổng số đã tiêm được 13.299 người, đạt 107,25%. Kế hoạch số 2682/KH-SYT ngày 17/6/2021 về việc tiêm vắc xin ngừa COVID-19 trên địa bàn tỉnh đợt 2 năm 2021(giai đoạn 2021-2022) được Bộ y tế phân bổ đợt 2 là 20.000 liều, triển khai từ ngày 21/6/2021 đến trước ngày 30/6/2021. Trong sáu tháng đầu năm 2021, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 12/44 bệnh truyền nhiễm, 08 bệnh tăng so với cùng kỳ (sốt xuất huyết, tay chân miệng, tiêu chảy, uốn ván khác, viêm gan siêu vi A, viêm gan siêu vi B, viêm não vi rút khác, covid-19); 07 bệnh giảm so với cùng kỳ (ho gà, lao phổi, lỵ a míp, quai bị, sởi, thủy đậu, viêm gan siêu vi C); 29 bệnh tương đương và hoặc không xảy ra ca mắc; 1 trường hợp tử vong do bệnh tay chân miệng; Ghi nhận 1.274 ca mắc sốt xuất huyết Dengue, 01 trường hợp tử vong; 5.885 người nhiễm HIV, 1.803 người chuyển sang AIDS, 993 người tử vong do AIDS; Ghi nhận 05 vụ ngộ độc thực phẩm với số 64 trường hợp, tử vong 01 trường hợp. Hoạt động khám chữa bệnh so với cùng kỳ năm 2020, tổng số lần khám bệnh giảm 0,8% và tổng số người điều trị nội trú tăng 2,3%. Công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong tháng đạt 75%. 4. Hoạt động văn hóa - thể thao: Hoạt động bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021- 2026: trong tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, nhằm đảm bảo không tập trung đông người để phòng tránh dịch bệnh, công tác tuyên truyền, vận động trong Nhân dân về cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021- 2026 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang được thực hiện như: thông tin, tuyên truyền thông qua các kênh truyền thông đại chúng, tuyên truyền lưu động, các pa - nô, áp-phích, băng rôn, phát hành 32.000 tài liệu sinh hoạt về Ngày Pháp luật, tuyên truyền trên báo chí, trên sóng truyền thanh, truyền hình, trên hệ thống văn phòng điện tử của các cơ quan, đơn vị hoặc qua hệ thống loa truyền thanh tại các ấp, khu phố để mọi người dân đều được nhận thông tin về cuộc bầu cử. Ngoài ra, Mặt trận Tổ quốc đã tổ chức tuyên truyền về bầu cử gồm 40 cuộc cho chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo với hơn 3.200 người. Các cấp Hội nông dân tuyên truyền trong cán bộ hội cơ sở và hội viên với 2.161 cuộc, 64.827 lượt người dự. Liên đoàn lao động đã tổ chức 08 cuộc tuyên truyền về bầu cử cho gần 500 công nhân, lao động tại 05 doanh nghiệp ở khu Công nghiệp Tân Hương và LongGiang, 03 khu nhà trọ công nhân tự quản; 17 công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở tổ chức 67 cuộc tuyên truyền cho công nhân, lao động ở các đơn vị, doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước với 2.837 người. Hoạt động thể dục- thể thao: Trong sáu tháng đầu năm 2021, tổ chức 06 giải thể thao. Trong đó, giải Bóng đá Hạng Nhì quốc gia, giải Bóng bàn tỉnh Tiền Giang mở rộng lần VII – Tranh Cúp Sài Gòn Pingpong, giải Bóng chuyền hơi nữ CĐVC tỉnh Tiền Giang, giải Bóng đá mini trẻ tỉnh Tiền Giang, giải Bóng đá VĐ tỉnh Tiền Giang Giải thể thao kỷ niệm 75 năm Ngày Thể thao Việt Nam. Tham dự 11 giải Quốc gia và khu vực, đạt 33 huy chương các loại (12 HCV, 8 HCB, 13 HCĐ). 5. Trật tự an toàn giao thông: (Theo báo cáo của ngành Công an). Giao thông đường bộ: Tổng số vụ từ đầu năm đến nay 324 vụ, giảm 163 vụ so cùng kỳ, làm chết 150 người, tăng 52 người so cùng kỳ, bị thương 227 người, tăng 141 người so cùng kỳ. Ước thiệt hại tài sản chung trị giá khoảng 3.053 triệu đồng. Giao thông đường thủy: Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 vụ tai nạn, giảm 01 vụ so cùng kỳ, không phát sinh số người chết và bị thương. Ước thiệt hại về tài sản là 1.187 triệu đồng. Tình hình tai nạn giao thông đường bộ sáu tháng đầu năm 2021 so với cùng kỳ còn diễn biến phức tạp (tăng cả 02 tiêu chí: số người chết và số người bị thương). Nguyên nhân chủ yếu là do ý thức chấp hành của người tham gia giao thông như: đi không đúng phần đường, làn đường; lỗi do người đi bộ; vượt không đảm bảo an toàn và chuyển hướng không đúng quy định... Ý thức tự giác chấp hành pháp luật giao thông của người tham gia giao thông tuy có chuyển biến nhưng số vụ vi phạm các lỗi khi tham gia giao thông 6 tháng đầu năm 2021 vẫn còn ở mức cao (18.517 vụ), đối tượng vi phạm chủ yếu từ 27 tuổi đến 55 tuổi chiếm tỷ lệ cao. 6. Tình hình cháy nổ, môi trường: Trong tháng 6/2021, trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 vụ cháy với tổng số tiền thiệt hại ước tính 150 triệu đồng, gồm cháy 02 nhà doanh nghiệp nguyên nhân cháy do chập điện 01 vụ, 01 vụ không xác định nguyên nhân do chủ cơ sở không yêu cầu khám nghiệm hiện trường, điều tra nguyên nhân cháy và đang điều tra 01 vụ cháy phương tiện. Nâng tổng số vụ cháy từ đầu năm đến nay là 20 vụ, tổng giá trị tài sản thiệt hại trên 5,3 tỷ đồng. Lĩnh vực môi trường trong sáu tháng đầu năm 2021, đã ban hành 15 quyết định xử phạt vi phạm gồm 03 tổ chức và 12 cá nhân giảm 13 trường hợp so với cùng kỳ năm 2020, với tổng số tiền trên 286 triệu đồng. Nội dung vi phạm chủ yếu là thực hiện không đúng một trong các nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường và các yêu cầu trong Quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; khai thác sử dụng nước dưới đất không có giấy phép và thăm dò nước dưới đất không có giấy phép; khai thác cát làm vật liệu xây dựng thông thường không giấy phép. IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 2021 Dự báo dịch Covid-19 sẽ kéo dài và diễn biến phức tạp cần theo dõi chặt chẽ những ca bệnh tại cộng đồng, cần tăng cường hơn các nỗ lực kiểm soát dịch bệnh dài hạn như: đánh giá hệ thống y tế để tìm ra điểm yếu, hạn chế từ đó đầu tư kịp thời, đảm bảo luôn chủ động phòng, chống dịch; ngăn chặn kịp thời nguồn bệnh lây lan ngoài cộng đồng. Một là: Tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp như: môi trường đầu tư, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tiếp tục rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến nhà đầu tư, doanh nghiệp, thúc đẩy khởi nghiệp, tổ chức Ngày hội khởi nghiệp tỉnh, xây dựng Đề án hỗ trợ khởi nghiệp của tỉnh; phát triển hộ kinh doanh hoạt động theo hình thức doanh nghiệp.... Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, hạ lãi suất các khoản vay hiện hữu, tiết kiệm chi phí để giảm lãi suất cho vay phù hợp, hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua khó khăn trên cơ sở của Thông tư 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020, Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 31/3/2020 và Thông tư 03/2021/TT-NHNN ngày 02/4/2021. Hai là: Tiếp tục theo dõi tình hình sản xuất cây lúa và các loại cây trồng, phối hợp với địa phương kiểm tra, theo dõi tình hình sâu, bệnh trên các loại cây trồng. Đồng thời thực hiện Đề án Tái cơ cấu Ngành Nông nghiệp gắn với thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TU; theo dõi thực hiện Đề án “Cắt vụ, chuyển đổi mùa vụ và cơ cấu cây trồng các huyện phía Đông, tỉnh Tiền Giang đến năm 2025”. Ba là: Các ngành liên quan kiểm tra và đôn đốc các huyện, thành, thị triển khai thực hiện vốn xây dựng cơ bản cho các công trình trọng điểm, công trình giao thông nông thôn…nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương. Đồng thời đẩy nhanh công tác giải ngân, thanh quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Bốn là: Triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán NSNN năm 2021 và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021 và các Nghị quyết, Quyết định của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh về công tác thu ngân sách trên địa bàn.
Tổng sản phầm trên địa bàn tỉnh Tiền Giang 6 tháng đầu năm 2021 tăng 3,31% so cùng kỳ
- 18/06/2024 16:14
Kinh tế của tỉnh sáu tháng đầu năm 2021, đang trên đà phục hồi và tăng trưởng tích cực, thời tiết những tháng đầu năm tương đối thuận lợi, dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát tốt là những điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, dịch Covid-19 bùng phát, lần đầu tiên trên địa bàn tỉnh có ca mắc trong cộng đồng đã đặt ra không ít khó khăn, thách thức trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Trước những thuận lợi và khó khăn đan xen, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh ngay từ đầu năm đã chỉ đạo các các sở, ngành tỉnh, các huyện, thành, thị thực hiện đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe nhân dân, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2021. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu năm 2021 ước đạt 28.956 tỷ đồng, (giá so sánh năm 2010) tăng 3,31% so với cùng kỳ, khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,25%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,22% và khu vực dịch vụ tăng 4,56 % (bao gồm thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); Nếu tách riêng thuế sản phẩm thì khu vực dịch vụ giảm 5,20 % và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 1,70% so cùng kỳ. Trong 3,31% tăng trưởng khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 25,40%, công nghiệp xây dựng đóng góp 27,57%, dịch vụ đóng góp 43,81% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đóng góp 3,22%. Tuy tốc độ tăng trưởng còn thấp so với kế hoạch cả năm, nhưng đạt được kết quả trên là quyết tâm rất lớn của lãnh đạo địa phương, các ngành, các cấp trong chỉ đạo điều hành, cộng với sự đồng lòng, phấn đấu vượt qua khó khăn của các cơ sở kinh tế và nhân dân trong tỉnh. GRDP nếu tính theo giá hiện hành đạt 49.197 tỷ đồng. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: 6 tháng đầu năm 2021 tăng 2,25% so với 6 tháng đầu năm 2020; trong đó nông nghiệp tăng 2,13% (cùng kỳ giảm 6,10%). Trồng trọt có nhiều thuận lợi hơn 6 tháng đầu năm 2020, công tác phòng chống hạn mặn được triển khai sớm, diện tích bị thiệt hại không nhiều. Trà lúa Đông Xuân năm nay phát triển tốt, năng suất bình quân 71,1 tạ/ha, tăng 7,8% so cùng kỳ tương ứng tăng 5,1 tạ/ha; Giá lúa bình quân cao hơn so cùng kỳ nên bà con nông dân có lãi (cao hơn từ 1.900 đồng đến 2.500 đồng/kg tùy loại). Tuy nhiên có một số khu vực do chịu tác động của hạn mặn năm 2020 nên sản xuất còn khó khăn, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm. Các vườn cây ăn trái ở các huyện phía Tây được nông dân chăm sóc, từng bước được phục hồi, nhưng cây còn yếu, nông dân chưa dám xử lý cho ra hoa trái vụ. Trong lĩnh vực chăn nuôi, dịch tả lợn châu Phi tuy được kiểm soát tốt nhưng còn xảy ra ở một số địa phương, người dân chưa mạnh dạn tái đàn do còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, giá thức ăn tăng, giá bán sản phẩm chăn nuôi thấp so cùng kỳ … Ước tính đến thời điểm 01/6/2021 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 121 ngàn con, tăng 2,3%; đàn lợn 295,8 ngàn con, giảm 15,9%; đàn gia cầm (không kể chim cút) 18 triệu con, giảm 3% so cùng kỳ. Giá cả các sản phẩm nông nghiệp trong kỳ lên xuống thất thường, có những thời điểm khó tiêu thụ sản phẩm, các loại cây ăn quả có giá bình quân thấp so cùng kỳ, nhất là xoài, bưởi, mít, thanh long ... Ngành thủy sản tăng 3,15% so cùng kỳ, sản lượng nuôi trồng và khai thác đều tăng. Do tác động của dịch Covid 19, một số mặt hàng thủy sản tiêu thụ chậm . Khu vực công nghiệp - xây dựng: tăng 3,22% so với 6 tháng đầu năm 2020; trong đó công nghiệp tăng 2,42%. Do tác động của dịch bệnh, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, nguyên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất … nhất là các doanh nghiệp chế biến thủy sản, chế biến thức ăn gia súc. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực may mặc, sản xuất giày da từng bước được phục hồi, ổn định sản xuất. Các ngành chức năng thường xuyên theo dõi nắm tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, kịp thời tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp yên tâm sản xuất. Tính đến thời điểm hiện tại các Khu công nghiệp của tỉnh thu hút được 107 dự án, diện tích đất thuê là 570,29 ha/769,34 ha chiếm tỷ lệ 74,13% diện tích đất công nghiệp cho thuê; Các cụm công nghiệp thu hút 79 dự án, diện tích thuê đất là 89,78 ha/120,56 ha, đạt 74,47% diện tích đất công nghiệp cho thuê. Ngành xây dựng tăng 8,54%, trong kỳ chủ yếu thực hiện các công trình chuyển tiếp từ năm 2020 chuyển sang và các công trình chống hạn, mặn. Trên địa bàn tỉnh có nhiều công trình trọng điểm của địa phương và trung ương; Trong đó có dự án cao tốc Trung lương – Mỹ Thuận, cầu Mỹ Thuận 2, bệnh viện Đa khoa tỉnh Tiền Giang, Điện gió Tân Phú Đông ... Giá sắt thép, vật liệu xây dựng, nhiên liệu trong 6 tháng đầu năm tăng cao, ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng của các công trình. Khu vực dịch vụ: tăng 5,20 % so cùng kỳ. Hầu hết các ngành trong khu vực này điều tăng so cùng kỳ. Tuy nhiên cũng có một số ngành gặp nhiều khó khăn như: vận tải kho bãi, du lịch, ... Số khách du lịch đến địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm đạt 270.255 lượt khách, chỉ bằng 60,6% so cùng kỳ. Ngày 5/6/2021 lần đầu tiên trên địa bàn Tiền Giang có ca mắc Covid 19 trong cộng đồng, Tỉnh đã chủ động, kiểm soát được tình hình nhưng đến thời điểm hiện tại còn diễn biến rất phức tạp, toàn tỉnh thực hiện giản cách xã hội theo Chỉ thị 15/CT-TTg ngày 27/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ. Một số ngành trong khu vực này tạm dừng hoạt động, nếu dịch bệnh kéo dài sẽ ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng trong những tháng cuối năm. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 6 tháng đầu năm tăng 1,70% so cùng kỳ. Cơ cấu kinh tế: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 39,3% (cùng kỳ 39,4%); khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 26,2% (cùng kỳ 26,3%); khu vực dịch vụ chiếm 28,4% (cùng kỳ 28,1%); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,1% (cùng kỳ 6,2%). NV.Tròn
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang Tháng 5 năm 2021
- 18/06/2024 16:18
Tháng 5/2021, tình hình dịch bệnh Covid-19 trong nước diễn biến phức tạp, tại Tiền Giang được kiểm soát tốt và không có ca mắc nào trong cộng đồng, trong tháng qua các ngành các cấp tập trung quyết liệt thực hiện theo chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh, thường xuyên tổ chức các đoàn kiểm tra tình hình phòng, chống dịch bệnh Covid-19 trước trong thời gian báo cáo. Đồng thời để đảm bảo kinh tế - xã hội phát triển các Sở ban ngành chủ động thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp vừa sản xuất kinh doanh vừa phòng chống dịch, kinh tế của tỉnh tiếp tục phát triển. Kết quả thực hiện trên các lĩnh vực đạt được như sau: I. SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ THỦY SẢN 1. Nông nghiệp Cây lương thực có hạt: trong tháng gieo trồng 10.842 ha, thu hoạch 2.300 ha với sản lượng 11.774 tấn; ước tính đến cuối tháng 5/2021, gieo trồng được 86.603 ha, đạt 64,7% kế hoạch, giảm 5,6% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch 382.885 tấn; trong đó: cây lúa gieo sạ 85.140 ha, thu hoạch 53.761 ha, sản lượng 378.300 tấn. - Cây lúa: + Vụ Đông Xuân 2020-2021: chính thức xuống giống 51.647 ha, đạt 100% kế hoạch gieo trồng của vụ, giảm 10,3% so cùng kỳ. Nguyên nhân giảm do chuyển từ diện tích trồng lúa sang trồng cây ăn quả cho giá trị kinh tế cao hơn như: sầu riêng, mít, thanh long,… Mặt khác, do hạn, mặn kéo dài ở khu vực phía Đông chưa xả sổ kịp độ mặn nên một số diện chuyển sang trồng rau, màu các loại. + Vụ Hè Thu: Diện tích gieo trồng trong tháng đạt 10.673 ha lũy kế diện tích gieo trồng là 33.493 ha, đạt 43,7% kế hoạch gieo trồng, chủ yếu là lúa Xuân hè ở các huyện phía Tây, trà lúa đang giai đoạn đứng cái, làm đồng và trổ chín. - Cây ngô: trong tháng gieo trồng 169 ha, thu hoạch 186 ha với sản lượng 663 tấn. Đến nay gieo trồng được 1.463 ha, đạt 41,8% kế hoạch, bằng 61,3% so cùng kỳ, thu hoạch 1.286 ha, năng suất quy thóc 35,7 tạ/ha với sản lượng quy thóc 4.585 tấn, đạt 36,1% kế hoạch, bằng 66,4% so cùng kỳ do chịu ảnh hưởng một phần hạn mặn kéo dài và do những xã hệ Bảo định chuyển đổi sang trồng cây thanh long và một số cây ăn quả khác. Cây rau đậu các loại: trong tháng gieo trồng 3.316 ha, thu hoạch 2.469 ha với sản lượng 31.638 tấn. Đến nay gieo trồng được 35.437 ha, đạt 56,8% kế hoạch, tăng 7,7% so cùng kỳ, thu hoạch 30.695 ha với sản lượng 603.141 tấn, đạt 49,9% kế hoạch, tăng 6,5% so cùng kỳ (trong đó: rau các loại 35.259 ha, thu hoạch 30.575 ha với sản lượng 602.779 tấn). Chăn nuôi: ước thời điểm 01/05/2021 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 121,3 ngàn con, tăng 2,7%; đàn lợn 271,2 ngàn con, giảm 16%; đàn gia cầm (không kể chim cút) 17,5 triệu con, tăng 9,8% so cùng kỳ. 2. Lâm nghiệp: Tổng diện tích rừng hiện có trên địa bàn tỉnh Tiền Giang là 1.941,1 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng), cụ thể: 1.337,4 ha rừng phòng hộ và 603,8 ha rừng sản xuất. Ước đến hết tháng 5/2021 toàn tỉnh thực hiện trồng mới được 7 ngàn cây nâng tổng số cây trồng 14,15 ngàn cây, so với cùng kỳ giảm 27,99 %. Hiện nay đang vào mùa mưa thuận lợi cho trồng cây phân tán, trồng mới tập trung các xã chuẩn bị cho việc ra mắt nông thôn mới của huyện. Các loại cây được trồng xung quanh trên các bờ kênh, bờ ao, trên những tuyến đê. 3. Thủy hải sản: Diện tích nuôi thủy sản các loại trong tháng 344 ha tương đương so cùng kỳ; ước đến tháng 5/2021 toàn tỉnh thả nuôi được 12.197 ha, đạt 80,3% kế hoạch và tăng 1,5% so cùng kỳ, trong đó: + Nuôi thủy sản nước ngọt: Trong năm tháng đầu năm tỉnh thả nuôi được 3.408 ha, so cùng kỳ tăng 4,9%. Nguyên nhân nuôi trồng thủy sản nước ngọt tăng là do ít bị ảnh hưởng hạn mặn kết hợp với mực nước nội đồng đủ nước nên các hộ tiến hành thả nuôi. Ngoài việc nuôi theo truyền thống ở hộ gia đình thì phong trào nuôi cá da trơn dọc bờ sông Tiền với hình thức nuôi công nghiệp cũng duy trì. + Nuôi thủy sản mặn, lợ: Ước tính đến tháng 5 toàn tỉnh nuôi được 8.789 ha, tăng 0,2% so cùng kỳ, diện tích tăng chủ yếu là nuôi tôm sú nuôi quảng canh và nuôi tôm thẻ chân trắng, do độ mặn và thời tiết thích hợp, các hộ nuôi tôm thâm canh và quảng canh cải tiến rất thận trọng trong việc chọn mua giống. Tình hình nuôi nghêu ổn định, các sân nuôi tiếp tục thu hoạch và thả nuôi nghêu trở lại, ngành chức năng tăng cường thực hiện quan trắc môi trường tại vùng nuôi nghêu tập trung. Sản lượng thủy sản trong tháng ước tính thu hoạch 42.742 tấn, tăng 3,9% so cùng kỳ. Năm tháng đầu năm thu hoạch 130.305 tấn, đạt 44,4% kế hoạch, tăng 2,9% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 70.728 tấn, đạt 43,5% kế hoạch, tăng 5,3% so cùng kỳ; sản lượng khai thác 59.577 tấn, đạt 45,6% kế hoạch, tăng 0,1% so cùng kỳ chủ yếu là khai thác biển được đầu tư đóng mới, nâng cấp năng lực khai thác biển. Tỉnh tiếp tục theo dõi tình hình triển khai thực hiện Chỉ thị 45/CT-TTg ngày 13/12/2017 về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách để khắc phục cảnh báo của Ủy ban Châu Âu về chống khai thác hải sản bất hợp pháp và vi phạm lãnh hải, theo quy định không báo cáo đồng thời thiết thực triển khai công điện 732 của Thủ tướng Chính phủ về việc ngăn chặn, chấm dứt tình trạng ngư dân, tàu cá Việt Nam đánh bắt trên lãnh hải nước bạn. II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 5/2021 giảm 1,5% so với tháng trước, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 làm cho một số ngành sản xuất công nghiệp chủ yếu của tỉnh như: sản xuất thực phẩm, đồ uống, dệt, sản xuất da, sản xuất sản phẩm từ cao su plastic, sản xuất kim loại... giảm so với tháng trước (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,98%, sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 8,7%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,5%) và tăng 5,4% so cùng kỳ do các ngành chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh sản xuất tăng, trong đó: sản xuất trang phục tăng 28,8%; đồ uống tăng 18,1%, sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 43,1%… (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,3%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 12,9%; riêng ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 6,4%). Chỉ số sản xuất công nghiệp 5 tháng năm 2021 tăng 2,4% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,3%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 4,6%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 2,2%. Chỉ số sản xuất sản phẩm trong 5 tháng so cùng kỳ như sau: - Có 17/38 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Bộ com lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 55,4%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 37%; Cáp đồng trục và dây dẫn điện đồng trục tăng 32,7%; Giày, dép thể thao có đế ngoài và mũ giày bằng cao su và plastic tăng 26%; Tàu thuyền lớn chuyên chở người và hàng hóa có động cơ đẩy tăng 25,8%; Túi xách tăng 22%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng bột/cốm tăng 21,7%;… - Có 21/38 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Đồ chơi hình con vật hoặc sinh vật không phải hình người giảm 57,8%; Dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 35,1%; Dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu, thuyền giảm 34,6%; Các bộ phận của bi, bánh răng, hộp số, các bộ phận điều khiển và truyền chuyển động khác giảm 27%; Phi lê đông lạnh giảm 21,2%; Áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc giảm 16,9%; Giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài giảm 15,3%; … Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 5/2021 so với tháng trước tăng 1,1%, trong đó doanh nghiệp nhà nước bằng 100%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 2,9%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,6%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 5/2021 so với cùng kỳ giảm 7,1%, trong đó doanh nghiệp nhà nước giảm 1,1%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 2,9%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 8,5%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 5 năm 2021 giảm 9,7%, trong đó doanh nghiệp nhà nước giảm 1,5%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 7,2%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 10,6%. Chia theo ngành công nghiệp: Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 5 năm 2021 giảm 9,7%, trong đó ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 9,9%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 0,1%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải giảm 3,9%. * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: - Chỉ số tiêu thụ tháng 5/2021 so với tháng trước tăng 0,03% và tăng 1,2% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 5/2021 giảm 6,6%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất đồ uống tăng 6,8%, trong đó sản xuất bia tăng 6,8%; Dệt tăng 6,4%, trong đó sản xuất hàng may sẳn tăng 46,2%; Sản xuất trang phục tăng 25,2%; Sản xuất da tăng 16,2%, trong đó sản xuất giày dép tăng 6,7%; Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 16,5%; Sản xuất thiết bị điện tăng 30,6%, trong đó sản xuất dây cáp, dây điện tăng 23%;… Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ là: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 17%, trong đó chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản giảm 32,8%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 11,63%; Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 6,64%; Sản xuất sản phẩm cao su và plastic giảm 13,15%; Sản xuất kim loại giảm 12,58%;… - Chỉ số tồn kho tháng 5/2021 so với tháng trước tăng 2,7% và so với cùng kỳ giảm 12,7%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ là: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 43,2%, trong đó sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 62,7%; Sản xuất đồ uống tăng 3,4%, Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 36,7%;... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ là: Dệt giảm 10,1%, trong đó sản xuất sợi giảm 56,6%; Sản xuất trang phục giảm 5,9%; Sản xuất da giảm 20,9%, trong đó sản xuất giày dép giảm 17,5%; Sản xuất kim loại giảm 79,9%; Sản xuất thiết bị điện giảm 10,8%, trong đó sản xuất mô tơ điện giảm 12,3%; … * Tình hình thu hút đầu tư và phát triển các khu - cụm công nghiệp: - Khu công nghiệp: đến nay tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương quy hoạch 7 khu công nghiệp với tổng diện tích 2.083,5 ha; trong đó có 4 khu công nghiệp đi vào hoạt động. Trong tháng, Ban Quản lý các khu công nghiệp đã điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho dự án Nhà máy công nghiệp đồng Jinhong Việt Nam (Khu công nghiệp Long Giang) về tiến độ góp vốn và tiến độ thực hiện dự án đầu tư. Năm tháng, điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 08 lượt dự án, trong đó có 03 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn đầu tư với tổng số vốn tăng là 173,1 triệu USD. Đến cuối tháng 5/2021, tổng số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp là 107 dự án (trong đó có 78 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài) với tổng vốn đầu tư là 4.576 tỷ đồng và 2.534 triệu USD. Diện tích cho thuê của các doanh nghiệp đạt 570,3 ha/769,3 ha, chiếm tỷ lệ 74,1% diện tích các khu công nghiệp. - Cụm công nghiệp: trên địa bàn tỉnh có 27 cụm công nghiệp được quy hoạch; trong đó có 4 cụm công nghiệp đang hoạt động. Trong tháng không thu hút dự án đầu tư mới. Tổng số dự án đầu tư tại các cụm công nghiệp hiện nay là 79 dự án (trong đó: có 6 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 2.306,2 tỷ đồng và 150,3 triệu USD, diện tích thuê đất là 89,8/120,6 ha, tỷ lệ lắp đầy đạt 74,5%. III. ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG Trong tháng tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý tăng do, các Ban quả lý dự án, Chủ đầu tư tập trung điều kiện đẩy nhanh tiến độ thi công đối với các công trình chuyển tiếp để bàn giao và đưa vào sử dụng. Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện trong tháng là 428 tỷ đồng, tăng 17,5% so cùng kỳ. Năm tháng đầu năm 2021 thực hiện 1.297 tỷ đồng, đạt 35,4% kế hoạch, tăng 19,5% so cùng kỳ. Các ngành các cấp yêu cầu Ban quản lý dự án, chủ đầu tư tập điều kiện đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình, ngoài ra lãnh đạo các cấp thường xuyên tổ chức các đoàn kiểm tra nhằm tháo gỡ khó khăn trong công tác thi công, phối hợp với các chủ đầu tư khắc phục khó khăn đẩy nhanh tiến độ thực hiện công trình nên khối lượng thực hiện tăng hơn so cùng kỳ, nhiều công trình hiện đã hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng, các công trình còn lại thực hiện đúng tiến độ đề ra. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh thực hiện 986 tỷ đồng, đạt 33,2% kế hoạch, tăng 17,6% so cùng kỳ, chiếm 75,9% tổng số; trong đó: vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 173 tỷ đồng, tăng 22,8%, vốn xổ số kiến thiết thực hiện 466 tỷ đồng, tăng 13,3% so cùng kỳ... Các ngành các cấp yêu cầu các ban quản lý chủ đầu tư tập trung với cường độ cao hơn trong tổ chức thực hiện, ưu tiên đẩy nhanh tiến độ đầu tư công, kể cả tiến độ giải ngân nhằm phát triển kinh tế xã hội do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện 245 tỷ đồng, đạt 62,6% kế hoạch, tăng 26,8% so cùng kỳ, chiếm 18,9% tổng số; trong đó: vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 115 tỷ đồng, tăng 18,5% so cùng kỳ... Các ban quản lý dự án huyện hoàn thành hồ sơ, khẩn trương thi công các công trình xây dựng cơ bản năm 2021, dự án giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới nên khối lượng thực hiện tăng hơn so cùng kỳ. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp xã thực hiện 67 tỷ đồng, đạt 21,9% kế hoạch, tăng 23,1% so cùng kỳ, chiếm 5,2% tổng số; trong đó: vốn huyện hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 42 tỷ đồng, tăng 18% so cùng kỳ... Các xã tập trung điều kiện đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình xây dựng nông thôn mới năm 2021 nhằm phục vụ đi lại và vận chuyển hàng hóa của người dân đồng thời phục vụ ra mắt xã nông thôn mới. Trong đó, ưu tiên bố trí các dự án khởi công mới thuộc lĩnh vực giao thông, phòng chống thiên tai, xử lý sạt lở, biến đổi khí hậu, giáo dục, y tế, … IV. THƯƠNG MẠI - GIÁ CẢ - DỊCH VỤ 1. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng: Tháng 5/2021, tình hình dịch bệnh Covid-19 lại diễn biến phức tạp trong nước. Tại Tiền Giang, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh các Sở ngành liên quan triển khai kiểm tra tình hình phòng, chống dịch tại các chợ, siêu thị trên địa bàn tỉnh để đảm bảo việc hoạt động kinh doanh an toàn trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Hầu hết các hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa trên địa bàn tỉnh diễn ra bình thường, một số nhóm hàng hóa đồ dùng, giáo dục, xăng dầu do nhu cầu và giá tăng trở lại. Hiện tại, hàng hóa tại siêu thị cung ứng đầy đủ và dồi dào nên tâm lý người dân đến mua sắm cũng an tâm, không có tâm lý mua hàng hóa để dự trữ mà chỉ mua dùng hằng ngày. Các mặt hàng thiết yếu, thực phẩm tươi sống tại siêu thị khá dồi dào, hàng được nhập về liên tục để đáp ứng nhu cầu của người dân. Tại các chợ truyền thống trên các loại rau, củ, quả, thịt, hải sản… rất phong phú. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong tháng thực hiện 5.456 tỷ đồng, giảm 2,1% so tháng trước và tăng 15% so cùng kỳ. Năm tháng đầu năm 2021, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thực hiện 28.410 tỷ đồng, đạt 40,4% kế hoạch, tăng 18,7% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 22.631 tỷ đồng, tăng 15,2%; lưu trú 16 tỷ đồng, giảm 39,3%; ăn uống 2.732 tỷ đồng, tăng 35%; du lịch lữ hành 6 tỷ đồng, giảm 64,8%; dịch vụ tiêu dùng khác 3.024 tỷ đồng, tăng 36,2% so cùng kỳ. 2. Xuất - Nhập khẩu: a. Xuất khẩu: Hoạt động xuất khẩu bị ảnh hưởng rất lớn từ dịch Covid - 19 như: việc vận chuyển hàng hóa gặp khó khăn, vấn đề thiếu container rỗng; nhiều chuỗi cung ứng bị gián đoạn, nhu cầu thị trường chưa hồi phục đồng đều; chi phí đầu vào như logistics, nguyên liệu nhập khẩu tăng cao; các thị trường xuất khẩu nông, thủy sản liên tục đưa ra những thay đổi trong quy định chứng nhận an toàn thực phẩm… Tuy nhiên hoạt động xuất khẩu của tỉnh trong những tháng đầu năm đạt ở mức cao so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 5 thực hiện 287 triệu USD; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 42 triệu USD, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 245 triệu USD. Năm tháng xuất khẩu 1.364 triệu USD, đạt 42% kế hoạch, tăng 30,9% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 4 triệu USD, giảm 65,6%; kinh tế ngoài nhà nước 200 triệu USD, giảm 15,1%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.160 triệu USD, tăng 45,8% so cùng kỳ. Một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu tăng cao so cùng kỳ như: Hàng rau quả tăng 25,2%; sản phẩm từ chất dẻo tăng 35,1%; máy móc thiết bị và dụng cụ phụ tùng gấp 3 lần; hàng hóa khác gấp 2,9 lần… Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của tỉnh như sau: - Thủy sản: ước tính tháng 5/2021 xuất 10.532 tấn, về trị giá đạt 23 triệu USD. Năm tháng xuất 43.335 tấn, tăng 8,1%; về trị giá đạt 94,5 triệu USD, giảm 3,9% so cùng kỳ. Hiên nay dịch Covid-19 diễn biến phức tạp ở các nước ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam, nhu cầu một số sản phẩm thủy sản chủ lực có xu hướng giảm nhưng đây cũng là cơ hội cho các dòng sản phẩm có thời hạn bảo quản lâu, giá cả phải chăng, phù hợp với xu hướng thu nhập giảm do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Do vậy, xuất khẩu các sản phẩm thủy sản thuộc phân khúc hàng khô, đồ hộp... có chiều hướng gia tăng, góp phần đưa xuất khẩu thủy sản lạc quan hơn. - Gạo: ước tính tháng 5/2021 xuất 10.696 tấn, về giá trị đạt 6 triệu USD. Năm tháng xuất 47,8 tấn, giảm 53,8%, về trị giá đạt 26,7 triệu USD, giảm 48,3% so cùng kỳ. Hiện nay, tình hình dịch bệnh Covid-19 và thời tiết, biến đổi khí hậu đang diễn ra hết sức phức tạp, khó lường; dự báo ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp và nguồn cung lúa gạo trong nước; một số quốc gia đã phong tỏa và tăng cường dự trữ lương thực… Để đảm bảo an ninh lương quốc gia, tuyệt đối không để xảy ra thiếu gạo trong mọi tình huống, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu và dịch bệnh Covid-19 còn ảnh hưởng. Theo các chuyên gia, sở dĩ giá trị xuất khẩu giảm do gần đây do gạo Việt luôn được chào bán ở mức cao, thậm chí có thời điểm lên tới 522 USD/tấn. Thêm vào đó, từ đầu năm tới nay việc tìm được container đóng hàng đi châu Âu rất khó khăn. Khi có container thì giá lại rất cao nên dẫn tới số lượng gạo xuất khẩu giảm mạnh bởi đối tác tìm đến các nhà xuất khẩu có vị trí vận chuyển thuận lợi hơn (Ấn Độ) nhằm tránh việc giao hàng với thời gian quá dài. Gần đây nhiều hãng tàu thông báo cắt dịch vụ trên một số chặng và chưa có kế hoạch cho năm nay, càng làm gia tăng áp lực, gây hoang mang trong ngành vận tải biển, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại trên toàn thế giới. - May mặc: ước tính tháng 5/2021 xuất 13.783 ngàn sản phẩm, về giá trị xuất đạt 40 triệu USD. Năm tháng xuất 64.803 ngàn sản phẩm, giảm 23,4%, về giá trị đạt 197 triệu USD, tăng 9,3% so cùng kỳ. Các doanh nghiệp Việt hoạt động trong lĩnh vực dệt, may chưa chủ động được nguồn nguyên liệu, nguồn cung sợi trong nước còn rất hạn chế, chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc. Trong giai đoạn dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến khó lường trên thế giới, Hiệp hội Dệt may Việt Nam - VITAS đề nghị các cơ quan có thẩm quyền cho phép sử dụng các gói hỗ trợ để doanh nghiệp và người lao động có điều kiện dễ tiếp cận hơn và kéo dài thời hạn hỗ trợ ít nhất đến hết năm 2021. Cụ thể, tiếp tục giảm tiền thuê đất, tiền điện, nước, giãn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, khoanh nợ, giãn nợ, cơ cấu lại nợ, kéo dài thời gian dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất cho các doanh nghiệp khó khăn đến hết năm 2021… Ngoài các mặt hàng chủ yếu chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng kim ngạch tăng đáng kể góp phần làm tăng kim ngạch trong tháng như: hàng rau quả xuất 11,2 triệu USD, tăng 25,2%; sắt thép 23 triệu USD, gấp 2,9 lần; xơ, sợi dệt các loại 32,8 triệu USD, tăng 11,2%... so cùng kỳ. b. Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng 5/2021 đạt 156 triệu USD. Năm tháng, kim ngạch nhập khẩu 888.8 triệu USD, đạt 49,4% kế hoạch, tăng 44,7% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước nhập 45 triệu USD, tăng 7,6%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập 844 triệu USD, tăng 47,4% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu 5 tháng chủ yếu các mặt hàng như vải các loại 83,4 triệu USD, tăng 10,1%; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 156,3 triệu USD, tăng 78,3%; kim loại thường khác 395,1 triệu USD, tăng 44,3%... so cùng kỳ. 3. Chỉ số giá: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2021 tăng 0,53% so tháng 4/2021 (thành thị tăng 0,66%, nông thôn tăng 0,49%); so cùng kỳ tăng 3,71%. So với tháng 4/2021, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 8 nhóm tăng: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,57%; Đồ uống và thuốc lá tăng 0,11%; May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,22%; Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,1%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,12%; Giao thông tăng 1,07%; Văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,01% và Hàng hóa dịch vụ khác tăng 0,01%. Có 1 nhóm giảm: Bưu chính viễn thông giảm 0,02%. Riêng nhóm Thuốc và dịch vụ y tế; nhóm Giáo dục chỉ số giá ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2021 tăng so tháng 4/2021 do: Tháng 05/2021 do trùng vào những ngày nghỉ lễ 30/4 và 01/5 nên nhu cầu tiêu dùng một số loại thực phẩm tươi sống tăng, dẫn đến sức mua tăng giá tăng lên: thịt bò tăng 0,14%, thuỷ hải sản tăng 0,15%, rau tươi khô chế biến tăng 6,28%... tác động đến nhóm hàng thực phẩm tăng 0,9%, góp phần làm tăng CPI chung khoảng 0,19%. - Do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và xu hướng tăng bảo hộ thương mại của các nước lớn ở Châu âu, đặc biệt Trung Quốc là nước lớn sản xuất thép đang cắt giảm sản lượng thép thành phẩm...dẫn đến nguồn cung sắt thép trên thị trường bị hạn chế, tác động giá bán lẻ tăng bình quân từ 10% - 18% so tháng trước; Mặc khác, do thời tiết đang vào mùa khô thuận lợi cho ngành xây dựng hoạt động và giá xăng dầu đang đứng ở mức cao kéo dài, dẫn đến giá cát vàng, cát đen, đá xây dựng...tăng lên. Tác động nhóm vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 4,98%, góp phần làm tăng CPI chung khoảng 0,19%. - Hiện nay đang vào mùa hè, thời tiết nóng kéo dài, dẫn đến nhu cầu sử dụng điện làm mát của người dân tăng, tác động đến giá điện sinh hoạt bình quân trong tháng tăng 3,41%, nước sinh hoạt tăng 0,09%. Cùng với đó, giá dịch vụ sửa chữa thiết bị gia đình cũng tăng như: sửa máy điều hoà nhiệt độ tăng 1,67%, sửa thiết bị có động cơ tăng 2,16%. - Chỉ số giá nhóm giao thông tháng 5/2021 tăng 1,07% so với tháng trước làm CPI chung tăng khoảng 0,1%, chủ yếu do: Giá xăng tăng 2,13%, dầu diezel tăng 2,05% do ảnh hưởng của đợt điều chỉnh giá vào ngày 27/4/2021, 12/5/2021. Giá dịch vụ giao thông công cộng tăng 0,38%, trong đó, giá vận tải hành khách bằng đường bộ tăng 0,64%. Riêng giá vé xe buýt, taxi ổn định. Bên cạnh đó, một số mặt hàng có chỉ số giá tăng nhưng tỷ trọng quyền số nhỏ nên tác động chưa đủ lớn đến chỉ số giá tiêu dùng chung như: Giá thịt lợn giảm 0,15% so tháng trước là do dịch tả lợn Châu Phi được kiểm soát tốt, việc tái đàn diễn ra thuận lợi; mặc khác nguồn thịt lợn đông lạnh nhập khẩu vẫn còn lớn, cạnh tranh trực tiếp với nguồn thịt lợn chăn nuôi trong nước dẫn đến giá giảm nhẹ. Cùng với đó, giá trứng gia cầm các loại giảm 0,04% do nguồn cung dồi dào, mức tiêu thụ trong nước có giới hạn. - Ngày 01/5/2021 giá gas trong nước giảm 19.000 đồng/bình 12 kg, giảm 5,77%, tác động nhóm gas và các loại chất đốt khác giảm 5,33%, góp phần kềm chế CPI chung của tháng 5/2021 giảm ở mức 0,07%. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 5 tháng năm 2021 so cùng kỳ tăng 2,34%; một số nhóm hàng có giá tăng nhiều trong 5 tháng năm 2021 so cùng kỳ như: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,52%; nhóm giáo dục tăng 4,7%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,65%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,31%; Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 5/2021 tăng 0,23% so tháng trước. Hiện nay giá vàng bình quân duy trì ở mức 5.279.000 đồng/chỉ Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 5/2021 giảm 0,08% so tháng trước. Hiện nay giá bình quân Đô la Mỹ duy trì ở mức 23.149 đồng/USD. Ước chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2021 tăng từ 0,1% đến 0,25% so tháng 5/2021 do tình hình xuất khẩu đang thuận lợi; Giá rau xanh sẽ còn đứng ở mức cao như: hành lá, cà chua, đỗ quả tươi, dưa leo, rau cải xanh... do nắng nóng kéo dài, diện tích gieo trồng hoa màu bị thu hẹp lại; Giá thủy hải sản tươi sống sẽ tăng, do chi phí đánh bắt như xăng dầu, tiền thuê nhân công tăng lên. 4. Du lịch: Thực hiện các biện pháp phòng chống dịch Covid-19, đảm bảo an toàn tại các doanh nghiệp lữ hành, khu, điểm, cơ sở lưu trú du lịch và kinh doanh dịch vụ du lịch theo Công văn số 2037/UBND-KGVX của UBND tỉnh Tiền Giang về việc tạm dừng các hoạt động vui chơi, giải trí, thể thao có tập trung đông người và thực hiện giãn cách tại các điểm kinh doanh ăn, uống, cơ sở lưu trú phòng, chống dịch Covid-19 đến các cơ sở lưu trú du lịch; khu, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh Tiền Giang. Khách du lịch đến trong tháng 5/2021 được 43,9 ngàn lượt khách, giảm 9,6% so tháng trước và tăng 7,4% so cùng kỳ; trong đó: khách du lịch quốc tế 0,7 ngàn lượt khách, gấp 6,5 lần so cùng kỳ. Doanh thu lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác trong tháng 5 đạt 1.124,2 tỷ đồng, giảm 3,1% so tháng trước và tăng 22% so cùng kỳ. Tính chung năm tháng đầu năm 2021, lượt khách du lịch đến Tiền Giang là 243,5 ngàn lượt khách, đạt 22,1% kế hoạch và giảm 36,4% so cùng kỳ; trong đó: khách quốc tế 4 ngàn lượt khách, đạt 0,9% kế hoạch, giảm 95,8% so cùng kỳ. Tổng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch, dịch vụ tiêu dùng khác đạt 5.778 tỷ đồng, tăng 34,8% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ ăn uống chiếm tỷ trọng 47,6%, ước đạt 2.748 tỷ đồng, tăng 34%, lưu trú đạt 16 tỷ đồng, giảm 39,3% so cùng kỳ... 5. Vận tải: Hoạt động giao thông vận tải trên địa bàn tỉnh hoạt động bình thường tiếp tục thực hiện các biện pháp đảm bảo phòng chống dịch Covid-19 theo công văn số 767/SGTVT-VTPTNL ngày 28/4/2021 tiếp tục tăng cường phòng, chống dịch bệnh Covid-19; Công văn số 770/SGTVT-VTPTNL ngày 29/4/2021 tiếp tục tăng cường các giải pháp phòng, chống dịch bệnh Covid-19; Công văn số 788/SGTVT-VTPTNL ngày 03/5/2021 triển khai thực hiện; Công văn số 1919/UBND-KGVX ngày 02/5/2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh. Các phương tiện vận tải hành khách thược hiện đúng quy định như: thực hiện khai báo y tế; thường xuyên rửa tay bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn có ít nhất 60% nồng độ cồn; kiểm tra thân nhiệt; hạn chế giao tiếp, ăn uống trên phương tiện vận tải khách; khử khuẩn các bề mặt trên phương tiện vận tải hành khách trước và ngay sau khi kết thúc chuyến đi. Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải trong tháng thực hiện 175 tỷ đồng, tăng 1,8% so tháng trước và tăng10,4% so cùng kỳ. Năm tháng thực hiện 850 tỷ đồng, tăng 0,9% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 247 tỷ đồng, tăng 4,7%; doanh thu vận tải hàng hóa thực hiện 520 tỷ đồng, tăng 0,8% so cùng kỳ. Doanh thu vận tải đường bộ thực hiện 434 tỷ đồng, tăng 9,2%; doanh thu vận tải đường thủy thực hiện 332 tỷ đồng, giảm 6%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 84 tỷ đồng, giảm 8,1% so cùng kỳ. Vận tải hành khách trong tháng đạt 2.775 ngàn hành khách, giảm 1,3% so tháng trước và giảm 3,9% so cùng kỳ; luân chuyển 53.731 ngàn hành khách.km, tăng 0,3% so tháng trước và tăng 20,6% so cùng kỳ. Năm tháng, vận chuyển 13.911 ngàn hành khách, tăng 1,8% so cùng kỳ; luân chuyển 268.696 ngàn hành khách.km, tăng 11,5% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 6.679 ngàn hành khách, tăng 12,8% và luân chuyển 258.614 ngàn hành khách.km, tăng 13,6% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 7.232 ngàn hành khách, giảm 6,5% và luân chuyển 10.082 ngàn hành khách.km, giảm 24,3% so cùng kỳ. Vận tải hàng hóa trong tháng đạt 1.025 ngàn tấn, tăng 1,7% so tháng trước và tăng 5,1% so cùng kỳ; luân chuyển 130.993 ngàn tấn.km, tăng 2,8% so tháng trước và tăng 4,9% so cùng kỳ. Năm tháng, vận tải 4.874 ngàn tấn hàng hóa, tăng 0,9% so cùng kỳ; luân chuyển 613.552 ngàn tấn.km, giảm 2,4% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 1.236 ngàn tấn, tăng 18,8% và luân chuyển 128.147 ngàn tấn.km, giảm 1,8% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 3.638 ngàn tấn, giảm 4% và luân chuyển 485.405 ngàn tấn.km, giảm 2,6% so cùng kỳ. * Công tác quản lý phương tiện giao thông: Trong tháng đăng ký mới 5.729 chiếc xe mô tô xe máy, 311 chiếc xe ô tô, 08 chiếc xe đạp điện và 08 chiếc xe khác. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.344.219 chiếc, trong đó: mô tô xe máy 1.302.908 chiếc, 40.559 chiếc xe ô tô, 153 chiếc xe ba bánh, 174 chiếc xe đạp điện và 425 chiếc xe khác. 6. Bưu chính viễn thông: Doanh thu trong tháng 5/2021 đạt 267 tỷ đồng, tăng 0,7% so tháng trước và tăng 4,7% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 24 tỷ đồng, tăng 3,7% và viễn thông 243 tỷ đồng, tăng 0,4% so tháng trước. Năm tháng doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 1.311 tỷ đồng, tăng 5,7% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 114 tỷ đồng, tăng 13,8% và viễn thông 1.197,8 tỷ đồng, tăng 5% so cùng kỳ. Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 5/2021 là 100.797 thuê bao, mật độ bình quân đạt 5,7 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Thuê bao internet có trên mạng cuối tháng 5/2021 là 273.915 thuê bao, mật độ internet bình quân đạt 15,5 thuê bao/100 dân. Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa dẫn đến khách hàng dần chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Số thuê bao điện thoại di động có sử dụng internet (3G, 4G) đến cuối tháng 4 năm 2021 là 1.359.341 thuê bao. V. TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG 1. Tài chính: Tổng thu ngân sách nhà nước trong tháng thực hiện 892 tỷ đồng; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn 738 tỷ đồng, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 280 tỷ đồng. Năm tháng, thu 8.017 tỷ đồng, đạt 59,7% dự toán; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 4.496 tỷ đồng, đạt 42,4% dự toán và tăng 0,3% so cùng kỳ; thu nội địa 4.406 tỷ đồng, đạt 42,6% dự toán, tăng 1% so cùng kỳ (trong thu ngân sách trên địa bàn: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.496 tỷ đồng, đạt 43,4% dự toán, tăng 2,2% so cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 529 tỷ đồng, đạt 37,8% dự toán, giảm 6,5% so cùng kỳ...). Tổng chi ngân sách nhà nước trong tháng 920 tỷ đồng; trong đó: chi đầu tư phát triển 305 tỷ đồng. Năm tháng, chi 5.633 tỷ đồng, đạt 46% dự toán, giảm 33,7% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 1.583 tỷ đồng, đạt 42,7% dự toán, giảm 29,3% so cùng kỳ; chi hành chính sự nghiệp 2.556 tỷ đồng, đạt 37,2% dự toán và giảm 11,4% so cùng kỳ. 2. Ngân hàng: Nhiệm vụ trọng tâm hoạt động ngân hàng tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2021, Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ; Chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 07/01/2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN), đồng thời tiếp tục thực hiện Thông tư 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 và Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 31/3/2020 của NHNNVN. Ngoài ra các TCTD chấp hành nghiêm mức trần lãi suất theo quy định trên địa bàn tỉnh, đến cuối tháng 4/2021, lãi suất cho vay như sau: Lãi suất cho vay VND phổ biến ở mức trên 4,5%-9%/năm đối với ngắn hạn, chiếm 43,89% tổng dư nợ cho vay trên 11%-13%/năm đối với trung dài hạn. Lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức 3%-5,5%/năm. Đến cuối tháng 4/2021, vốn huy động đạt 76.388 tỷ đồng, tăng 0,7% so cuối năm 2020 (thấp hơn so với cùng kỳ năm trước 0,12%). Cơ cấu vốn huy động theo loại hình như sau: Tiền gửi từ tổ chức kinh tế thực hiện 10.130 tỷ đồng, tăng 7,22% so với cuối năm 2020, chiếm tỷ trọng 13,26%; Tiền gửi tiết kiệm từ dân cư: đạt 65.231 tỷ đồng, giảm 0,57% so với cuối năm 2020, chiếm tỷ trọng 85,39%; Phát hành giấy tờ có giá: đạt 1.026 tỷ đồng, tăng 28,50%, chiếm tỷ trọng 1,34%. Ước đến cuối tháng 5/2021, vốn huy động đạt 76.471 tỷ đồng, tăng 622 tỷ, tỷ lệ tăng 0,82% so với cuối năm 2020. Nợ xấu: cuối tháng 4/2021, số dư là 833,8 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,2%, giảm 0,04% so cuối năm 2020, Trong đó NHTM nhà nước là 1,02%; khối còn lại là 1,31%.Tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp, nằm trong sự kiểm soát, có chuyển biến tích cực theo chiều hướng giảm. Trong đó, nợ nhóm 3 chiếm 7,05%, nhóm 4 chiếm 28,34%, nhóm 5 chiếm 63,89%. Ước đến cuối tháng 5/2021, nợ xấu là 844 tỷ đồng, tỷ lệ 1,21%, giảm 0,04% so với cuối năm 2020. Quỹ tín dụng nhân dân: đến cuối tháng 4/2021, tổng nguồn vốn hoạt động đạt 1.230 tỷ đồng, tăng 98 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 8,7% so tháng 12/2020, trong đó: vốn điều lệ chiếm 2,7%, vốn huy động chiếm 88,8%; tổng dư nợ cho vay đạt 873 tỷ đồng, tăng 22,4 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 2,6% so tháng 12/2020, trong đó dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng 43,1%. Nợ xấu: số dư 6 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 0,69%, tăng 0,3% so tháng 12/2020. * Kết quả thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19: Đến cuối tháng 4/2021, tổng dư nợ bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 là 9.910 tỷ đồng. Trong đó, khách hàng doanh nghiệp bị ảnh hưởng chiếm 56,7%, khách hàng cá nhân chiếm 42,4%. Một số ngành có tỷ lệ dư nợ bị ảnh hưởng lớn là: Công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 37,6% tổng dư nợ bị ảnh hưởng và 5,4% dư nợ của ngành); bán buôn và bán lẻ (23,5% và 3,4%); hoạt động dịch vụ (15,2% và 2,2%);.....Các TCTD đã triển khai có hiệu quả các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho 3.421 khách hàng: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho 268 khách hàng với dư nợ được cơ cấu là 139 tỷ đồng; Miễn giảm lãi cho 131 khách hàng với dư nợ 30 tỷ đồng; Cho vay mới với lãi suất ưu đãi thấp hơn so với lãi suất cho vay trước khi có dịch 3.022 khách hàng với doanh số cho vay mới lũy kế từ ngày 23/01/2020 đạt 24.680 tỷ đồng. Thực hiện Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 và Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020 sửa đổi, bổ sung NQ42: Đến cuối tháng 03/2021, NHCSXH tỉnh đã giải ngân cho vay đối với 6 đơn vị với dư nợ đạt 978 triệu đồng. Thời gian vay là 12 tháng, lãi suất là 0%/năm. VI. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Lao động việc làm: Trong tháng tư vấn cho 3.291 lượt lao động, giới thiệu việc làm cho 340 lượt lao động, tăng 276 lượt lao động so với cùng kỳ năm 2020, đã giới thiệu cho 173 lao động có được việc làm ổn định, tăng 140 lao động so với cùng kỳ năm 2020. Có 07 lao động xuất cảnh chính thức theo hợp đồng, trong đó xuất cảnh qua Nhật Bản là 02 lao động, Đài Loan là 05 lao động. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Tiền Giang tiếp nhận được 1.784 người đăng ký thất nghiệp, quyết định 1.706 trường hợp hưởng trợ cấp thất nghiệp với tổng số tiền chi trả tương đương 30.532 triệu đồng, tăng 3.394 triệu đồng; thực hiện tư vấn, giới thiệu việc làm cho 1.784 lượt lao động thất nghiệp và có 05 lao động thất nghiệp đăng ký học nghề, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2020. 2. Chính sách xã hội: Quỹ đền ơn đáp nghĩa đã vận động được 1,39 tỷ đồng đạt 14% kế hoạch; xây dựng 07 căn nhà tình nghĩa với kinh phí 280 triệu đồng đạt 6% kế hoạch; sửa chữa 12 căn nhà tình nghĩa với số tiền 240 triệu đồng đạt 24% kế hoạch. 3. Hoạt động y tế: Trong tháng 5 có 9/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận 8 bệnh tăng so với cùng kỳ (Lao phổi, tay chân miệng, tiêu chảy, uốn ván khác, viêm gan siêu vi A, viêm gan siêu vi B, viêm não vi rút khác, covid-19); 7 bệnh giảm so với cùng kỳ (ho gà, lỵ a míp, quai bị, sởi, sốt xuát huyết, thủy đậu, viêm gan siêu vi C); 29 bệnh tương đương và hoặc không xảy ra ca mắc; không ghi nhận tử vong do bệnh truyền nhiễm. Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết: Trong tháng ghi nhận 193 ca mắc SXHD, cộng dồn số ca mắc 1.075 ca giảm 5,5% so với cùng kỳ năm 2020. Phòng chống HIV/AIDS: Tính đến thời điểm hiện tại toàn tỉnh có 5.842 người nhiễm HIV; 1.802 người chuyển sang AIDS; tử vong do AIDS: 991 người. Không ghi nhận ngộ độc thực phẩm xãy ra trên địa bàn. Hoạt động khám chữa bệnh so với cùng kỳ năm 2020: Tổng số lần khám bệnh tăng 13,9%, tổng số người điều trị nội trú tăng 28,6%, tổng số ngày điều trị nội trú tăng 36,2%. Công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong tháng đạt 76%. 4. Hoạt động giáo dục: Trong bối cảnh dịch bệnh Covid -19 diễn biến phức tạp, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Tiền Giang đã điều chỉnh lịch học theo công văn số 2171/UBND-KGVX của UBND tỉnh Tiền Giang nhằm đảm bảo phòng, chống dịch bệnh xâm nhập, lây lan trong môi trường học đường, trong đó các cơ sở giáo dục mầm non cho trẻ nghỉ hè từ ngày 17/5/2021; lớp 9 và lớp 12 tiếp tục thực hiện việc dạy, học tập trung trực tiếp tại trường học kết hợp dạy, học trực tuyến để đảm bảo chương trình năm học theo quy định; các khối, lớp còn lại từ ngày 17/5/2021 chuyển đổi hình thức từ dạy và học tập trung, trực tiếp trên lớp sang hình thức dạy, học trực tuyến hoặc các hình thức khác phù hợp với điều kiện của các đơn vị để đảm bảo hoàn thành chương trình giáo dục theo quy định... Bên cạnh đó, ngành Giáo dục và Đào tạo đã tập trung thực hiện các hoạt động chuyên môn, hoàn thành nhiệm vụ năm học năm học 2020-2021; tập trung chuẩn bị cho công tác tuyển sinh lớp 6 và lớp 10 năm 2021, kỳ thi THPT năm 2021. 5. Hoạt động văn hóa - thể thao: Thư viện tỉnh Tiền Giang đã phục vụ được 5.690 lượt bạn đọc (tại Thư viện tỉnh và phục vụ tại các trường học), với 27.691 lượt sách báo được đưa ra lưu hành. Trong tháng 5/2021, hệ thống thư viện huyện, thư viện xã đã tiếp được 13.547 lượt bạn đọc, với 23.423 lượt sách báo lưu hành. Ngoài ra, Thư viện Tiền Giang cũng đã tổ chức những hoạt động như: ngày hội đọc sách tại huyện Chợ Gạo; chuyến xe tri thức tại huyện Cai Lậy và tổ chức Ngày Hội đọc sách và vẽ tranh cho thiếu nhi tại huyện Châu Thành và phục vụ thư viện lưu động thông minh ở 05 Trường Tiểu học, THCS trên địa bàn Thành phố Mỹ Tho. Hoạt động thể dục – thể thao trên địa bàn tỉnh tiếp tục duy trì và đạt được nhiều thành tích nổi bật, trong đó: Đội Muay tham dự giải vô địch Muay quốc gia năm 2021, từ ngày 08/4 – 20/4/2021 tại Thanh Hóa với kết quả đạt 01 Huy chương Vàng và 03 Huy chương Đồng; Đội Vovinam tham dự giải vô địch các đội mạnh Vovinam toàn quốc, từ ngày 14/4 – 23/4/2021 tại Bà Rịa – Vũng Tàu với kết quả đạt 01 Huy chương Vàng, 02 Huy chương Bạc, 06 Huy chương Đồng; Đội Điền kinh tham dự giải Điền kinh Cúp tốc độ thống nhất TP. Hồ Chí Minh, từ ngày 20/4 – 25/4/2021 tại TP. Hồ Chí Minh với kết quả đạt 07 Huy chương Vàng, 04 Huy chương Bạc, 03 Huy chương Đồng; Đội Bóng đá tuyển tham dự giải Bóng đá hạng Nhì quốc gia năm 2021: Ngày 04/5/2021, thi đấu giữa Tiền Giang và Vĩnh Long, trên sân Tiền Giang, kết quả thắng tỉ số 1 – 0. 6. Tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội: (Theo báo cáo của ngành công an) Tội phạm về trật tự xã hội trong tháng 5/2021 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 138 vụ (giảm 01 vụ so với tháng 4/2021), làm chết 02 người, bị thương 18 người, tài sản thiệt hại trị giá khoảng 3,6 tỷ đồng; điều tra khám phá bước đầu đạt tỷ lệ 49,3% (68 vụ), bắt xử lý 93 đổi tượng, thu hồi tài sản trị giá khoảng 126 triệu đồng. Phát hiện, xử lý 55 tụ điểm cờ bạc với 406 đối tượng liên quan (khởi tố 04 vụ, 06 bị can về hành vi đánh bạc và tổ chức đánh bạc); 21 vụ, 23 đối tượng phạm tội về ma túy và xử lý vi phạm hành chính 149 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; 09 vụ, 06 đối tượng vi phạm pháp luật về trật tự quản lý kinh tế và xử lý phạt tiền 13 vụ, 17 đối tượng vi phạm pháp luật về môi trường, vệ sinh an toàn thực pham, tài nguyên. 7. Trật tự an toàn giao thông: Theo báo cáo của ngành công an. Đường bộ: Tai nạn giao thông trong tháng xảy ra 53 vụ, giảm 03 vụ so tháng trước và tăng 05 vụ so cùng kỳ, làm chết 23 người, giảm 03 người so tháng trước và tăng 01 người so cùng kỳ, bị thương 37 người, giảm 07 người so tháng trước và tăng 09 người so cùng kỳ. Vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ trong tháng xảy ra 4.499 vụ, tăng 1.642 vụ so tháng trước và giảm 1.438 vụ so cùng kỳ. Đã xử lý tạm giữ giấy tờ và phương tiện 3.747 vụ, tước giấy phép lái xe 285 vụ, phạt tiền 752 vụ với số tiền phạt 4.097 triệu đồng. Đường thủy: Trong tháng không xảy ra, tương đương so tháng trước và giảm 02 vụ so cùng kỳ. Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ tai nạn, giảm 02 vụ so với cùng kỳ (không phát sinh số người chết và bị thương). Vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy trong tháng xảy ra 1.982 vụ, tăng 695 vụ so tháng trước và tăng 304 vụ so cùng kỳ; trong đó không bằng cấp chuyên môn 09 vụ, chở quá vạch mớn nước an toàn 1.731 vụ, thiếu trang thiết bị an toàn 31 vụ và vi phạm khác 211 vụ. Đã xử lý vi phạm: Lập biên bản tạm giữ giấy tờ 368 vụ và phạt tiền tại chỗ 1.614 vụ với số tiền phạt: 457 triệu đồng. 8. Tình hình cháy nổ, môi trường: Trong tháng 5 năm 2021 trên địa bàn tỉnh xảy ra 04 vụ cháy với tổng số tiền thiệt hại là 82 triệu đồng, gồm cháy 02 căn nhà dân (tự đốt 01 vụ, 01 vụ không yêu cầu điều tra) và 02 vụ lốc, cháy 01 doanh nghiệp và 01 phương tiện giao thông (đang điều tra nguyên nhân). Vi phạm môi trường: đã ban hành 04 quyết định xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực môi trường đối với 02 tổ chức và 02 cá nhân với số tiền xử phạt vi phạm hành chính trên 97 triệu đồng (02 tổ chức với số tiền 72 triệu đồng, 02 cá nhân với số tiền trên 25 triệu đồng).
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang Tháng 4 năm 2021
- 18/06/2024 16:21
I. SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ THỦY SẢN 1. Nông nghiệp Cây lương thực có hạt: trong tháng gieo trồng 102 ha, thu hoạch 137 ha với sản lượng 487 tấn; ước tính đến cuối tháng 04/2021, gieo trồng được 75.761 ha, đạt 56,6% kế hoạch, giảm 8.4% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch 371.681 tấn; trong đó: cây lúa gieo sạ 74.467 ha, thu hoạch 51.647 ha, sản lượng 367.759 tấn. - Cây lúa: + Vụ Đông Xuân 2020-2021: chính thức xuống giống 51.647 ha, đạt 100% kế hoạch gieo trồng của vụ, giảm 10,3% so cùng kỳ. Nguyên nhân giảm do chuyển từ diện tích trồng lúa sang trồng cây ăn quả cho giá trị kinh tế cao hơn như: sầu riêng, mít, thanh long,… Mặt khác, do hạn, mặn kéo dài ở khu vực phía đông chưa xả sổ kịp độ mặn nên một số diện tích không dám gieo trồng đã chuyển sang trồng rau, màu các loại. + Vụ Hè Thu: ước tính đến cuối tháng 04/2021 gieo trồng 22.820 ha, đạt 29,8% kế hoạch gieo trồng, vụ lúa này gieo trồng chủ yếu ở các huyện phía tây. - Cây ngô: trong tháng gieo trồng 102 ha, thu hoạch 137 ha với sản lượng 487 tấn. Đến nay gieo trồng được 1.294 ha, đạt 37% kế hoạch, bằng 59,5% so cùng kỳ, thu hoạch 1.100 ha, năng suất quy thóc 35,7 tạ/ha với sản lượng quy thóc 3.992 tấn, đạt 30,9% kế hoạch, bằng 63,9% so cùng kỳ do chịu ảnh hưởng một phần hạn mặn kéo dài và do những xã hệ Bảo định chuyển đổi sang trồng cây thanh long, một số cây ăn quả khác. Cây rau đậu các loại: trong tháng gieo trồng 2.434 ha, thu hoạch 2.290 ha với sản lượng 43.212 tấn. Đến nay gieo trồng được 32.121 ha, đạt 51,4% kế hoạch, tăng 6,5% so cùng kỳ, thu hoạch 28.226 ha với sản lượng 571.502 tấn, đạt 47,2% kế hoạch, tăng 6,5% so cùng kỳ (trong đó: rau các loại 31.957 ha, thu hoạch 28.163 ha với sản lượng 571.314 tấn). Chăn nuôi: ước thời điểm 01/04/2021 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 120,7 ngàn con, tăng 1,9%; đàn lợn 273 ngàn con, giảm 14%; đàn gia cầm (không kể chim cút) 17,5 triệu con, tăng 11% so cùng kỳ. Chăn nuôi lợn giảm so cùng kỳ do dịch bệnh còn nhiều nguy cơ tiềm ẩn, dịch tả lợn châu phi còn xảy ra trên địa bàn tỉnh, đàn lợn giống cũng không bảo đảm, người nuôi lo sợ khi tái đàn. Đa số các hộ nuôi nhỏ lẻ thua lỗ dẫn đến việc không còn vốn để tái đàn, một số hộ chuyển sang nuôi vật nuôi khác; Giá cả thịt lợn hơi thường xuyên liên tục biến động, người chăn nuôi không dự đoán được thị trường nên rất lo lắng khi tái đàn (thời điểm báo cáo: Giá lợn hơi dao động từ 70.000 - 75.000 đồng/kg). 2. Lâm nghiệp: Theo Quyết định số 466/QĐ-UBND ngày 01/3/2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang về công bố hiện trạng rừng đến 31/12/2020 thì trên địa bàn tỉnh: Tổng diện tích rừng hiện có là 1.948,1 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng) bao gồm: rừng phòng hộ: 1.337,4 ha, rừng sản xuất: 610,8 ha. Ước đến hết tháng 04/2021 toàn tỉnh thực hiện trồng mới được 5,4 ngàn cây nâng phân tán tổng số cây trồng 7,15 ngàn cây các loại, giảm 10,96% so với cùng kỳ do Nam Bộ đang vào mùa khô, nắng nóng và không có mưa nên chưa thuận lợi cho việc trồng cây phân tán. Các loại cây trồng chủ yếu là bạch đàn, xà cừ, tràm được trồng trên các bờ kênh, tuyến đê, ven sông. 3. Thủy hải sản: Diện tích nuôi thủy sản các loại trong tháng 1.446 ha, giảm 1% so cùng kỳ; ước đến tháng 04/2021 toàn tỉnh thả nuôi được 11.923 ha, đạt 78,5% kế hoạch và tăng 1,5% so cùng kỳ. Thủy sản nước ngọt nuôi 3.365 ha, tăng 5,3% so cùng kỳ. Nguyên nhân nuôi trồng thủy sản nước ngọt tăng là do ít bị ảnh hưởng hạn mặn kết hợp với mực nước nội đồng đủ nước nên các hộ tiến hành thả nuôi. Thủy sản nước mặn, lợ nuôi 8.558 ha, tăng 0,1% so cùng kỳ, diện tích tăng chủ yếu là nuôi tôm sú nuôi quảng canh và nuôi tôm thẻ chân trắng do độ mặn và thời tiết thích hợp thì tiến hành thả giống, các hộ nuôi tôm thâm canh và quảng canh cải tiến rất thận trọng trong việc chọn mua giống. Tình hình nuôi nghêu ổn định, các sân nuôi tiếp tục thu hoạch và thả nuôi nghêu trở lại, ngành chức năng tăng cường thực hiện quan trắc môi trường tại vùng nuôi nghêu tập trung. Sản lượng thủy sản trong tháng ước tính thu hoạch 29.060 tấn, tăng 1,7% so cùng kỳ. Bốn tháng thu hoạch 103.639 tấn, đạt 35,3% kế hoạch, tăng 17,9% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 49.880 tấn, đạt 30,7% kế hoạch, tăng 15,1% so cùng kỳ; sản lượng khai thác 53.759 tấn, chủ yếu là khai thác biển, đạt 41,1% kế hoạch, tăng 20,6% so cùng kỳ. Thời tiết thuận lợi cho hoạt động đánh bắt, hiện nay các phương tiện không còn đánh bắt nhỏ lẻ như trước đây mà đã tự nguyện gia nhập vào các tổ hợp tác hoặc hợp tác xã để thuận lợi hơn trong đánh bắt hải sản nhất là khi khai thác xa bờ dễ dàng tương trợ, phối hợp cùng nhau để đạt hiệu quả được cao hơn và an toàn hơn, nên ngư dân khai thác trúng mùa đạt sản lượng. II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 4/2021 giảm 13,3% so với tháng trước, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 làm cho một số ngành sản xuất công nghiệp chủ yếu của tỉnh giảm như: Sản xuất chế biến thực phẩm, sản xuất trang phục, sản xuất kim loại... Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 4 năm 2021 tăng 4,4% so cùng kỳ, do một số ngành chiếm tỷ trọng lớn tăng như: sản xuất đồ uống tăng 15,5%; sản xuất trang phục tăng 20,5%; sản xuất da tăng 63,3%... Sản xuất công nghiệp còn nhiều khó khăn, thiếu nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm ở đầu ra do ảnh hưởng của dịch Covid – 19. Hoạt động sản xuất chế biến xuất khẩu thủy sản do các chi phí sản xuất tăng và tình trạng thiếu tàu, thiếu container và cước phí vận tải lên cao, đặc biệt là cước tàu đi Mỹ và EU. Thị trường Trung Quốc vấn đề logistics khó khăn làm tắc nghẽn tại các cảng nhập khẩu chính, thị trường này siết chặt kiểm tra, kiểm soát virut corona đối với hàng thủy sản nhập khẩu càng khiến cho xuất khẩu thủy sản thêm khó khăn. Các doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ chưa ký được nhiều hợp đồng so cùng kỳ. Chỉ số sản xuất công nghiệp 4 tháng năm 2021 tăng 1,8% so cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,9%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 1%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 2,4%. Chỉ số sản xuất sản phẩm trong 4 tháng so cùng kỳ như sau: - Có 17/38 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo tăng 51,8%; Bộ com lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 49,5%; Giày, dép thể thao có đế ngoài và mũ giày bằng cao su và plastic tăng 31,1%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 30,9%;… - Có 21/38 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Tàu chở khách trọng tải > 26 tấn nhưng ≤ 500 tấn giảm 87,1%; Đồ chơi hình con vật hoặc sinh vật không phải hình người giảm 50,2%; Các bộ phận của bi, bánh răng, hộp số, các bộ phận điều khiển và truyền chuyển động khác giảm 45,6%; Dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu, thuyền giảm 31,4%; Dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 29,8%; Áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc giảm 21,2%;…. * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: - Chỉ số tiêu thụ tháng 4/2021 so với tháng trước giảm 6,4% và tăng 3% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 4/2021 giảm 7,9%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất đồ uống tăng 4,2%, trong đó sản xuất bia tăng 4,2%; Dệt tăng 14,1%, trong đó sản xuất hàng may sẳn tăng 95,3%; Sản xuất trang phục tăng 31,3%;…... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ là: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 19,5%, trong đó chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản giảm 36,1%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 13,5%; Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 7,7%; Sản xuất sản phẩm cao su và plastic giảm 11,%; Sản xuất kim loại giảm 14,4%; … - Chỉ số tồn kho tháng 4/2021 so với tháng trước tăng 5,9% và so với cùng kỳ tăng 24,5%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ là: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 69,2%, trong đó sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 60,4%; Sản xuất đồ uống tăng 3,2%, trong đó sản xuất bia tăng 3,2%; Sản xuất trang phục tăng 90,3%;…Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ là: Dệt giảm 2,7%, trong đó sản xuất sợi giảm 35,3%; Sản xuất da giảm 16,9%, trong đó sản xuất giày dép giảm 18,1%; Sản xuất kim loại giảm 36,5%;… III. ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện trong tháng là 299,6 tỷ đồng, tăng 14,5% so cùng kỳ. Bốn tháng đầu năm 2021 thực hiện 861,3 tỷ đồng, đạt 23,5% kế hoạch, tăng 19,4% so cùng kỳ. Các ngành các cấp yêu cầu Ban quản lý dự án, chủ đầu tư tập trung điều kiện đẩy nhanh tiến thi công đối với các công trình chuyển tiếp, đồng thời hoàn chỉnh hồ sơ, đấu thầu đưa vào chuẩn bị khởi động xây dựng các công trình mới theo nghị quyết 39/NQ-HĐND ngày 10/12/2020 của Hội Đồng Nhân Dân tỉnh về kế hoạch đầu tư công năm 2021. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh thực hiện 681 tỷ đồng, đạt 22,9% kế hoạch, tăng 19,3% so cùng kỳ, chiếm 79,1% tổng số; trong đó: vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 113 tỷ đồng, tăng 18,5%, vốn xổ số kiến thiết thực hiện 309,8 tỷ đồng, tăng 15% so cùng kỳ... Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện 158 tỷ đồng, đạt 40,3% kế hoạch, tăng 20,6% so cùng kỳ, chiếm 18,2% tổng số; trong đó: vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 68 tỷ đồng, tăng 12% so cùng kỳ... Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp xã thực hiện 22 tỷ đồng, đạt 7,3% kế hoạch, tăng 15,2% so cùng kỳ, chiếm 2,5% tổng số; trong đó: vốn huyện hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 7,9 tỷ đồng, tăng 4% so cùng kỳ... IV. THƯƠNG MẠI - GIÁ CẢ - DỊCH VỤ 1. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng: Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong tháng thực hiện 5.600 tỷ đồng, tăng 1% so tháng trước và tăng 44,1% so cùng kỳ do trong tháng có các ngày nghỉ như: Giỗ Tổ Hùng vương, 30/4 nên nhu cầu một số nhóm hàng chiếm tỉ trọng dự kiến tăng tác động đến doanh thu. Bốn tháng đầu năm 2021, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thực hiện 22.981 tỷ đồng, đạt 32,7% kế hoạch, tăng 19,8% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 18.312 tỷ đồng, tăng 15,7%; lưu trú 13 tỷ đồng, giảm 45,9%; ăn uống 2.206 tỷ đồng, tăng 33,3%; du lịch lữ hành 5 tỷ đồng, giảm 65,7%; dịch vụ tiêu dùng khác 2.444 tỷ đồng, tăng 46,1% so cùng kỳ. 2. Xuất - Nhập khẩu: a. Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng thực hiện 348 triệu USD; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 36 triệu USD, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 311 triệu USD. Bốn tháng xuất khẩu 1.099,9 triệu USD, đạt 33,8% kế hoạch, tăng 29% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 4 triệu USD, tăng 2,5 lần; kinh tế ngoài nhà nước 148 triệu USD, giảm 22,1%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 948 triệu USD, tăng 43,8% so cùng kỳ. Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của tỉnh như sau: - Thủy sản: ước tính tháng 4/2021 xuất 8.958 tấn, với trị giá 17,8 triệu USD. Bốn tháng xuất 31.674 tấn, giảm 3,2%; giá trị xuất 66,9 triệu USD, đạt 20,9% kế hoạch, giảm 18,6% so cùng kỳ. - Gạo: ước tính tháng 4/2021 xuất 9.890 tấn, với giá trị 5,5 triệu USD. Bốn tháng xuất 38.814 tấn, giảm 37,5%; giá trị xuất 21,6 triệu USD, đạt 15,4% kế hoạch, giảm 25,7% so cùng kỳ. - Hàng dệt, may: ước tính tháng 4/2021 xuất 14.332 ngàn sản phẩm, với giá trị 36,4 triệu USD. Bốn tháng xuất 49.837 ngàn sản phẩm, giảm 29%; giá trị xuất 138 triệu USD, đạt 23% kế hoạch, giảm 6,1% so cùng kỳ. - Kim loại thường và sản phẩm (kể cả đồng): ước tính tháng 4/2021 xuất 11.217 tấn, với giá trị 100,6 triệu USD. Bốn tháng xuất 36.868 tấn, tăng 10,4%; giá trị xuất 319 triệu USD, tăng 45,7% so cùng kỳ. - Giày dép các loại: ước tính tháng 4/2021 xuất 17.900 tấn, với giá trị 72,2triệu USD. Bốn tháng xuất 27.959 tấn, tăng 3,3 lần; giá trị xuất 212,9 triệu USD, tăng 57,4% so cùng kỳ. Ngoài các mặt hàng chủ yếu, trị giá xuất khẩu một số mặt hàng trong 4 tháng năm 2021 như: túi xách, vali, mũ và ô dù 76,6 triệu USD, giảm 20,6%; giày dép các loại 212,9 triệu USD, tăng 57,4%; xơ, sợi dệt các loại 34,9 triệu USD, tăng 36,6%... so cùng kỳ. b. Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng 4/2021 đạt 215,7 triệu USD. Bốn tháng, kim ngạch nhập khẩu 778,4 triệu USD, đạt 43,2% kế hoạch, tăng 41,9% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước nhập khẩu 37,1 triệu USD, tăng 2,2%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập 741,3 triệu USD, tăng 44,7% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu 4 tháng chủ yếu các mặt hàng như kim loại thường khác 368,7 triệu USD, tăng 40%; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 126,9 triệu USD, tăng 76,2%; vải các loại 51,7 triệu USD, giảm 20,9%... so cùng kỳ. 3. Chỉ số giá: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2021 tăng 0,16% so tháng 3/2021 (thành thị tăng 0,1%, nông thôn tăng 0,17%); so cùng kỳ tăng 3,73%. So với tháng 3/2021, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 06 nhóm tăng: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,39%; May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,03%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,16%; Giao thông tăng 0,96%; Giáo dục tăng 0,01% và nhóm văn hoá, giải trí, du lịch tăng 0,02%. Có 03 nhóm giảm: Đồ uống và thuốc lá giảm 0,26%; Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,34% và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,05%. Các nhóm hàng hóa còn lại chỉ số giá ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2021 tăng so tháng 3/2021 do: - Hiện nay tình hình dịch bệnh COVID-19 được kiểm soát tốt, một số lĩnh vực dịch vụ bắt đầu phục hồi và hoạt động trở lại như: công ty, cơ sở sản xuất kinh doanh và các khu vui chơi giải trí... Bênh cạnh đó một số bếp ăn tập thể hoạt động trở lại, tác động giá thực phẩm tươi sống tăng nhẹ so với tháng trước như: thịt gia cầm tươi sống tăng 1,93%, trứng các loại tăng 2,05%, thuỷ sản tươi sản sống tăng 0,6%; rau tươi, khô và chế biến tăng 1,79%; quả tươi, chế biến tăng 2,71%... tác động đến nhóm thực phẩm tăng 0,65%, làm cho CPI chung tăng 0,14%. - Mùa khô thuận lợi cho ngành xây dựng hoạt động, nên giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở chính (sắt, thép) tăng 0,53%. Cùng với đó, giá dịch vụ sửa nhà ở tăng 0,69% so với tháng trước. - Do ảnh hưởng giá xăng dầu thế giới, ngày 27/3 và ngày 12/4/2021 giá xăng, dầu trong nước điều chỉnh biến động 02 đợt, tính chung: giá xăng A95-III tăng 90 đồng/lít, xăng E5 sinh học tăng 80 đồng/lít, riêng dầu Diezen 0,05S giảm 260 đồng/lít, tác động chỉ số giá nhóm nhiên liệu tăng 1,99%, góp phần làm tăng CPI chung khoảng 0,09%. Bên cạnh đó, một số mặt hàng có chỉ số giá giảm nhưng tỷ trọng quyền số nhỏ nên tác động chưa đủ lớn đến chỉ số giá tiêu dùng chung như: - Giá gạo giảm 0,85% so tháng trước, nguyên nhân do vụ thu hoạch lúa Đông xuân của tỉnh năng suất thu hoạch đạt 71,2 tạ/ha, tăng 7,9% so cùng kỳ, sản lượng dồi dào, giá bán lẻ giảm nhẹ so với tháng trước. - Giá thịt lợn giảm 0,77% so với tháng trước (làm CPI chung giảm 0,02%), trong đó khu vực thành thị giảm 1,73%; khu vực nông thôn giảm 0,64%. Giá thịt lợn giảm do dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát, nguồn cung thịt lợn trong nước được đảm bảo, đủ đáp ứng cho người tiêu dùng. - Giá điện sinh hoạt giảm 0,88% so với tháng trước, nguyên nhân do trong tháng ngành Điện lực thường xuyên (cúp điện) để sửa chữa bảo trì mạng lưới điện trên hệ thống; mặc khác số lượng khách hàng của tỉnh sử dụng điện lưới quốc gia chuyển sang sử dụng điện năng lượng mặt trời đang có xu hướng tăng lên (toàn tỉnh có 1.759 khách hàng sử dụng điện năng lượng mặt trời). - Giá gas giảm 5,86%, tương ứng giảm 20.500 đồng/bình 12 kg vào ngày 01/4/2021, giá dầu hoả giảm 0,3% tương ứng giảm 350 đồng/lít vào ngày 27/3 và ngày 12/4/2021, tác động chỉ số giá nhóm gas và các loại chất đốt khác giảm 5,46%, góp phần làm giảm CPI chung khoảng 0,07%. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 4 tháng năm 2021 so cùng kỳ tăng 2%; một số nhóm hàng có giá tăng nhiều trong 4 tháng năm 2021 so cùng kỳ như: nhóm giáo dục tăng 4,7%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,89%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,72%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,64%; may mặc, mũ nón, giầy dép 2,05%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,53%... Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 4/2021 giảm 0,96% so tháng trước, giá bình quân tháng 4/2021 là 5.267 ngàn đồng/chỉ, tăng 727 ngàn đồng/chỉ so cùng kỳ. Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 4/2021 tăng 0,15% so tháng trước, giá bình quân 23.176 đồng/USD, tăng 417 đồng/USD so cùng kỳ. 4. Du lịch: Khách du lịch đến trong tháng 4/2021 được 49,5 ngàn lượt khách, giảm 0,2% so tháng trước và tăng 5,6 lần so cùng kỳ; trong đó: khách du lịch quốc tế 0,8 ngàn lượt khách, giảm 3,5% so tháng trước. Doanh thu lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác trong tháng 4 đạt 1.175 tỷ đồng, tăng 2,7% so tháng trước và tăng gắp 3 lần so cùng kỳ. Trong tháng có các ngày nghỉ Lễ như Giỗ Tổ Hùng Vương và ngày Giải phóng miền Nam 30/4 nên hoạt động lưu trú tăng. Tuy nhiên do tình hình Covid-19 ở các nước tiếp giáp với nước ta như: Campuchia và Thái Lan (tiếp giáp biên giới các tỉnh phía Nam) đang bùng phát và diễn biến rất phức tạp, tâm lý người dân e dè tổ chức các chuyến đi du lịch. Tính chung bốn tháng đầu năm 2021, lượt khách du lịch đến Tiền Giang là 200 ngàn lượt khách, đạt 18,2% kế hoạch, giảm 41,4% so cùng kỳ; trong đó: khách quốc tế 3,3 ngàn lượt khách, đạt 0,6% kế hoạch, bằng 3,5% so cùng kỳ. Tổng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch đạt 4.668,5 tỷ đồng, tăng 38,7% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ ăn uống chiếm tỷ trọng 47,3%, ước đạt 2.206 tỷ đồng, tăng 33,3%, lưu trú đạt 13 tỷ đồng, giảm 45,9% so cùng kỳ... 5. Vận tải: Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải trong tháng thực hiện 167 tỷ đồng, tăng 2,4% so tháng trước và tăng 45,2% so cùng kỳ. Bốn tháng thực hiện 669 tỷ đồng, giảm 2% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 196 tỷ đồng, tăng 1,3%; doanh thu vận tải hàng hóa thực hiện 407 tỷ đồng, giảm 1,7% so cùng kỳ. Doanh thu vận tải đường bộ thực hiện 345 tỷ đồng, tăng 6,4%; doanh thu vận tải đường thủy thực hiện 259 tỷ đồng, giảm 8.8%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 66 tỷ đồng, giảm 12,3% so cùng kỳ. Vận tải hành khách trong tháng đạt 2.762 ngàn hành khách, tăng 3% so tháng trước và tăng 91% so cùng kỳ; luân chuyển 53.156 ngàn hành khách.km, tăng 3,4% so tháng trước và tăng 2,2 lần so cùng kỳ. Bốn tháng, vận chuyển 11.073 ngàn hành khách, tăng 2,8% so cùng kỳ; luân chuyển 214.558 ngàn hành khách.km, tăng 9,3% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 5.302 ngàn hành khách, tăng 11% và luân chuyển 206.494 ngàn hành khách.km, tăng 11,5% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 5.771 ngàn hành khách, giảm 3,7% và luân chuyển 8.064 ngàn hành khách.km, giảm 27,5% so cùng kỳ. Vận tải hàng hóa trong tháng đạt 962 ngàn tấn, tăng 1,9% so tháng trước và tăng 19,5% so cùng kỳ; luân chuyển 118.194 ngàn tấn.km, tăng 1,9% so tháng trước và tăng 15,6% so cùng kỳ. Bốn tháng, vận tải 3.803 ngàn tấn hàng hóa, giảm 1,4% so cùng kỳ; luân chuyển 473.308 ngàn tấn.km, giảm 6,1% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 968 ngàn tấn, tăng 14,4% và luân chuyển 101.168 ngàn tấn.km, giảm 5% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 2.835 ngàn tấn, giảm 5,8% và luân chuyển 372.140 ngàn tấn.km, giảm 6,4% so cùng kỳ. 6. Bưu chính viễn thông: Doanh thu trong tháng 4/2021 đạt 260 tỷ đồng,tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 5,6% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 22 tỷ đồng, tăng 1% và viễn thông 238 tỷ đồng, tăng 1,1% so tháng trước. Bốn tháng doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 1.017 tỷ đồng, tăng 3,5% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 86 tỷ đồng, tăng 12,6% và viễn thông 931 tỷ đồng, tăng 2,8% so cùng kỳ. V. TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG 1. Tài chính: Tổng thu ngân sách nhà nước trong tháng thực hiện 980,7 tỷ đồng; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn 817,7 tỷ đồng, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 262 tỷ đồng. Bốn tháng, thu 6.893,3 tỷ đồng, đạt 51,3% kế hoạch, giảm 31,1% so cùng kỳ; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 3.752 tỷ đồng, đạt 35,4% dự toán và giảm 3,1% so cùng kỳ; thu nội địa 3.692 tỷ đồng, đạt 35,7% dự toán, giảm 2,9% so cùng kỳ (trong thu ngân sách trên địa bàn: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.202 tỷ đồng, đạt 34,8% dự toán, giảm 4,2% so cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 465 tỷ đồng, đạt 33,2% dự toán, giảm 5,6% so cùng kỳ, thu từ hoạt động xổ số kiến thiết 643 tỷ đồng, đạt 39% dự toán, giảm 4,3% so cùng kỳ... Tổng chi ngân sách nhà nước trong tháng 870 tỷ đồng; trong đó: chi đầu tư phát triển 305 tỷ đồng. Bốn tháng, chi 4.755,1 tỷ đồng, đạt 38,8% dự toán, giảm 35,1% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 1.312,4 tỷ đồng, đạt 35,4% dự toán, giảm 28,5% so cùng kỳ; chi hành chính sự nghiệp 1.970,7 tỷ đồng, đạt 28,7% dự toán và giảm 9,8% so cùng kỳ. 2. Ngân hàng: Mặt bằng lãi suất cho vay trên địa bàn ổn định, góp phần hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí khi vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh. Lãi suất cho vay VND phổ biến ở mức trên 4,5%-9%/năm đối với ngắn hạn, đối với trung dài hạn trên 11%-13%/năm. Lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức 3%-5,5%/năm. Đặc biệt thực hiện chỉ đạo của NHNN về tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, một số chi nhánh đã triển khai chính sách về miễn, giảm lãi vay, cho vay mới. Đến cuối tháng 3/2021, vốn huy động đạt 75.978 tỷ đồng, giảm 0,22% so với cuối năm 2020. Ước đến cuối tháng 4/2021, vốn huy động đạt 76.174 tỷ đồng, tăng 30 tỷ, tỷ lệ tăng 0,1% so với cuối năm 2020. Tổng dư nợ toàn tỉnh đến cuối tháng 3 đạt 68.296 tỷ đồng, tăng 6,21% so với cuối năm 2020 (ngắn hạn chiếm 61,8%, trung dài hạn chiếm 38,2%). Ước đến cuối tháng 4/2021, dư nợ toàn tỉnh thực hiện 68.462 tỷ đồng, tăng 4.160 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 6,47% so với cuối năm 2020. Nhìn chung hoạt động cho vay 3 tháng đầu năm đạt mức tăng trưởng khá tốt, điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc hỗ trợ phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh. Cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tích cực tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh nhất là lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ. Kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tăng cường quản lý rủi ro đối với cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, tín dụng tiêu dùng. Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, góp phần hạn chế tín dụng đen. Nợ xấu: cuối tháng 3/2021, số dư là 829 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,21%, giảm 0,04% so với cuối năm 2020. Ước đến cuối tháng 4/2021, nợ xấu là 822 tỷ đồng, tỷ lệ 1,2%, giảm 0,1% so với cuối năm 2020.Tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp, nằm trong sự kiểm soát, có chuyển biến tích cực theo chiều hướng giảm. VII. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Lao động việc làm: Hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm: Trong tháng, tư vấn cho 2.724 lượt lao động, tăng 32,5% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó: tư vấn nghề cho 796 lượt lao động, tư vấn việc làm 255 lượt lao động, tư vấn việc làm cho 1.530 lượt lao động thất nghiệp, tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác cho 143 lượt lao động; giới thiệu việc làm cho 207 lượt lao động, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2020; đã giới thiệu cho 71 lao động có được việc làm ổn định, giảm 19,3% so với cùng kỳ năm 2020. Công tác đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng: Trong tháng, tư vấn cho 95 lượt lao động có nguyện vọng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, tăng 46,5% so với cùng kỳ năm 2020, có 04 lượt lao động đăng ký tham gia, giảm 66,7% so với cùng kỳ năm 2020; có 05 lao động xuất cảnh chính thức, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó xuất cảnh qua Nhật Bản là 01 lao động, Đài Loan là 04 lao động. Bảo hiểm thất nghiệp: Tiếp nhận được 1.695 người đăng ký thất nghiệp, tăng 22,5% so với cùng kỳ năm 2020, giải quyết 794 trường hợp hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 17,1% so với cùng kỳ năm 2020, với tổng số tiền chi trả tương đương 15.758 triệu đồng, giảm 1.278 triệu đồng, tương đương giảm 7,5% so với cùng kỳ năm 2020; thực hiện tư vấn, giới thiệu việc làm cho 1.672 lượt lao động thất nghiệp và có 14 lao động thất nghiệp đăng ký học nghề, tăng 21,8% so với cùng kỳ năm 2020. 2. Chính sách xã hội: Trong tháng 04/2021 Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện các chính sách dành cho người cho công, cụ thể: Lập danh sách, hồ sơ khám sức khỏe đối tượng Người có công đi viếng Lăng Bác Hồ, tham quan Thủ đô Hà Nội, thăm nhà tù Phú Quốc; đưa Cựu chiến binh đi tham quan nhà tù Côn Đảo năm 2021; Tổ chức xác minh, đối thoại 05 hồ sơ đề nghị trao tặng, truy tặng danh hiệu Bà mẹ VNAH tại các huyện: Châu Thành, Tân Phú Đông, Chợ Gạo, Gò Công Đông vàThị xã Cai Lậy; 01 hồ sơ bổ sung tình hình thân nhân liệt sĩ tại huyện Chợ Gạo; Theo dõi công tác đưa 206 người có công đi điều dưỡng tập trung tại Trung tâm điều dưỡng miền Trung (Đà Nẵng), thời gian từ 03/4-11/04/2021 của các huyện: Cái Bè, Cai Lậy, Gò Công Đông, thị xã Cai Lậy và thành phố Mỹ Tho. 3. Hoạt động y tế: Công tác quản lý bệnh truyền nhiễm: Trong tháng có 12/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận. So với cùng kỳ: Về số mắc, có 7 bệnh tăng (tay chân miệng, tiêu chảy, uốn ván khác, viêm gan siêu vi A, viêm gan siêu vi B, viêm não vi rút khác, covid-19); 9 bệnh giảm (ho gà, lao phổi, lỵ a míp, quai bị, sởi, sốt xuất huyết, thương hàn, thủy đậu, viêm gan siêu vi C); 28 bệnh tương đương hoặc không xảy ra ca mắc; không ghi nhận tử vong do bệnh truyền nhiễm Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết: Trong tháng ghi nhận 185 ca mắc, cộng dồn số ca mắc 880 ca giảm 14,3% so với cùng kỳ năm 2020, không xảy ra tử vong do mắc sốt xuất huyết. Tay chân miệng: Trong tháng 04/2021 ghi nhận 239 cas mắc, nâng tổng số cas mắc từ đầu năm đến nay là 789 cas, tăng 82,2% so với cùng kỳ. Phòng chống HIV/AIDS: Tính đến thời điểm hiện tại toàn tỉnh có 5.813 người nhiễm HIV; 1.798 người chuyển sang AIDS; 987 người tử vong do AIDS. An toàn thực phẩm: Xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm tại Công ty TNHH SUNGJIN Tiền Giang; địa chỉ ấp Hòa Lợi Tiểu xã Bình Ninh, huyện Chợ Gạo với số người mắc là 18 người; không có trường hợp tử vong do ngộ độc thực phẩm. Về hoạt động khám chữa bệnh: Tổng số lần khám bệnh tăng 10,8% và tổng số người điều trị nội trú tăng 12,7% so với cùng kỳ 2020. Công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong tháng đạt 74,3%, cụ thể: Các Bệnh Viện Đa khoa tuyến tỉnh (bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh, bệnh viện đa khoa khu vực cai lậy, Bv đa khoa khu vực Gò Công) đạt 92,6%; 05 BV chuyên khoa (BV Mắt, BV Phụ Sản, BV Y học Cổ Truyền, BV Lao và Bệnh Phổi, BV Tâm Thần) đạt 67,7%; Trung tâm Y tế huyện: 41,6%. Covid-19: Hoàn thành cách ly cho 219 người tại Trường Quân sự địa phương; Cách ly tập trung: tính đến ngày 15/04/2021 số đợt cách ly tập trung 15 đợt, tổng số người cách ly tập trung: tại Tiểu đoán Ấp Bắc, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh và cách ly tại các cơ sở y tế trong tỉnh là 3.558 người, hoàn thành cách ly 3.557 người, 01 công dân còn lại đang cách ly sau điều trị tại Bệnh viện Dã chiến Long Định; Cách ly tại khách sạn: tổng cộng 65 người (đã hoàn thành cách ly 63 người; đang cách ly 07 người), 01 chuyên gia nhập cảnh từ Đài Loan làm việc tại các công ty TNHH Giày Apache Việt Nam; 01 Công ty TNHH May mặc Eco Tank, kết quả xét nghiệm lần 01 âm tính và 05 chuyên gia thuộc Công ty Công ty TNHH YMUV (Nhập cảnh ngày 15/04/2021), hiện tại tất cả sức khỏe ổn định; Công tác điều trị tại Bệnh viện Dã chiến: Có 06 ca dương tính với SARS-CoV-2 đã điều trị khỏi và xuất viện 06 ca. 4. Hoạt động giáo dục: Trong tháng 04 năm 2021, Ngành Giáo dục và Đào tạo có các hoạt động khảo thí và quản lý chất lượng giáo dục, cụ thể: Tổ chức chấm thi học sinh giỏi cấp tỉnh THCS năm học 2020-2021; Tổ chức Hội nghị tập huấn nghiệp vụ tổ chức thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2021 dự kiến vào ngày 23/4/2021; Tổ chức Hội nghị tập huấn nghiệp vụ tổ chức tuyển sinh lớp 6 trung học cơ sở và lớp 10 trung học phổ thông năm học 2021-2022 dự kiến vào ngày 29/4/2021; Hướng dẫn kiểm tra học kỳ 2 năm học 2020-2021; Hướng dẫn các điểm tiếp nhận thu nhận hồ sơ đăng ký dự thi tốt nghiệp THPT năm 2021; Thông báo các đơn vị có liên quan đề xuất nhân sự thành lập Ban Chỉ đạo thi cấp tỉnh; Tổ chức đánh giá ngoài các trường Mầm non Mỹ Hạnh Trung (thị xã Cai Lậy), Mầm non Mỹ Tịnh An (huyện Chợ Gạo); Tổ chức khảo sát cơ sở vật chất tại các điểm trường dự kiến làm điểm thi tốt nghiệp THPT năm 2021; Tổ chức cho các trường biên soạn đề thi và tổ chức cho học sinh thi thử trực tuyến tốt nghiệp THPT năm 2021. 5. Hoạt động văn hóa – thể thao: Hoạt động bảo tàng Tiền Giang: Trong tháng 04 năm 2021, tại Bảo tàng và 04 di tích (Chiến thắng Ấp Bắc, Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Khu khảo cổ Óc Eo Gò Thành) thu hút được 7.159 lượt khách; bán được 1.249 vé các loại; Diễn ra các hoạt động trưng bày, phục vụ khách tham quan nhân ngày lễ Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2021. Hoạt động văn hóa nghệ thuật: Diễn ra các chương trình dạ khúc tri âm kỷ niệm 103 năm sân khấu cải lương ra đời tại rạp Thầy Năm Tú; họp mặt kỷ niệm 75 năm ngày Thể thao Việt Nam và giao lưu với đoàn cải lương nam bộ và nghệ sĩ nhà hát Trần Hữu Trang tại trung tâm Văn hóa – Nghệ thuật; 08 suất nhạc nước/buổi vào thứ Sáu, thứ Bảy hàng tuần (thu hút khoảng 1.200 lượt khách xem) Hoạt động thư viện tỉnh: đã phục vụ được 5.810 lượt bạn đọc (tại Thư viện tỉnh và phục vụ tại các trường học), với 30.508 lượt sách báo được đưa ra lưu hành. Trong tháng 4/2021, hệ thống thư viện huyện, thư viện xã đã tiếp được 12.805 lượt bạn đọc, với 22.034 lượt sách báo lưu hành. Hoạt động Thể dục - Thể thao đã diễn ra sôi nổi với đa dạng các môn thi đấu, cụ thể: Giải vô địch Bóng đá tỉnh Tiền Giang năm 2021 diễn ra từ ngày 08/03/2021 đến 18/03/2021; Giải Bóng bàn tỉnh Tiền Giang mở rộng lần thứ VII năm 2021diễn ra từ ngày 19/03 – 21/03/2021; Giải Bóng đá mini trẻ tỉnh Tiền Giang diễn ra từ ngày 19/03 – 24/03/2021; Hội thao kỷ niệm 75 năm Ngày thể thao Việt Nam; Đội PencakSilat tham dự giải vô địch PencakSilat toàn quốc năm 2021 diễn ra từ ngày 18/03 – 30/03/2021 tại Đà Nẵng (kết quả đạt 01 Huy chương Vàng); Đội Taekwondo tham dự giải vô địch Cúp các CLB Taekwondo toàn quốc năm 2021 diễn ra từ ngày 06/04 - 13/04/2021 tại Quảng Nam (Kết quả đạt 01 Huy chương Vàng, 02 Huy chương Bạc, 01 Huy chương Đồng); Đội Bóng đá tham dự giải Bóng đá Vĩnh Long mở rộng năm 2021, từ ngày 12/04 – 18/04/2021 tại Vĩnh Long; Đội Muay tham dự giải vô địch Muay quốc gia năm 2021 diễn ra từ ngày 08/04 – 20/04/2021 tại Thanh Hóa; Đội Vovinam tham dự giải vô địch các đội mạnh Vovinam toàn quốc, từ ngày 14/04 – 23/04/2021 tại Bà Rịa – Vũng Tàu. 6. Tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội:(Theo báo cáo của Ngành công an) Tội phạm về trật tự xã hội xảy ra 139 vụ (tăng 42 vụ so với tháng 03/2021), làm chết 02 người, bị thương 17 người, tài sản thiệt hại trị giá khoảng 4,5 tỷ đồng; điều tra khám phá bước đầu đạt tỷ lệ 46% (64 vụ), bắt xử lý 84 đối tượng. thu hồi tài sản trị giá khoảng 230 triệu đồng. Phát hiện, xử lý 29 tụ điểm, 215 đối tượng cờ bạc, 01 tụ điểm, 06 đối tượng mua bán dâm; 08 vụ, 09 đối tượng phạm tội về ma túy và xử lý vi phạm hành chính 145 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; 05 vụ, 03 đối tượng vi phạm pháp luật về trật tự quản lý kinh tế và 03 trường hợp vi phạm pháp luật về môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, tài nguyên. 7. Trật tự an toàn giao thông: Theo báo cáo của Ngành công an Giao thông đường bộ: Tai nạn giao thông trong tháng xảy ra 56 vụ giảm 13 vụ so tháng trước và tăng 31 vụ so cùng kỳ, làm chết 26 người giảm 02 người so tháng trước và tăng 09 người so cùng kỳ, bị thương 44 người giảm 09 người so tháng trước và tăng 32 người so cùng kỳ. Từ đầu năm đến nay, vi phạm 214 vụ tăng 133 vụ so cùng kỳ, làm chết 97 người tăng 38 người so cùng kỳ, bị thương 156 người tăng 117 người so cùng kỳ. Các nguyên nhân gây nên tai nạn giao thông chủ yếu vẫn do ý thức chấp hành Luật giao thông đường bộ của người tham gia giao thông như: Tốc độ 06 vụ; Sai làn đường, phần đường 09 vụ; Sử dụng rượu bia 02 vụ; Vượt xe 02 vụ; Không nhường đường 01 vụ; Thiếu chú ý quan sát 07 vụ; Không giữ khoảng cách an toàn 02 vụ; Bộ hành 04 vụ; Nguyên nhân khác 02 vụ và đang điều tra 21 vụ. Vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ trong tháng xảy ra 2.857 vụ giảm 518 vụ so tháng trước và giảm 5.074 vụ so cùng kỳ; trong đó không giấy phép lái xe 351 vụ, giấy phép không hợp lệ 04 vụ, chạy quá tốc độ qui định 83 vụ, không đội mũ bảo hiểm 790 vụ, đi sai làn đường 82 vụ, uống rượu điều khiển phương tiện 73 vụ, thiết bị an toàn không đảm bảo 678 vụ... Đã xử lý tạm giữ giấy tờ và phương tiện 2.139 vụ, tước giấy phép lái xe 90 vụ, phạt tiền 718 vụ với số tiền phạt 1.776 triệu đồng. Từ đầu năm đến nay, vi phạm 10.490 vụ giảm 10.348 vụ so cùng kỳ; trong đó không giấy phép lái xe 1.352 vụ, giấy phép không hợp lệ 16 vụ, chạy quá tốc độ qui định 326 vụ, không đội mũ bảo hiểm 2.902 vụ, đi sai làn đường 287 vụ, uống rượu điều khiển phương tiện 477 vụ, thiết bị an toàn không đảm bảo 2.101 vụ... Đã xử lý tạm giữ giấy tờ và phương tiện 8.172 vụ, tước giấy phép lái xe 491 vụ, phạt tiền 2.318 vụ với số tiền phạt 7.865 triệu đồng. Giao thông đường thủy: Trong tháng không xảy ra tại nạn. Tính từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ, tương đương so cùng kỳ (không phát sinh số người chết và bị thương). Vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy trong tháng xảy ra 1.287 vụ tăng 331 vụ so tháng trước và giảm 681 vụ so cùng kỳ; trong đó không bằng cấp chuyên môn 02 vụ, chở quá vạch mớn nước an toàn 1.156 vụ, thiếu trang thiết bị an toàn 22 vụ và vi phạm khác 107 vụ. Đã xử lý vi phạm: lập biên bản tạm giữ giấy tờ 225 vụ và phạt tiền 1.062 vụ với số tiền phạt: 303 triệu đồng. Từ đầu năm đến nay, vi phạm 4.131 vụ giảm 612 vụ so cùng kỳ. Trong đó không bằng cấp chuyên môn 06 vụ, chở quá vạch mớn nước an toàn 3.717 vụ, thiếu trang thiết bị an toàn 93 vụ và vi phạm khác 315 vụ. Đã xử lý vi phạm: lập biên bản tại giữ giấy tờ 625 vụ và phạt tiền 3.506 vụ với số tiền phạt: 1.144,5 triệu đồng. 8. Tình hình cháy nổ, môi trường Trong tháng 04 trên địa bàn tỉnh xảy ra 06 vụ cháy và 01 vụ sạt lở : trên địa bàn Thành phố Mỹ Tho 01 vụ, Thị xã Gò Công 01 vụ, Huyện Châu Thành 02 vụ và Huyện Chợ Gạo 03 vụ ( Trong đó 01 vụ sạt lỡ đê thủy lợi); ước tính tổng thiệt hại khoảng 8.250 triệu đồng. Nguyên nhân các vụ cháy đang trong quá trình điều tra. Ngoài ra, trong tháng 04/2021, ban hành 07 quyết định xử phạt vi phạm hành chính (bao gồm 02 trường hợp vi phạm trong quý I) đối với 01 tổ chức và 06 cá nhân với số tiền xử phạt vi phạm hành chính là 119,5 triệu đồng (01 tổ chức với số tiền: 11,4 triệu đồng đồng, 06 cá nhân với số tiền: 108,1 triệu đồng), buộc bơm trả 16,7m3 cát đã khai thác trái phép và tịch thu 01 ghe gỗ trị giá 48,3 triệu đồng, đã thực hiện 05 quyết định (01 tổ chức, 04 cá nhân) với số tiền nộp vào ngân sách nhà nước là: 89 triệu đồng (01 tổ chức với số tiền: 11,4 triệu đồng, 04 cá nhân với số tiền: 77,6 triệu đồng), còn lại 02 quyết định (02 cá nhân) chưa thực hiện với số tiền là: 30,5 triệu đồng. 02 quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền là: 40 triệu đồng, hiện các đối tượng này chưa thực hiện quyết định.