0273.3 872582 | tiengiang@gso.gov.vn
Tổng sản phẩm trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2023 Tiền Giang đạt 3,03%
  •   18/06/2024 10:06

Tình hình kinh tế - chính trị thế giới và khu vực 6 tháng đầu năm 2023 tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách thức, xung đột Nga - Ucraina và phản ứng của các nước lớn; chính sách thắt chặt tiền tệ của các nước ảnh hưởng rõ nét đến sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu của Việt Nam nói chung và Tiền Giang nói riêng; nhu cầu tiêu dùng của thế giới tiếp tục suy giảm; doanh nghiệp thiếu đơn hàng để sản xuất, nhiều doanh nghiệp phải cắt giảm lao động, giảm giờ làm, thu hẹp qui mô sản xuất...... Nhưng với sự chỉ đạo tập trung của Tỉnh uỷ, sự điều hành quyết liệt của Ủy ban nhân dân tỉnh trong việc triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời và đồng bộ các chủ trương, chính sách, các giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh ngay từ đầu năm, tình hình sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh Tiền Giang 6 tháng đầu năm 2023 có nhiều chuyển biến tích cực, tăng trưởng quí sau cao hơn quí trước các khu vực kinh tế đều tăng so cùng kỳ.  Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 31.379 tỷ đồng, (giá so sánh năm 2010) tăng 3,03% so với 6 tháng đầu năm 2022, quí I tăng 2,89%, quí II tăng 3,18%; khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,97 %, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,26% và khu vực dịch vụ tăng 5,04 % (bao gồm thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); Nếu tách riêng thuế sản phẩm thì khu vực dịch vụ tăng 6,04 % và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 0,04% so cùng kỳ.  Trong 3,03% tăng trưởng thì khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 0,35%, khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 0,96%, khu vực dịch vụ đóng góp 1,72% .Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: 6 tháng đầu năm 2023 tăng 0,97% so với 6 tháng đầu năm 2022  Nông nghiệp tăng 0,63%; Trồng trọt có nhiều thuận lợi, công tác phòng chống hạn mặn được triển khai sớm, độ mặn năm nay thấp, không ảnh hưởng nhiều đến sản xuất nông nghiệp; Dịch covid-19 được kiểm soát, xuất khẩu thông thoáng trở lại nên giá bán các loại sản phẩm trồng trọt tăng so cùng kỳ nhất là sầu riêng, thanh long, mít ... Giá vật tư nông nghiệp vẫn ở mức cao, ảnh hưởng đến lợi nhuận của nông dân. Trà lúa Đông Xuân năm nay phát triển tốt, tuy nhiên có một số vùng nông dân trồng lúa đan sen với trồng cây ăn quả nên ảnh hưởng đến năng suất thu hoạch, năng suất bình quân vụ Đông xuân đạt 69,8 tạ/ha, giảm 0,2% so cùng kỳ; Diện tích gieo sạ giảm 989,6 ha so cùng kỳ do nông dân chuyển sang trồng các loại cây trồng khác, xây dựng nhà, các cơ sở hạ tầng nên sản lượng thu hoạch giảm 4,1% so cùng kỳ, tương tương giảm 14.420 tấn.  Trong lĩnh vực chăn nuôi: giá bán các sản phẩm chăn nuôi bình quân 6 tháng đầu năm 2023 thấp, trong khi giá thức ăn tăng cao, người nuôi không có lãi, nên việc tái đàn trên địa bàn tỉnh còn chậm. Ước tính đến thời điểm 01/6/2023 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 123,5 ngàn con, giảm 0,5% so cùng kỳ; đàn lợn 264 ngàn con, giảm 6,7% so cùng kỳ; đàn gia cầm 16,2 triệu con, giảm 4,1% so cùng kỳ.  Ngành thủy sản tăng 3,05% so cùng kỳ, tăng chủ yếu ở thủy sản nuôi trồng, ngư dân đã chuyển sang nuôi trồng các loại thủy sản có giá trị kinh tế cao, làm cho tốc độ tăng trưởng của ngành này tăng. Hoạt động khai thác thủy sản còn nhiều khó khăn do giá nhiêu liệu tăng cao, biển động liên tục, gió nhiều, sóng lớn nên các đội tàu gặp khó khăn trong quá trình đánh bắt, sản lượng khai thác ít, số lượng tàu ra khơi đánh bắt ít hơn cùng kỳ, làm cho sản lượng thủy sản khai thác giảm, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chung của khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản.  Khu vực công nghiệp - xây dựng: tăng 3,26% so với 6 tháng đầu năm 2022; trong đó công nghiệp tăng 2,41%. Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh còn nhiều khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm do đơn hàng giảm từ quí IV/2022 cho đến nay, nhất là các ngành may mặc, giày da, túi xách, chế biến thủy sản ... do tác động của hậu dịch Covid – 19, kinh tế thế giới suy giảm, cuộc chiến giữa Nga và Ucraina làm cho giá nhiên liệu tăng, lạm phát tăng cao. Mặt bằng lãi suất ngân hàng có giảm so với những tháng đầu năm nhưng vẫn cao hơn so cùng kỳ, tạo áp lực lớn cho các doanh nghiệp. Sản xuất công nghiệp còn nhiều khó khăn, nhưng do trong kỳ có một số doanh nghiệp mới đi vào hoạt động, trong đó có nhà máy điện gió Tân Phú Đông 1 đi vào hoạt động từ ngày 31/5/2023, nên công nghiệp của tỉnh vẫn tăng so cùng kỳ. Ngành xây dựng tăng 8,51%, là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng tốt nhất trong 6 tháng đầu năm 2023. Trên địa bàn tỉnh có nhiều công trình trọng điểm của địa phương và trung ương đang được triển khai thi công, cộng với sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt trong việc đẩy nhanh tiến độ đầu tư công đã góp phần làm cho hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh tăng khá so cùng kỳ.  Khu vực dịch vụ: tăng 6,04% so cùng kỳ; hầu hết các ngành trong khu vực này đều tăng, các ngành dịch vụ đã trở lại trạng thái hoạt động bình sau dịch covid – 19, hoạt động thương mại và dịch vụ diễn ra khá sôi động và có mức tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước, một số ngành tăng khá như: bán buôn và bán lẽ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy tăng 7,44%; Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,88%; Vận tải kho bãi tăng 10,12%; Hoạt động dịch vụ khác tăng 39,9% ... Riêng hoạt động y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm 6,74% so cùng kỳ.  Cơ cấu kinh tế: GRDP nếu tính theo giá hiện hành đạt 59.277 tỷ đồng. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 38,2% (cùng kỳ 37,4%); khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 27,8% (cùng kỳ 28,6%); khu vực dịch vụ chiếm 28,5% (cùng kỳ 28,3%); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,5% (cùng kỳ 5,7%).                                          N.V.Tròn

Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang 6 tháng đầu năm 2023
  •   18/06/2024 10:03

Tình hình kinh tế - chính trị thế giới và khu vực 6 tháng đầu năm 2023 tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách thức, xung đột Nga - Ucraina và phản ứng của các nước lớn; thắt chặt chính sách tiền tệ của các nước ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu của Việt Nam nói chung và Tiền Giang nói riêng; nhu cầu tiêu dùng của thế giới tiếp tục suy giảm, doanh nghiệp thiếu đơn hàng để sản xuất… Nhưng với sự chỉ đạo tập trung của Tỉnh uỷ, sự điều hành quyết liệt của Ủy ban nhân dân tỉnh trong việc triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời và đồng bộ các chủ trương, chính sách, các giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh ngay từ đầu năm, tình hình sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh Tiền Giang 6 tháng đầu năm 2023 có nhiều chuyển biến tích cực, các khu vực kinh tế đều tăng so cùng kỳ. Kết quả hoạt động của các ngành, lĩnh vực 6 tháng đầu năm 2023 như sau:  I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ  1. Tăng trưởng kinh tế (GRDP):  Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 31.379 tỷ đồng, (giá so sánh năm 2010) tăng 3,03% so với 6 tháng đầu năm 2022, quí I tăng 2,89%, quí II tăng 3,18% (cùng kỳ quý I tăng 3,39%, quý II tăng 5,5%); khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,97 %, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,26% và khu vực dịch vụ tăng 5,04 % (bao gồm thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); Nếu tách riêng thuế sản phẩm thì khu vực dịch vụ tăng 6,04 % và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 0,04% so cùng kỳ. Trong 3,03% tăng trưởng thì khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 0,35%, khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 0,96%, khu vực dịch vụ đóng góp 1,72%. GRDP nếu tính theo giá hiện hành đạt 59.277 tỷ đồng.  Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: 6 tháng đầu năm 2023 tăng 0,97% so với 6 tháng đầu năm 2022; trong đó nông nghiệp tăng 0,63% ( cùng kỳ tăng 3,69%).  Trồng trọt có nhiều thuận lợi, công tác phòng chống hạn mặn được triển khai sớm, độ mặn thấp, ít ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp; Dịch covid-19 được kiểm soát, xuất khẩu thông thoáng trở lại nên giá bán các loại sản phẩm trồng trọt tăng so cùng kỳ nhất là sầu riêng, thanh long, mít ... Giá vật tư nông nghiệp vẫn ở mức cao, ảnh hưởng đến lợi nhuận của nông dân. Trà lúa Đông Xuân năm nay phát triển tốt, tuy nhiên có một số vùng nông dân trồng lúa đan sen với trồng cây ăn quả nên ảnh hưởng đến năng suất thu hoạch, năng suất bình quân vụ Đông xuân đạt 69,8 tạ/ha, giảm 2% so cùng kỳ; Diện tích gieo sạ giảm 989,6 ha so cùng kỳ do nông dân chuyển sang trồng các loại cây trồng khác, xây dựng nhà, các cơ sở hạ tầng nên sản lượng thu hoạch giảm 4,1% so cùng kỳ, tương tương giảm 14.420 tấn.  Giá bán các sản phẩm chăn nuôi bình quân 6 tháng đầu năm 2023 thấp, trong khi giá thức ăn tăng cao, người nuôi không có lãi, nên việc tái đàn trên địa bàn tỉnh còn chậm. Ước tính đến thời điểm 01/6/2023 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 123,5 ngàn con, giảm 0,5% so cùng kỳ; đàn lợn 264 ngàn con, giảm 6,7% so cùng kỳ; đàn gia cầm 16,2 triệu con, giảm 4,1% so cùng kỳ.  Ngành thủy sản tăng 3,05% so cùng kỳ, tăng chủ yếu ở thủy sản nuôi trồng, ngư dân đã chuyển sang nuôi trồng các loại thủy sản có giá trị kinh tế cao, làm cho tốc độ tăng trưởng của ngành này tăng. Hoạt động khai thác thủy sản còn nhiều khó khăn do giá nhiên liệu tăng cao, biển động liên tục, gió nhiều, sóng lớn nên các đội tàu gặp khó khăn trong quá trình đánh bắt, sản lượng khai thác ít, số lượng tàu ra khơi đánh bắt ít hơn cùng kỳ, làm cho sản lượng thủy sản khai thác giảm, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chung của khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản.  Khu vực công nghiệp - xây dựng: tăng 3,26% so với 6 tháng đầu năm 2022; trong đó công nghiệp tăng 2,41% (cùng kỳ tăng 6,56%). Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh còn nhiều khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm do đơn hàng giảm từ quý IV/2022 cho đến nay, nhất là các ngành may mặc, giày da, túi xách, chế biến thủy sản ... do tác động của hậu dịch Covid-19, kinh tế thế giới suy giảm, cuộc chiến giữa Nga và Ucraina làm cho giá nhiên liệu tăng, lạm phát tăng cao. Mặt bằng lãi suất ngân hàng có giảm so với những tháng đầu năm nhưng vẫn cao hơn so cùng kỳ, tạo áp lực lớn cho các doanh nghiệp. Sản xuất công nghiệp còn nhiều khó khăn, nhưng do trong kỳ có một số doanh nghiệp mới đi vào hoạt động, trong đó có nhà máy điện gió Tân Phú Đông 1 đi vào hoạt động từ ngày 31/5/2023, nên công nghiệp của tỉnh vẫn tăng so cùng kỳ. Ngành xây dựng tăng 8,51%, là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng tốt nhất trong 6 tháng đầu năm 2023. Trên địa bàn tỉnh có nhiều công trình trọng điểm của địa phương và trung ương đang được triển khai thi công, cộng với sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt trong việc đẩy nhanh tiến độ đầu tư công đã góp phần làm cho hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh tăng khá so cùng kỳ.  Khu vực dịch vụ: tăng 6,04% so cùng kỳ; hầu hết các ngành trong khu vực này đều tăng, các ngành dịch vụ đã trở lại trạng thái hoạt động bình sau dịch covid - 19, hoạt động thương mại và dịch vụ diễn ra khá sôi động và có mức tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước, một số ngành tăng khá như: bán buôn và bán lẽ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy tăng 7,44%; Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,88%; Vận tải kho bãi tăng 10,12%; Hoạt động dịch vụ khác tăng 39,9% ... Riêng hoạt động y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm 6,74% so cùng kỳ.  Cơ cấu kinh tế: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 38,2% (cùng kỳ 37,4%); khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 27,8% (cùng kỳ 28,6%); khu vực dịch vụ chiếm 28,5% (cùng kỳ 28,3%); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,5% (cùng kỳ 5,7%).  2. Tài chính - Ngân hàng:  a. Tài chính:  Thu ngân sách nhà nước: 6 tháng đầu năm 2023 thu được 12.736 tỷ đồng; trong đó:thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 4.923 tỷ đồng, đạt 47,9% dự toán và giảm 1,6% so cùng kỳ; thu nội địa 4.761 tỷ đồng, đạt 48,2% dự toán, giảm 2,2% so cùng kỳ (trong đó, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 1.408 tỷ đồng, đạt 43,3% dự toán năm và bằng 92,9% so với cùng kỳ năm trước; thu từ khu vực công thương nghiệp - ngoài quốc doanh là 588 tỷ đồng, đạt 51,1% dự toán, tăng 6,1% so với cùng kỳ; thu từ hoạt động xổ số kiến thiết 1.006 tỷ đồng, đạt 55,9% dự toán, tăng 24,9% so cùng kỳ.  Chi ngân sách nhà nước: Tổng chi ngân sách 6 tháng đầu năm 2023 là 8.536 tỷ đồng, đạt 60,5% kế hoạch và tăng 25,9% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 3.055 tỷ đồng, đạt 57,7% dự toán, tăng 34,7%; chi hành chính sự nghiệp 3.569 tỷ đồng, đạt 46,2% dự toán và tăng 8,7% so cùng kỳ.  b. Ngân hàng:  Đến cuối tháng 5/2023, vốn huy động đạt 92.352 tỷ đồng, tăng 4.615 tỷ, tăng 5,3% so với cuối năm 2022. Tổng dư nợ toàn tỉnh đạt 89.129 tỷ đồng, tăng 3.108 tỷ, tăng 3,6% so với cuối năm 2022. Ước tính đến cuối tháng 6/2023 vốn huy động đạt 92.448 tỷ đồng, tăng 4.711 tỷ, tăng 5,4%; tổng dư nợ 89.376 tỷ đồng, tăng 3.355 tỷ đồng, tăng 3,9% so với cuối năm 2022.  Nợ xấu: cuối tháng 5/2023, số dư là 1.363 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,53%, tăng 0,84% so với cuối năm 2022. Ước đến cuối tháng 6/2023, nợ xấu là 1.389 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,55%, tăng 0,86% so với cuối năm 2022.  Quỹ tín dụng nhân dân: đến cuối 5/2023, tổng nguồn vốn huy động đạt 1.400 tỷ đồng, tăng 19 tỷ, tăng 1,4% và dư nợ cho vay đạt 1.042 tỷ đồng, tăng 3,3 tỷ, tăng 0,3% so với cuối năm 2022, trong đó vốn huy động tăng 1,54%, chiếm tỷ trọng 87% trong tổng nguồn vốn hoạt động; đáp ứng nhu cầu vốn cho 4.022 lượt thành viên vay vốn từ đầu năm đến nay. Nợ xấu: số dư 5,4 tỷ đồng, giảm 1,7 tỷ so với cuối năm 2022 tỷ lệ nợ xấu 0,5%, giảm 0,2%.  3. Giá cả, lạm phát:  Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2023 tăng 0,3% so tháng 5/2023 (thành thị tăng 0,28%, nông thôn tăng 0,3%); so cùng kỳ tăng 0,8%.  So với tháng 06/2023, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 07 nhóm tăng: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,84% (trong đó: lương thực tăng 0,02%, thực phẩm tăng 1,33%, ăn uống ngoài gia đình tăng 0,07%); đồ uống và thuốc lá tăng 0,02%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,05%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%; giao thông tăng 0,34%; bưu chính viễn thông tăng 0,01% và nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,15%. Có 03 nhóm giảm: may mặc, mũ nón, giày dép giảm 0,36%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,08% và nhóm hàng hóa dịch vụ khác giảm 0,04%. Riêng nhóm Giáo dục chỉ số giá ổn định  Một số mặt hàng có chỉ số giá tăng so với tháng trước:  - Thịt lợn tăng 2,97%,Thịt bò tăng 0,22% do hiện nay không trùng vào thời điểm xuất chuồng, dẫn đến sản lượng thịt cung ứng ra thị trường giảm, tác động giá bán lẻ tại các chợ tăng nhẹ so với tháng trước.  - Rau tươi, khô và chế biến có chỉ số giá tăng 5% là do cuối vụ thu hoạch, nguồn rau xanh cung cấp ra các điểm chợ giảm, mặc khác trùng vào tháng có Tết Đoan Ngọ nên nhu cầu tiêu dùng rau xanh của người dân tăng, tác động đến giá bán lẻ tăng theo;  - Giá nước sinh hoạt tăng 0,35% do thời tiết nắng nóng kéo dài, nhu cầu sử dụng của người dân tăng lên ngoài ra giá nước tăng do giá điện điện tăng. Giá điện sinh hoạt tháng này tăng 4,08% là do thời tiết nắng nóng, nhu cầu sử dụng của người dân tăng và trong tháng này, một phần giá điện sinh hoạt được tính theo giá mới (thực hiện theo Quyết định 1062/QĐ-BCT ngày 04/5/2023 của Bộ Công thương về việc tăng giá bán lẻ điện sinh hoạt);  - Giá xăng dầu bình quân trong tháng tăng 0,47% góp phần làm CPI chung tăng 0,02 điểm phần trăm.  Bên cạnh đó, mặt hàng có chỉ số giá giảm:  - Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở giảm 0,17% do giá thép giảm khi giá quặng sắt trên thị trường thế giới giảm.  - Giá gas ngày 01/6/2023 giảm 9,75%, tương ứng giảm 35.000 đồng/bình 12kg.  - Một số mặt hàng quần áo may sẵn giá giảm nhẹ do ảnh hưởng Covid-19 kinh tế khó khăn, người dân tiết kiệm chi tiêu, dẫn đến sức mua giảm.  Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý II/2023 so cùng kỳ tăng 1,18%; một số nhóm hàng có chỉ số tăng trong quý so cùng kỳ quý II/2022 như: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,15%; đồ uống và thuốc lá 2,14%; May mặc, mũ nón, giầy dép 2,79%; giáo dục 7,81%;….  Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng năm 2023 so cùng kỳ tăng 2,17%; một số nhóm hàng có giá tăng trong 6 tháng năm 2023 so cùng kỳ như: nhóm Giáo dục tăng 7,81%, trong đó dịch vụ giáo dục tăng 8,28%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 2,69%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 3,06%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,59%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2,09%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 4,04%; …  Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 6/2023 giảm 0,86% so tháng trước, giá bình quân tháng 06/2023 là 5.656 ngàn đồng/chỉ, tăng 158 ngàn đồng/chỉ so cùng kỳ.  Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 06/2023 tăng tăng 0,11% so tháng trước, giá bình quân 23.662 đồng/USD, tăng 319 đồng/USD so cùng kỳ.  4. Đầu tư và Xây dựng:  Ước 6 tháng đầu năm 2023, vốn đầu tư toàn xã hội ước thực hiện 18.515 tỷ đồng, đạt 40,4% kế hoạch, tăng 12,9% so cùng kỳ; trong đó: vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 10.705 tỷ đồng, chiếm 57,8%, tăng 13,1%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.431 tỷ đồng, chiếm 13,1%, giảm 11,8%; vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 5.379 tỷ đồng, chiếm 29,1%, tăng 28,5% so cùng kỳ.  Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý 6 tháng đầu năm 2023 ước là 2.630 tỷ đồng, đạt 49,9% kế hoạch, tăng 62,2% so cùng kỳ; gồm có: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 2.144 tỷ đồng, tăng 72,3%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 340 tỷ đồng, tăng 15,9%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 146 tỷ đồng, tăng 74,2% so cùng kỳ.  5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp:  Theo số liệu báo cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư, tổng số doanh nghiệp thành lập mới, ước thực hiện sáu tháng đầu năm 2023 là 415 doanh nghiệp, đạt 50% kế hoạch và giảm 18% so cùng kỳ, giảm hơn so cùng kỳ do năm 2022 số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng đột biến sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát; tổng vốn đăng ký 2.960 tỷ đồng, vốn đăng ký bình quân là 7 tỷ đồng/doanh nghiệp. Có 379 đơn vị trực thuộc đăng ký hoạt động (102 chi nhánh, 8 văn phòng đại diện, 269 địa điểm kinh doanh); Số doanh nghiệp quay lại thị trường 215 doanh nghiệp, tăng 7% so cùng kỳ. Ước thực hiện đến cuối tháng 6/2023, toàn tỉnh có khoảng 6.400 doanh nghiệp hoạt động  Tổng số hộ kinh doanh đăng ký thành lập mới là 2.950 hộ, giảm 26% so cùng kỳ. Ước thực hiện đến cuối tháng 6/2023, hộ kinh doanh trên địa bàn tỉnh có khoảng 70.500 hộ kinh doanh.  6. Sản xuất nông - lâm nghiệp và thủy sản:  a. Nông nghiệp:  Tình hình sản xuất nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 được duy trì ổn định, hàng hóa nông sản đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài tỉnh.  * Trồng trọt:  Cây lương thực có hạt: Sáu tháng đầu năm 2023, gieo trồng được 117.481 ha, đạt 89,5% kế hoạch, tăng 0,8% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch 481.887 tấn, đạt 60,5% kế hoạch, giảm 4,4% so cùng kỳ; trong đó: cây lúa gieo sạ 116.008 ha, tăng 1%; thu hoạch 71.080 ha, giảm 2,8% với sản lượng 477.237 tấn, giảm 4,4%.  - Cây lúa:  + Vụ Đông Xuân 2022 - 2023: chính thức xuống giống 48.202 ha, giảm 2% so cùng kỳ; thu hoạch 100% diện tích với sản lượng thu hoạch 336.317 tấn, giảm 4% do diện tích gieo trồng và năng suất bình quân giảm; năng suất thu hoạch bình quân đạt 69,8 tạ/ha, giảm 2% do diện tích gieo trồng giảm so cùng kỳ. Diện tích gieo trồng giảm do chuyển đổi đất trồng lúa sang: 110 ha đất phi nông nghiệp (xây dựng, cơ sở hạ tầng,..), 348,1 ha đất cây lâu năm, 539,3 ha đất trồng cây hàng năm khác và 2,5 ha đất nuôi trồng thủy sản. Diện tích giảm ở các huyện: thị xã Gò Công giảm 150 ha, thị xã Cai Lậy giảm 91,8 ha, Tân Phước giảm 108,8 ha, Cái Bè giảm 303 ha, Châu Thành giảm 15,7 ha, Chợ Gạo giảm 37,3 ha, Gò Công Tây giảm 213,3 ha, Gò Công Đông giảm 80 ha.  + Vụ Hè Thu (gồm Xuân Hè và Hè Thu): gieo sạ 67.806 ha, đạt 99,7% kế hoạch, tăng 3,2% so cùng kỳ. Diện tích thu hoạch chủ yếu là lúa Xuân hè với 22.878 ha (ở các huyện phía tây gồm: thị xã Cai Lậy 2.964 ha, Tân Phước 4.804 ha, Cái Bè 7.576 ha, Cai Lậy 6.275 ha và Châu Thành 1.259 ha) giảm 4,4% so cùng kỳ; năng suất bình quân 61,6 tạ/ha, giảm 1% so cùng kỳ với sản lượng đạt 140.920 tấn, giảm 5,3% so cùng kỳ do diện tích thu hoạch giảm.  - Cây ngô: Sáu tháng đầu năm 2023 gieo trồng 1.473 ha, giảm 12,7% so cùng kỳ do chuyển đổi sang trồng cây lâu năm; thu hoạch 1.292 ha, giảm 2,9% so cùng kỳ; năng suất bình quân đạt 36 tạ/ha, tương đương so cùng kỳ với sản lượng 4.650 tấn, giảm 2,9% so cùng kỳ do quá trình đô thị hóa và chuyển sang trồng cây lâu năm dẫn đến diện tích gieo trồng giảm.  Cây rau đậu các loại: Sáu tháng đầu năm 2023 gieo trồng được 35.880 ha, giảm 4,3% so cùng kỳ; thu hoạch 31.910 ha, giảm 9,6% với sản lượng 669.610 tấn, giảm 9,1% so cùng kỳ; trong đó: rau các loại gieo trồng 35.692 ha, giảm 4,3%, thu hoạch 31.753 ha, giảm 9,6% với sản lượng 669.134 tấn, giảm 9,1% so cùng kỳ. Nguyên nhân do một số diện tích đất màu ven khu công nghiệp chuyển sang loại hình kinh doanh nhà trọ, hàng quán và dịch vụ ăn uống, công trình công cộng…. làm cho diện tích gieo trồng rau màu giảm. Bên cạnh đó, tác động từ chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang ngành nghề khác làm cho nguồn lao động nông nghiệp không đảm bảo cho trồng màu, nên người dân lựa chọn trồng các loại cây ít tốn công chăm sóc như dừa, mít, sapo.  Cây lâu năm: Theo thời gian và do ảnh hưởng bởi tình hình nắng nóng và hạn mặn những năm trước, nhà vườn đã cải tạo, đốn bỏ những cây trồng kém hiệu quả để chuyển sang trồng những cây có hiệu quả kinh tế hơn như sầu riêng, mít, dừa,... đến nay đã được khôi phục, sản lượng thu hoạch cây lâu năm đã dần tăng trở lại. Tổng diện tích trồng cây lâu năm trong 6 tháng đầu năm 2023 đạt 106.654 ha, đạt 100,5% kế hoạch, tăng 2,1% so cùng kỳ; trong đó diện tích cây ăn quả là 83.756 ha, tăng 1,4%. Diện tích tăng tập trung chủ yếu ở các loại cây như: Dứa (khóm), sầu riêng, mít, ổi và cây dừa. Sản lượng thu hoạch 6 tháng đầu năm 2023 đạt 1.003.563 tấn, đạt 50,2% kế hoạch, tăng 3,2% so cùng kỳ; trong đó sản lượng cây ăn quả ước đạt 887.444 tấn, tăng 2,5% so cùng kỳ.  * Chăn nuôi: Ước thời điểm 01/6/2023 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 123,5 ngàn con, giảm 0,5%; đàn lợn 264 ngàn con, giảm 6,7%; đàn gia cầm 16,2 triệu con, giảm 4,1%. So với cùng kỳ đàn gia súc, gia cầm của tỉnh đều giảm do giá thức ăn và con giống cao, làm áp lực lên người chăn nuôi dẫn đến nhiều hộ chọn phương án an toàn, tránh lỗ vốn như giảm đàn, ngừng chăn nuôi và chuyển sang chăn nuôi khác. Đặc biệt là chi phí thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y gây khó khăn không nhỏ trong việc sản xuất và kế hoạch của các cơ sở chăn nuôi.   * Tình hình dịch bệnh trên vật nuôi: Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang:  Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi: Từ ngày 14/12/2022 đến nay, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 07 hộ có lợn mắc bệnh với tổng số lợn bệnh là 179 trên tổng đàn 270 con tại 05 huyện (Cai Lậy; Tân Phước; Gò Công Tây; Gò Công Đông; Cái Bè). Số lợn được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 215 con với trọng lượng 7.300 kg.  Bệnh viêm da nổi cục: Từ ngày 14/12/2022 đến nay, ghi nhận bò bệnh tại 02 huyện với 04 con bò bệnh trên tổng đàn 12 con.  b. Lâm nghiệp:  Tổng diện tích đất có rừng trên địa bàn tỉnh là 1.765 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng), trong đó rừng phòng hộ 1.382 ha (huyện Gò Công Đông 430 ha; huyện Tân Phú Đông 897 ha và huyện Tân Phước 55 ha), rừng sản xuất 383 ha.  Cây phân tán: trong tháng thực hiện trồng mới được 128,8 ngàn cây phân tán, nâng tổng số cây trồng lên 146 ngàn cây, giảm 78,9% so cùng kỳ. Người dân trồng cây phân tán xung quanh bờ kênh, trên những tuyến đường đi ở huyện ở Cái Bè, Cai Lậy, Tân Phước, Thị xã Gò Công, Gò Công Đông, Tân Phú Đông. Các loại cây trồng chủ yếu là cây bạch đàn cao sản và tràm bông vàng.   Khai thác gỗ: ước tính 6 tháng đầu năm 2023, sản lượng khai thác gỗ được 16.325 m3, đạt 93,9% so cùng kỳ. Các loại gỗ được khai thác chủ yếu từ các loại cây như: Bạch đàn cao sản, dầu gió, tràm lanh. Nguyên nhân do chuyển đổi đất trồng cây khai thác sang trồng các loại cây ăn quả khác như cây khóm (dứa), mít, sầu riêng, dừa, chanh nên sản lượng gỗ khai thác giảm.   Khai thác củi: ước 6 tháng đầu năm 2023, toàn tỉnh khai thác được 72.374 ste củi các loại, đạt 97% so cùng kỳ. Sản lượng củi khai thác giảm do hộ dân ở các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Tân Phước, Gò Công Đông chuyển đổi sang trồng cây ăn trái (ăn quả) như Sầu riêng, mít, chanh, dừa.  c. Thủy hải sản:  Diện tích nuôi trồng 6 tháng năm 2023 thả nuôi 13.100 ha, tăng 0,1% so cùng kỳ, trong đó diện tích nuôi tôm đạt 6.401 ha, tăng 0,1% so cùng kỳ; diện tích nuôi cá đạt 3.679 ha, tương đương so cùng kỳ; thủy sản khác đạt 3.020 ha, tương đương so cùng kỳ.  Tính chung 6 tháng, thu hoạch được 146.262 tấn, giảm 4,2% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 93.760 tấn, tăng 16,5% so cùng kỳ; sản lượng khai thác 52.502 tấn, giảm 27,4% so cùng kỳ.  7. Sản xuất công nghiệp:  Chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 tăng 2,2% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,06%; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 5,58%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,29%.  Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 6 năm 2023 tăng 2,94%, (trong đó doanh nghiệp nhà nước tăng 6,28%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 14,09%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,01%). Chia theo ngành công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 6 năm 2023 tăng 2,94%, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,88%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 0,86%; cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải tăng 12,94%.  Sản phẩm sản xuất công nghiệp 6 tháng năm 2023: Có 20/41 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Ống và ống dẫn bằng đồng tăng 27,2%;Thức ăn cho gia súc tăng 1,1 %; Bia đóng chai tăng 0,4%;… Có 21/41 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Cáp đồng trục và dây dẫn điện đồng trục giảm 76,6%; Dây thép không gỉ giảm 35,8%; Túi xách giảm 29,1%; Phi lê đông lạnh giảm 20,5%; Bia đóng lon giảm 15,8%; Thức ăn cho thủy sản giảm 15,5%; …  * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo:  - Chỉ số tiêu thụ cộng dồn 6 tháng đầu năm 2023 giảm 9,25%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 18,74%, trong đó sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản giảm 13,65%; sản xuất đồ uống giảm 5,6%, trong đó sản xuất bia giảm 5,6%; sản xuất trang phục giảm 64,02%; sản xuất da giảm 22,78%, trong đó sản xuất giày dép giảm 13,06%; sản xuất sản phẩm cao su và plastic giảm 10,34%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 63,4%; … Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng so cùng kỳ: dệt tăng 8,15%, trong đó sản xuất sợi tăng 24,21%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 49,97%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy bằng gấp 2,1 lần; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 65,36%; sản xuất kim loại tăng 24,37%;…  - Chỉ số tồn kho tháng 6/2023 so với tháng trước tăng 15,33% và so với cùng kỳ tăng 75,68%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ là: sản xuất chế biến thực phẩm tăng 1,7 lần, trong đó sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 35,59%; dệt tăng 30,89%, trong đó sản xuất hàng may sẳn tăng 24,43%; sản xuất trang phục tăng 74,29%; sản xuất da tăng 58,3%, trong đó sản xuất giày dép tăng 53,21%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 29,23%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 1,1 lần; sản xuất kim loại tăng 43,65%; chế biến, chế tạo khác tăng 18,41%, trong đó sản xuất đồ chơi, trò chơi tăng 18,41%;... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số giảm: sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẳn giảm 58,83%; sản xuất thiết bị điện giảm 85,24%, trong đó sản xuất mô tơ điện giảm 86,48%;…  8. Thương mại, dịch vụ:  a. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng:  Sáu tháng đầu năm 2023, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 40.269 tỷ đồng, đạt 49,1% kế hoạch, tăng 14,1% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 31.381 tỷ đồng, tăng 11,7%; lưu trú, ăn uống 3.422 tỷ đồng, tăng 34,2%; du lịch lữ hành 58 tỷ đồng, tăng 2,8 lần; dịch vụ tiêu dùng 5.408 tỷ đồng, tăng 17% so cùng kỳ. Nếu loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2023 dự kiến tăng 11,4% so cùng kỳ.  b. Xuất - Nhập khẩu:  Kinh tế thế giới phục hồi chậm với chính sách thắt chặt tiền tệ ở nhiều quốc gia làm suy giảm nhu cầu tiêu dùng của các đối tác thương mại lớn, do đó đã ảnh hưởng đến kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam.   * Xuất khẩu:  Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2023 ước 2.270 triệu USD, đạt 58,2% kế hoạch, tăng 10,9% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 17,5 triệu USD, tăng gấp 3 lần; kinh tế ngoài nhà nước 321,6 triệu USD, giảm 13,3%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.931 triệu USD, tăng 15,4% so cùng kỳ.  - Thủy sản: ước 6 tháng 2023 xuất 51.141 tấn, giảm 10,1% so cùng kỳ; với giá trị xuất 135 triệu USD, đạt 33,8% kế hoạch, giảm 30,1% so cùng kỳ.  - Gạo: ước 6 tháng 2023 xuất 107.244 tấn, tăng 126,7% so cùng kỳ; với giá trị 64 triệu USD, đạt 128% kế hoạch, tăng 172,6% so cùng kỳ.  - Hàng dệt, may: ước 6 tháng 2023 xuất 29.919 ngàn sản phẩm, giảm 55,9% so cùng kỳ; trị giá xuất 382 triệu USD, đạt 61,6% kế hoạch, tăng 42,9% so cùng kỳ.  - Kim loại thường và sản phẩm (kể cả đồng): ước 6 tháng 2023 xuất 60.390 tấn, tăng 18% so cùng kỳ; trị giá xuất 588 triệu USD, tăng 5,9% so cùng kỳ.  * Nhập khẩu:  Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2023 thực hiện 1.270 triệu USD, đạt 55,2 % kế hoạch, tăng 11,9% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 52 triệu USD, giảm 23,6%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.218 triệu USD, tăng 14,2% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng như kim loại thường khác 546 triệu USD, tăng 17,6%; sắt, thép các loại 218 triệu USD; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 135 triệu USD, giảm 26,8%; vải các loại 100 triệu USD, giảm 21%... so cùng kỳ.  c. Vận tải:  Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải 6 tháng đầu năm 2023 thực hiện 1.201 tỷ đồng, tăng 18,6% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 309 tỷ đồng, tăng 19,9% so cùng kỳ; vận tải hàng hóa thực hiện 769 tỷ đồng, tăng 18,2% so cùng kỳ. Vận tải đường bộ thực hiện 484 tỷ đồng, tăng 17,3%; vận tải đường thủy thực hiện 594 tỷ đồng, tăng 19,8%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 123 tỷ đồng, tăng 17,3% so cùng kỳ.  Vận chuyển hành khách 6 tháng đầu năm 2023 đạt 8.280 ngàn hành khách, tăng 13,2% và luân chuyển 182.826 ngàn hành khách.km, tăng 10,6% so cùng kỳ; trong đó: vận chuyển đường bộ 2.712 ngàn hành khách, tăng 10,9% và luân chuyển 176.895 ngàn hành khách.km, tăng 10,5% so cùng kỳ; vận chuyển đường thủy 5.568 ngàn hành khách, tăng 14,3% và luân chuyển 5.931 ngàn hành khách.km, tăng 16,2% so cùng kỳ.  Vận tải hàng hóa 6 tháng đầu năm 2023 đạt 7.351 ngàn tấn, tăng 14,5% và luân chuyển 1.427.970 ngàn tấn.km, tăng 23,5% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ thực hiện 1.119 ngàn tấn, tăng 10,3% và luân chuyển được 243.374 ngàn tấn.km, tăng 9,5% so cùng kỳ; vận tải đường thủy thực hiện 6.232 ngàn tấn, tăng 15,3% và luân chuyển 1.184.596 ngàn tấn.km, tăng 26,8% so cùng kỳ.  * Phương tiện giao thông: Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.462.651 chiếc, trong đó mô tô xe máy: 1.412.686 chiếc, 48.803 xe ô tô, 153 xe ba bánh, 438 xe đạp điện và 571 xe khác.  d. Du lịch:  Ước tính 6 tháng đầu năm 2023, ước lượng khách du lịch đến tỉnh 569 ngàn lượt, đạt 45,5% kế hoạch, tăng 94,9% so cùng kỳ; trong đó khách quốc tế 52 ngàn lượt, tăng 5,1 lần. Doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 3.480 tỷ đồng, tăng 37,7% so cùng kỳ; trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm 98,3%.  e. Bưu chính viễn thông:  Doanh thu bưu chính, viễn thông 6 tháng đầu năm 2023, đạt 1.955 tỷ đồng, tăng 3,9% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính 190 tỷ đồng, tăng 10,5%; doanh thu viễn thông 1.765 tỷ đồng, tăng 3,2%; do sự phát triển mạnh từ dịch vụ viễn thông và internet vì vậy nhu cầu tiện ích và tìm hiểu thông tin của người dân càng ngày được nâng lên.  Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 6 năm 2023 là 125.020 thuê bao; thuê bao điện thoại bình quân đạt 7,03 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau).  Số thuê bao Internet phát triển 6 tháng đầu năm 2023 là 48.628 thuê bao. Tổng số thuê bao Internet trên mạng ước tính đến tháng 6 năm 2023 là 373.077 thuê bao; mật độ Internet bình quân ước đạt 20,97 thuê bao/100 dân.  II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI  1. Lao động, giải quyết việc làm:    Tư vấn và giới thiệu việc làm:  Công tác tư vấn, giới thiệu việc làm 6 tháng đầu năm 2023: thực hiện tư vấn nghề, việc làm, pháp luật lao động và tư vấn khác cho 13.094 lượt lao động, giảm 10,3% so cùng kỳ, đạt 65,5% kế hoạch năm; trong đó tư vấn nghề cho 681 lượt lao động; tư vấn việc làm cho 10.656 lượt lao động thất nghiệp; tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác cho 458 lượt lao động. Giới thiệu việc làm cho 1.205 lượt lao động, tăng 4,1% so cùng kỳ, trong đó có 411 lao động có được việc làm ổn định, tăng 16,4% so cùng kỳ.  Công tác đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài: có 226 người xuất cảnh đi làm việc ở nước ngoài đạt 75,3% kế hoạch năm, tăng 23,5% so cùng kỳ: Nhật Bản 195 người, Đài Loan 24 người, Hàn Quốc 02 người, Canada 02 người, Hoa Kỳ 01 người, Hungary 01 người, Hồng Kông - Trung Quốc 01 người.  Tình hình lao động thiếu việc làm và thất nghiệp:  Theo kết quả sơ bộ điều tra lao động việc làm quý II/2023, lao động thiếu việc làm chiếm tỷ lệ 6,8%, giảm 0,6 điểm phần trăm so quý trước và tăng 3,0 điểm phần trăm so cùng kỳ năm trước (từ 3,8% năm 2022 lên 6,8% năm 2023), đã làm cho tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị giảm 1,3 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,7 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước (từ 7,8% năm 2022 lên 8,5% năm 2023). Đối với khu vực nông thôn tỷ lệ thiếu việc làm giảm 0,3 điểm phân trăm so quý trước và tăng 3,8 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước (từ 2,3% năm 2022 lên 6,1% năm 2023). Tình trạng thiếu việc làm quý II năm 2023 chủ yếu ở khu vực nông thôn (chiếm 63,2% trong tổng số số lao động thiếu việc làm của tỉnh).  Tỷ lệ lao động thất nghiệp trong quý II năm 2023 là 1,6% giảm 0,2 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,6 điểm phần trăm so cùng kỳ năm trước (từ 1,0% năm 2022 lên 1,6% năm 2023). Nhưng khi xét về tỷ lệ thất nghiệp chia theo khu vực thì khu vực thành thị tăng 0,5 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 2,5 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước (từ 1,5% năm 2022 lên 4,0% năm 2023). Vì vậy, đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn giảm 0,5 điểm phần trăm so quý trước và giảm 0,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước (từ 0,7% năm 2022 xuống 0,6% năm 2023). Cũng chính vì vậy, đã làm cho tỷ trọng thất nghiệp ở khu vực thành thị chiếm 73,1% so với tổng số lao động thất nghiệp của toàn tỉnh và tỷ trọng số lao động thất nghiệp khu vực thành thị trong quý II năm 2023 tăng 26,4 điểm phần trăm so cùng kỳ năm 2022.  Trong 6 tháng đầu năm 2023, tỷ lệ lao động thiếu việc làm chiếm 7,1%, tăng 3,0 điểm phần trăm so cùng kỳ năm trước (từ 4,1% lên 7,1%), đã làm cho tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị tăng 1,2 điểm phần trăm (từ 8,0% lên 9,2%) và tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn tăng 3,7 điểm phần trăm (từ 2,5% lên 6,2%).  Tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh 6 tháng đầu năm 2023 tăng 0,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2022 ( từ 1,4% lên 1,8%) đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị tăng 0,8 điểm phần trăm (từ 2,9% lên 3,7%) và tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn tăng 0,1 điểm phần trăm (từ 0,8% năm 2022 lên 0,9% năm 2023). Cũng chính vì vậy đã làm cho tỷ trọng thất nghiệp ở khu vực thành thị chiếm 65,5% so với tổng số lao động thất nghiệp của toàn tỉnh.  Nhìn chung, tỷ lệ số lao động thiếu việc làm, tỷ lệ thất nghiệp chung của toàn tỉnh đều tăng so cùng kỳ năm 2022. Nguyên nhân chủ yếu là do trong các tháng đầu năm 2023 tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, đơn hàng tiếp tục bị cắt giảm đã dẫn đến nhiều người lao động bị thiếu, mất việc làm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thu nhập và đời sống của người lao động.   Tình hình thôi việc, mất việc, nghỉ giãn việc:  Tình hình thôi việc, mất việc, từ ngày 01/4/2023 đến ngày 15/6/2023 là 2.427 người. Chia theo trình độ: lao động phổ thông là 1.575 người (chiếm 64,9%), lao động có tay nghề là 852 người (chiếm 35,1%). Chia theo ngành: dệt may là 964 người (chiếm 39,7%); da giày là 825 người (chiếm 34%); chế biến thủy sản là 165 người (chiếm 6,8%); ngành khác là 473 người (chiếm 19,5%)  Về nghỉ giãn việc của các doanh nghiệp tại địa phương từ ngày 01/4/2023 đến ngày 15/6/2023 là 11.887 người. Chia theo trình độ: lao động phổ thông là 9.306 người (chiếm 78,3%), lao động có tay nghề là 2.581 người (chiếm 21,7%). Chia theo ngành: dệt may là 551 người (chiếm 4,6%); da giày là 9.865 người (chiếm 83%); chế biến thủy sản là 414 người (chiếm 3,5%); ngành khác là 1.057 người (chiếm 8,9%).  Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thôi việc, mất việc, nghỉ giãn việc do nhiều doanh nghiệp bị ảnh hưởng về đơn hàng từ giữa tháng 6/2022 đến nay. Để duy trì lao động, việc làm, doanh nghiệp đã lựa chọn nhiều giải pháp như: giảm số giờ làm trong ngày, bố trí cho người lao động nghỉ luân phiên các ngày trong tuần, giảm giờ tăng ca, tạm hoãn hợp đồng lao động, không tái ký hợp đồng, khuyến khích người lao động đăng ký nghỉ việc. Một số doanh nghiệp thực hiện phương án nghỉ việc theo nguyện vọng cá nhân, công ty sẽ chấp thuận và hỗ trợ thu nhập cho công nhân, bên cạnh tiền lương, phép năm còn lại (nếu có), trợ cấp thôi việc theo quy định, doanh nghiệp sẽ hỗ trợ thêm cho người lao động theo phương thức: nếu có thâm niên làm việc từ đủ 3 năm đến dưới 7 năm được hỗ trợ 1 tháng lương theo HĐLĐ của tháng nghỉ việc. Nếu có thâm niên làm việc từ 7 năm trở lên được hỗ trợ 2 tháng lương theo HĐLĐ của tháng nghỉ việc.  2. Đời sống dân cư và an sinh xã hội:  Chính sách đối với người có công trong 6 tháng đầu năm 2023 được đảm bảo. Tổ chức thăm, tặng quà, trợ cấp cho người có công, người cao tuổi, hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ có người mất liên quan dịch COVID-19 và các đơn vị tập trung trong dịp Tết Quý Mão năm 2023 cụ thể: Tặng quà của Chủ tịch nước cho người có công với cách mạng (Nguồn kinh phí Trung ương), số lượng 37.292 người với số tiền trên 11,3 tỷ đồng; nguồn kinh phí địa phương trên 27,5 tỷ đồng với số lượng 69.771 người; tổ chức 15 Đoàn Ban Thường vụ Tỉnh ủy thăm 80 hộ gia đình chính sách, 02 hộ gia đình quân nhân đang làm nhiệm vụ và 47 đơn vị tập trung với tổng số tiền là 558 triệu đồng.  Về tình hình thực hiện chế độ tiền lương năm 2022 và thưởng Tết năm 2023 đối với người lao động của các doanh nghiệp: theo số liệu báo cáo của 65 doanh nghiệp với 97.565 lao động đang làm việc (doanh nghiệp FDI là 85.044 lao động, chiếm tỷ 87%), tiền lương thực trả bình quân năm 2022 (bao gồm: mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định pháp luật lao động) là 8,062 triệu đồng/người/tháng, tăng 19% so với năm 2021. Mức thưởng Tết Dương lịch năm 2023: theo báo cáo của 26 doanh nghiệp với 18.054 lao động, mức thưởng bình quân là 1,145 triệu đồng/người. Mức thưởng Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023: theo số liệu của 63 doanh nghiệp với 97.129 lao động, mức tiền thưởng bình quân khoảng 7,638 triệu đồng/người.  Về giải quyết tranh chấp lao động và đình công: từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 02 vụ ngừng việc tập thể tại 02 doanh nghiệp, khoảng 550 người lao động đình công trong số 2.130 người lao động. Trước tình hình đó, các sở, ngành, địa phương, doanh nghiệp đã tổ chức cuộc đối thoại với người lao động nên các vụ ngừng việc đã được giải quyết kịp thời và người lao động đã ổn định làm việc.  Về trợ cấp thất nghiệp: có 10.084 lao động đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 27,1% so cùng kỳ và có 9.741 lao động được quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 23% so cùng kỳ với tổng số tiền chi trả trên 202 tỷ đồng, giảm 14,9% so cùng kỳ.  3. Hoạt động giáo dục:  Ngày 15-6, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Tiền Giang đã công bố điểm thi tuyển sinh lớp 10 năm 2023 cho 20.443 thí sinh ở 38 hội đồng thi. Điểm thi tuyển sinh lớp 10 tại Tiền Giang với môn Ngữ văn có 22 thí sinh đạt điểm 10; Môn Tiếng Anh có 589 thí sinh điểm 10; Môn Toán có 1.012 thí sinh điểm 10. Dự kiến khoảng giữa tháng 7-2023, tỉnh Tiền Giang sẽ công bố kết quả trúng tuyển vào lớp 10.  Tổ chức Kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp quốc gia THPT vào các ngày 24, 25/02/2023. Tổng số thí sinh đăng ký dự thi Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia THPT là 54 thí sinh. Tiền Giang có 18 thí sinh đoạt giải, tăng 09 giải so với năm học 2021 - 2022, bao gồm: Toán (02 giải Ba, 01 giải Khuyến khích); Hóa học (01 giải Nhì, 01 giải Ba); Sinh học (01 giải Nhì, 02 giải Ba, 02 giải Khuyến khích); Ngữ văn (01 giải Khuyến khích); Lịch sử (03 giải Khuyến khích); Tiếng Anh (02 giải Ba, 02 giải Khuyến khích). Đứng hạng 4/13 các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long.  4. Hoạt động y tế:  Hoạt động y tế trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2023 được đảm bảo. Trong tháng 6, có 11/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận. So với cùng kỳ cộng dồn có 12 bệnh tăng (Bệnh liên cầu lợn ở người, Lao phổi, Liệt mềm cấp nghi bại liệt, Quai bị, Sởi, Sốt xuất huyết Dengue, Tay-chân- miệng, Thủy đậu, Tiêu chảy, Uốn ván khác, Viêm gan vi rút B, Viêm gan vi rút C); 01 bệnh giảm (covid-19); 31 bệnh tương đương hoặc không xảy ra ca mắc.  Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết trong 6 tháng ghi nhận 1.753 ca mắc, tăng 87,9% so cùng kỳ, không ghi nhận ca tử vong.  Phòng chống HIV/AIDS tính đến nay, toàn tỉnh có 6.611 người nhiễm HIV; 1.819 người chuyển sang AIDS; 1.306 người tử vong do AIDS.  Tổng số lần khám bệnh là 2.171.315 lượt người, tăng 33,8%; Tổng số lượt người điều trị nội trú là 93.849 lượt người, tăng 32,2%; Công suất sử dụng giường bệnh bình quân tháng 6 đạt 68,5%.  5. Hoạt động văn hóa - thể thao:  Sáu tháng đầu năm 2023, nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao được tổ chức thiết thực, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân nhất là trong dịp lễ, tết. Toàn tỉnh hiện có 447.938/473.270 hộ đạt 3 tiêu chuẩn Gia đình văn hóa, đạt 94,6%; 1.005/1.005 ấp (khu phố) văn hóa, đạt tỷ lệ 100%; 166/172 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới/phường/thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị; 69 chợ văn hóa; 17 công viên văn hóa; 882 con đường văn hóa, 557 cơ sở thờ tự văn hóa.  Hoạt động bảo tàng: Bảo tàng tỉnh và các khu di tích quốc gia đã đón 89.480 lượt khách tham quan. Thực hiện trưng bày cố định các chuyên đề phục vụ khách tham quan: Lịch sử, văn hóa, xã hội Tiền Giang trước năm 1930; Lịch sử Tiền Giang từ khi có Đảng lãnh đạo; Lịch sử Khu 8; “Đảng Cộng sản Việt Nam 92 năm mốc son chói lọi”; “Đèn và đồ dùng sinh hoạt trong cuộc sống”; “Di sản Văn hóa Tiền Giang”; “Sưu tập Tiền Giấy” và trưng bày hiện vật ngoài trời như: hiện vật Óc Eo, hiện vật nông nghiệp. Trưng bày cố định các chuyên đề theo tiến trình lịch sử tại các di tích: Khảo cổ Gò Thành, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Chiến thắng Ấp Bắc, Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút và Đền thờ Trương Định - Gia Thuận, tổ chức các hoạt động phục vụ Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương năm 2023.  Hoạt động văn hóa nghệ thuật: thực hiện 97 cuộc tuyên truyền lưu động, biểu diễn văn nghệ phục vụ Nhân dân và các cuộc lễ; 63 suất nhạc nước tại quảng trường Hùng Vương. Tổ chức công tác tuyên truyền các ngày lễ, sự kiện lớn theo kế hoạch năm 2023 với 120 băng ron, 70 pano, 850 cờ các loại, 76 ụ cờ, 8 lượt xe loa cổ động.  Hoạt động thư viện: trong 6 tháng đầu năm 2023, hệ thống thư viện đã phục vụ hơn 85 nghìn lượt bạn đọc với hơn 186 nghìn lượt sách báo lưu hành. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 20/2020/NQ-HĐND ngày 30 tháng 9 năm 2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh Tiền Giang quy định mức thu phí thư viện trong phạm vi các thư viện công cộng trên địa bàn tỉnh Tiền Giang; Theo đó, mức thu phí thẻ mượn, thẻ đọc tài liệu đối với các thư viện công cộng do cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã quản lý là 0 đồng (không đồng)/thẻ/năm nhằm khuyến khích độc giả tham gia để phát triển văn hóa đọc.  Hoạt động thể dục thể thao:  Trong 6 tháng đầu năm 2023, tổ chức 17 giải thể thao với 04 giải quốc gia và 01 giải mở rộng. Đoàn thể thao Tiền Giang tham dự 34 giải với tổng số huy chương các môn đạt 78 huy chương: 16 HCV, 22 HCB, 40 HCĐ. Trong đó tham dự đại hội thể thao toàn quốc lần thứ IX năm 2022 tại Quảng Ninh với 13 môn, 113 người tham dự 86 nội dung thi đấu (kết quả đạt 05 HCV, 04 HCB, 16 HCĐ).  6. Tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội (theo báo cáo của ngành Công an):  Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2023 được đảm bảo.  Tội phạm về trật tự xã hội xảy ra 445 vụ, làm chết 10 người, bị thương 84 người, tài sản thiệt hại khoảng 9,6 tỷ đồng; điều tra khám phá 360 vụ (đạt 81%); án rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đạt 83%, bắt xử lý 644 đối tượng, thu hồi tài sản trị giá khoảng 2,1 tỷ đồng.  Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy phát hiện, xử lý 103 vụ với 129 đối tượng tàng trữ, vận chuyển, mua bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trái phép chất ma túy và xử lý hành chính 627 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy.  7. Trật tự an toàn giao thông (theo báo cáo của ngành Công an):  Từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh ghi nhận 110 vụ giảm 90 vụ so cùng kỳ, làm chết 77 người giảm 66 người so với cùng kỳ và bị thương 65 người giảm 25 người so cùng kỳ. Các nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông chủ yếu do ý thức chấp hành Luật giao thông của người tham gia giao thông như: điều khiển xe khi có rượu bia, phóng nhanh vược ẩu, không làm chủ tốc độ; vượt đèn đỏ, thiếu quan sát…  Giao thông đường thủy: không xảy ra tai nạn giao thông.  Tai nạn giao thông trong Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023:  Trong dịp Tết Nguyên đán xảy ra 06 vụ, giảm 07 vụ so cùng kỳ; làm chết 05 người, giảm 05 người so cùng kỳ; 02 người bị thương, giảm 04 người so cùng kỳ.  Tai nạn giao thông trong 04 ngày nghỉ lễ 30/4 và 01/5/2022 (tính từ ngày 29/4/2023 đến ngày 03/5/2023): Tai nạn giao thông đường bộ xảy ra 08 vụ, giảm 01 vụ so cùng kỳ; làm 05 người chết, giảm 02 người so cùng kỳ và 04 người bị thương, tăng 02 người so cùng kỳ.  8. Tình hình cháy nổ, môi trường và thiên tai:  Cháy, nổ ghi nhận 06 vụ cháy, giảm 02 vụ so cùng kỳ; tài sản sản thiệt hại khoảng 2,6 tỷ đồng; nguyên nhân chủ yếu do sự cố về điện, người dân bất cẩn trong sử dụng lửa. Lĩnh vực môi trường từ đầu năm đến nay, ghi nhận 05 vụ vi phạm đã được xử lý với số tiền phạt khoảng 191,4 triệu đồng.  Tình hình thiên tai: Tính từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh ghi nhận 07 cơn lốc xoáy, 02 căn nhà bị sập, 235 căn nhà bị tốc mái, 14.625 cây bị ngã đổ, 35 điểm sạt lỡ với tổng giá trị thiệt hại khoảng 73,4 tỷ đồng.  III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG CUỐI NĂM 2023  Để đảm bảo thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023, trên cơ sở phát huy kết quả đã đạt được và khắc phục những hạn chế, những việc chưa thực hiện được trong 6 tháng đầu năm. Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh cần quyết liệt hơn nữa trong lãnh và chỉ đạo, các ngành, các cấp, địa phương chủ động đề ra các giải pháp, vượt qua khó khăn, thách thức, khai thác tốt những cơ hội để phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm cần thực hiện như sau:  Chuẩn bị tốt các điều kiện sản xuất vụ Đông Xuân 2023 - 2024, chú trọng cơ cấu giống và đảm bảo lịch thời vụ phù hợp để tránh thiếu nước vào cuối vụ. Triển khai thực hiện đề án "Cắt vụ, chuyển đổi mùa vụ và cơ cấu cây trồng các huyện phía Đông tỉnh Tiền Giang đến năm 2025". Tăng cường ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong sản xuất, chế biến; quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn lực kinh tế để đáp ứng yêu cầu giữ vững tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, giảm nghèo, bảo vệ môi trường để phát triển kinh tế nhanh và bền vững.  Triển khai hiệu quả các giải pháp phù hợp kích cầu thương mại và dịch vụ, các chương trình xúc tiến, đẩy mạnh quảng bá thúc đẩy phát triển du lịch; các giải pháp để mở rộng, đa dạng hóa thị trường và sản phẩm xuất khẩu.  Thường xuyên rà soát kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh. Cần có giải pháp hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp thiếu vốn, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm và một số ngành, lĩnh vực bị tác động bất lợi do nhu cầu của thị trường suy giảm như: da giày, dệt may, sản xuất và chế biến gỗ...  Đẩy nhanh tiến độ các công trình đang thi công, kịp thời nghiệm thu đưa vào sử dụng và thanh quyết toán các công trình hoàn thành. Các ngành địa phương có công trình xây dựng tập trung theo dõi, đôn đốc việc chuẩn bị hồ sơ, thường xuyên kiểm tra, giám sát đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình; kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình lập hồ sơ và triển khai thi công; thực hiện tốt công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng xây dựng công trình, đảm bảo đúng trình tự, thủ tục theo quy định.  Tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp như: môi trường đầu tư, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tiếp tục rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến nhà đầu tư, doanh nghiệp, thúc đẩy khởi nghiệp, tổ chức Ngày hội khởi nghiệp tỉnh, xây dựng Đề án hỗ trợ khởi nghiệp của tỉnh; phát triển hộ kinh doanh hoạt động theo hình thức doanh nghiệp....  Tăng cường công tác an ninh trật tự, an toàn xã hội, an ninh quốc phòng.

Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang tháng 5 năm 2023
  •   18/06/2024 10:09

Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 tiếp tục đạt được nhiều kết quả khởi sắc trên các lĩnh vực, công tác an sinh xã hội được triển khai tích cực. Bên cạnh đó, vẫn còn không ít khó khăn, thách thức như: thời tiết diễn biến bất thường, giá một số mặt hàng thiết yếu, giá nguyên nhiên liệu đầu vào cho sản xuất tăng cao,… Với sự tập trung chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, điều hành chủ động, linh hoạt của Ủy ban nhân dân tỉnh, các ngành, các cấp, kinh tế - xã hội tháng 5/2023 đạt được nhiều kết quả khả quan tích cực. Kết quả thực hiện trên các lĩnh vực như sau:  I. SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ THỦY SẢN  1. Nông nghiệp  Cây lương thực có hạt: trong tháng, gieo trồng 13.230 ha với sản lượng 18.994 tấn. Tính đến cuối tháng 5/2023, gieo trồng được 85.544 ha, đạt 65,1% kế hoạch, giảm 1,6% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch 359.111 tấn, giảm 2,4% so cùng kỳ; trong đó: cây lúa gieo sạ 84.180 ha, giảm 1,5% so cùng kỳ, thu hoạch 51.702 ha, tương đương so cùng kỳ, sản lượng 354.780 tấn, giảm 2,4% so cùng kỳ.  - Cây lúa:  + Vụ Đông Xuân 2022 - 2023: chính thức xuống giống 48.202 ha, giảm 2% so cùng kỳ; thu hoạch 100% diện tích với sản lượng thu hoạch 336.317 tấn, giảm 4%, năng suất thu hoạch bình quân đạt 69,8 tạ/ha, giảm 2% so cùng kỳ. Diện tích gieo trồng giảm do chuyển đổi đất trồng lúa sang 110 ha đất phi nông nghiệp (xây dựng, cơ sở hạ tầng,..); 348,1 ha đất cây lâu năm; 539,3 ha đất trồng cây hàng năm khác và 2,5 ha đất nuôi trồng thủy sản. Giảm ở các huyện: thị xã Gò Công giảm 150 ha, thị xã Cai Lậy giảm 91,8 ha, Tân Phước giảm 108,8 ha, Cái Bè giảm 303 ha, Châu Thành giảm 15,7 ha, Chợ Gạo 37,3 ha, Gò Công Tây giảm 213,3 ha, Gò Công Đông giảm 80 ha.  + Vụ Hè Thu: Diện tích gieo trồng đạt 35.978 ha, đạt 52,9% kế hoạch gieo trồng, chủ yếu gieo trồng ở các huyện phía Tây.Hình 1. Cây lương thực có hạt tính đến 15/5/2023  - Cây ngô: trong tháng gieo trồng 130 ha, thu hoạch 143 ha với sản lượng 531 tấn. Đến nay gieo trồng được 1.364 ha, đạt 56,4% kế hoạch, giảm 10,5% so cùng kỳ; thu hoạch 1.197 ha, giảm 2,7% so cùng kỳ; năng suất bình quân đạt 36,2 tạ/ha với sản lượng 4.331 tấn, đạt 49,7% kế hoạch, giảm 2,6% so cùng kỳ.  Cây rau đậu các loại: trong tháng, gieo trồng 2.335 ha, thu hoạch 2.521 ha với sản lượng 54.920 tấn. Đến nay, gieo trồng được 31.771 ha, đạt 54,9% kế hoạch, giảm 6,9% so cùng kỳ, thu hoạch 29.215 ha, giảm 5,1% với sản lượng 610.203 tấn, đạt 49,4% kế hoạch, giảm 4,7% so cùng kỳ (trong đó: rau các loại 31.599 ha, giảm 6,9%; thu hoạch 29.091 ha, giảm 5,1% với sản lượng 609.826 tấn, giảm 4,7%). Do một số diện tích đất sản xuất lúa, màu ven khu công nghiệp chuyển sang đất kinh doanh nhà trọ, hàng quán, dịch vụ ăn uống và công trình công cộng. Bên cạnh đó, thiếu nhân công do chuyển dịch lao động sang ngành nghề khác có thu nhập tốt hơn, nên nông dân đã linh hoạt chuyển đổi trồng cây ít công chăm sóc như dừa, mít, sapo…  Chăn nuôi: Ước thời điểm 01/05/2023 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 123,8 ngàn con, giảm 0,4% so cùng kỳ; đàn lợn 275,6 ngàn con, giảm 1,6%; đàn gia cầm (không kể chim cút) 16,2 triệu con, giảm 4,2%. Nhìn chung, tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh có xu hướng giảm: đàn bò giảm nhẹ so cùng kỳ; đàn lợn giảm so cùng kỳ do chi phí chăn nuôi ở mức cao, sức tiêu thụ thịt lợn tại các nhà hàng, quán ăn, khu công nghiệp ở mức không cao dẫn đến việc giảm đàn và ngưng chăn nuôi ở một số hộ; đàn gia cầm giảm mạnh do chăn nuôi không hiệu quả ở một số gia trại, trang trại vì áp lực chi phí chăn nuôi.  * Tình hình dịch bệnh trên vật nuôi: Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang  Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi: trong tháng, ghi nhận 01 trường hợp lợn mắc bệnh tại xã Mỹ Trung, huyện Cái Bè với số lợn bệnh 17 con trên tổng đàn 20 con. Tính từ ngày 14/12/2022 đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh ghi nhận 07 hộ có lợn mắc bệnh với tổng số lợn bệnh là 179 trên tổng đàn 270 con tại 05 huyện (Cai Lậy; Tân Phước; Gò Công Tây; Gò Công Đông; Cái Bè). Số lợn được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 215 con, trọng lượng 7.300 kg. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh còn 01 xã/01huyện chưa qua 21 ngày (xã Mỹ Trung, huyện Cái Bè).  Bệnh viêm da nổi cục: tính từ ngày 14/12/2022 đến nay, ghi nhận bò bệnh viêm da nổi cục tại 02 huyện với 04 con bò bệnh trên tổng đàn 12 con.Hình 2. Chăn nuôi tại thời điểm 01/5/2023  2. Lâm nghiệp:  Tổng diện tích rừng hiện có trên địa bàn tỉnh Tiền Giang là 1.764,5 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng), cụ thể: 1.381,8 ha rừng phòng hộ và 382,7 ha rừng sản xuất.  Ước đến cuối 05/2023 toàn tỉnh thực hiện trồng mới được 15,2 ngàn cây, nâng tổng số cây trồng được 17,2 ngàn cây. Các loại cây được trồng trên các bờ kênh, trên những tuyến đường đê, đường nông thôn mới mở, ven đường, trụ sở cơ quan xã nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu ở huyện Cái Bè, Tân Phước, Chợ Gạo, Gò Công Tây.  3. Thủy hải sản:  Diện tích nuôi thủy sản trong tháng đạt 947 ha, tính chung 5 tháng đầu năm 2023 đạt 11.992 ha, đạt 81,3% kế hoạch, tăng 1,3% so cùng kỳ; trong đó: diện tích nuôi cá đạt 3.373 ha, tăng 3,8%, diện tích nuôi tôm đạt 5.599 ha, tăng 0,5%; diện tích nuôi thủy sản khác đạt 3.020 ha tương đương so với cùng kỳ.  Sản lượng thủy sản thu hoạch trong tháng đạt 20.144 tấn, tính chung 5 tháng đầu năm 2023 đạt 103.314 tấn, giảm 17,7% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 61.924 tấn, tăng 2,6%; sản lượng khai thác 41.390 tấn, giảm 36,5% so cùng kỳ. Do giá nhiên liệu tăng cao, chi phí nhân công tăng sau Tết Nguyên đán, thiếu nhân công khai thác, tình hình biển động, gió lớn nhiều tàu không ra khơi.  II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP  Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 5/2023 giảm 0,02% so với tháng trước, do một số ngành sản xuất công nghiệp chủ yếu của tỉnh như: Sản xuất chế biến thực phẩm; Dệt; Sản xuất da... giảm so với tháng trước (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,1%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,43%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 1,2%) và giảm 2,81% so cùng kỳ do các ngành chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh sản xuất giảm như: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 17,5%; Sản xuất đồ uống giảm 3,9%; sản xuất trang phục giảm 3,1%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 4,8%... (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 3,2%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 13,4% ; riêng ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 8,4%).  Chỉ số sản xuất công nghiệp 5 tháng năm 2023 tăng 2,1% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,1%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 5,4%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 3,2%.Hình 3. Chỉ số sản xuất công nghiệp    Chỉ số sản xuất sản phẩm trong 5 tháng so cùng kỳ như sau:   - Có 20/40 sản phẩm tăng so cùng kỳ: giấy vệ sinh tăng 96,6%; thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng bột/cốm tăng 80,8%; máy gặt đập liên hợp tăng 66,7%; giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài tăng 52,5%; Ống và ống dẫn bằng đồng tăng 33,6%; phân vi sinh tăng 21,7%; dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu, thuyền tăng 21,1%; thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 9,3%; điện thương phẩm tăng 5,4%; Thức ăn cho gia súc tăng 1,5%;…  - Có 20/40 sản phẩm giảm so cùng kỳ: cáp đồng trục và dây dẫn điện đồng trục giảm 81,6%; thuốc diệt cỏ, thuốc chống nảy mầm và thuốc điều hòa sinh trưởng cây trồng giảm 49,2%; túi xách giảm 33,3%; phi lê đông lạnh giảm 29,1%; dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 24,9%; thức ăn cho thủy sản giảm 17,6%; bóng thể thao khác giảm 14,4%; bia đóng lon giảm 13,1%; màn bằng vải khác giảm 11,9%; cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép giảm 6,2%; Bia đóng chai giảm 3,5%; Nước uống được giảm 3,1%;…  * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo:  - Chỉ số tiêu thụ tháng 5/2023 so với tháng trước giảm 8,93% và giảm 16,3% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 5/2023 giảm 9,34%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 23,68%, trong đó sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản giảm 20,13%; sản xuất đồ uống giảm 5,22%, trong đó sản xuất bia giảm 5,22%; sản xuất trang phục giảm 66,92%; sản xuất da giảm 22,59%, trong đó sản xuất giày dép giảm 12,54%; sản xuất sản phẩm cao su và plastic giảm 10,5%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 69,69%;… Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng so cùng kỳ là: dệt tăng 15,3%, trong đó sản xuất sợi tăng 21,32%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 78,61%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy bằng gấp 2,5 lần; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 53,17%; sản xuất kim loại tăng 31,93%;…  - Chỉ số tồn kho tháng 5/2023 tăng 20,06% so với tháng trước và tăng 80,34% so với cùng kỳ. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ là: sản xuất chế biến thực phẩm tăng gấp 1,6 lần, trong đó sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 75,17%; sản xuất đồ uống tăng gấp 2,2 lần, trong đó sản xuất bia tăng gấp 2,2 lần; sản xuất trang phục tăng 62,95%; sản xuất da tăng 60,84%, trong đó sản xuất giày dép tăng 71,04%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 55,22%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng gấp 1,4 lần; sản xuất kim loại tăng 76,26%;... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ là: dệt giảm 3,24%, trong đó sản xuất hàng may sẳn giảm 31,81%; sản xuất thiết bị điện giảm 92,18%, trong đó sản xuất mô tơ điện giảm 93,24%; chế biến, chế tạo khác giảm 18,19%, trong đó sản xuất đồ chơi, trò chơi giảm 18,19%;…  * Tình hình thu hút đầu tư và phát triển các khu - cụm công nghiệp:  - Khu công nghiệp: đến nay tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương quy hoạch 7 khu công nghiệp với tổng diện tích 2.083,5 ha; trong đó có 4 khu công nghiệp đi vào hoạt động. Trong tháng, Ban Quản lý các khu công nghiệp điều chỉnh thông tin người đại diện cho 01 lượt dự án.  Đến cuối tháng 5/2023, tổng số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp là 111 dự án (trong đó có 82 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài) với tổng vốn đầu tư là 2,4 tỷ USD và 4.865,9 tỷ đồng. Diện tích cho thuê của các doanh nghiệp đạt 525,5/753,2 ha, chiếm tỷ lệ 69,8% diện tích các khu công nghiệp.   - Cụm công nghiệp: trên địa bàn tỉnh có 27 cụm công nghiệp được quy hoạch; trong đó có 5 cụm công nghiệp (CCN) đã mời gọi được nhà đầu tư gồm: CCN Trung An, Tân Mỹ Chánh, An Thạnh, Song Thuận, Gia Thuận 1 đã hoàn thành đầu tư hạ tầng, đang hoạt động ổn định. Trong tháng không thu hút dự án đầu tư mới. Tổng số dự án đầu tư tại các cụm công nghiệp đến nay là 79 dự án (trong đó: có 6 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 150,3 triệu USD và 2.306,2 tỷ đồng, diện tích thuê đất là 88,7 ha, tỷ lệ lắp đầy đạt 73,6% diện tích đất cho thuê.  III. ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG  Trong tháng tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý tăng do phát huy nguồn vốn đầu tư công trong khôi phục và phát triển kinh tế. Ngay từ đầu năm Ủy ban Nhân dân tỉnh Tiền Giang chỉ đạo các sở, ban, ngành và địa phương sớm giao vốn cho chủ đầu tư, không đầu tư dàn trải, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công kịp thời,… tình hình đầu tư công của tỉnh có những chuyển biến tích cực. Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện trong tháng là 706 tỷ đồng, tăng 1,1 lần so cùng kỳ. Năm tháng đầu năm 2023 thực hiện 1.851 tỷ đồng, đạt 35,1% kế hoạch, tăng 47% so cùng kỳ.  Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh thực hiện 1.502 tỷ đồng, đạt 34,4% kế hoạch, tăng 54,5% so cùng kỳ, chiếm 81,2% tổng số; trong đó: vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 569 tỷ đồng, tăng 1,9 lần, vốn xổ số kiến thiết thực hiện 543 tỷ đồng, tăng 18,4% so cùng kỳ... Các ngành các cấp yêu cầu các ban quản lý chủ đầu tư tập trung với cường độ cao hơn trong tổ chức thực hiện, ưu tiên đẩy nhanh tiến độ đầu tư công, kể cả tiến độ giải ngân. Ngoài ra thời tiết thuận lợi, nguyên vật liệu trong xây dựng biến động không nhiều, nên khối lượng thực hiện tăng hơn so cùng kỳ, nhiều công trình đã hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng, các công trình còn lại thi công đúng theo tiến độ đề ra...  Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện 259 tỷ đồng, đạt 48,2% kế hoạch, tăng 13,8% so cùng kỳ, chiếm 14% tổng số; trong đó: vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 108 tỷ đồng, tăng 15,1% so cùng kỳ... Các ban quản lý dự án huyện hoàn thành hồ sơ, khẩn trương triển khai thi công các công trình xây dựng cơ bản năm 2023, dự án giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới nên khối lượng thực hiện tăng hơn so cùng kỳ.  Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp xã thực hiện 89 tỷ đồng, đạt 13,3% kế hoạch, tăng 49,6% so cùng kỳ, chiếm 4,8% tổng số; trong đó: vốn huyện hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 49 tỷ đồng, tăng 49,6% so cùng kỳ... Ngay từ đầu năm các địa phương có ghép vận động, huy động nguồn vốn đóng góp để tiến hành thi công các danh mục công trình đăng ký thuộc nguồn vốn phân cấp xã, phường. Đồng thời tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình xây dựng nông thôn mới năm 2023 nhằm phục vụ đi lại và vận chuyển hàng hóa của người dân đồng thời phục vụ ra mắt xã nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao. Trong đó, ưu tiên bố trí các dự án khởi công mới thuộc lĩnh vực giao thông, phòng chống thiên tai, xử lý sạt lở, biến đổi khí hậu, giáo dục, y tế, …Hình 4. Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý - 5 tháng đầu năm 2023   IV. THƯƠNG MẠI - GIÁ CẢ - DỊCH VỤ   1. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng:  Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong tháng thực hiện 6.678 tỷ đồng, tương đương so tháng trước và tăng 15,1% so cùng kỳ. Năm tháng đầu năm 2023, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thực hiện 32.785 tỷ đồng, đạt 40% kế hoạch, tăng 10,8% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 25.356 tỷ đồng, tăng 7,4%; lưu trú 124 tỷ đồng, tăng 1,2 lần; ăn uống 2.742 tỷ đồng, tăng 32,8%; du lịch lữ hành 44 tỷ đồng, tăng 3,1 lần; dịch vụ tiêu dùng khác 4.519 tỷ đồng, tăng 17,6% so cùng kỳ.Hình 5. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng  2. Xuất - Nhập khẩu:  a. Xuất khẩu:  Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng ước thực hiện 325 triệu USD, tăng 4,5% so tháng trước; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 68 triệu USD, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 257 triệu USD. Năm tháng ước xuất khẩu 1.564 triệu USD, đạt 40,1% kế hoạch, giảm 9,7% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 15 triệu USD, tăng 318,4%; kinh tế ngoài nhà nước 267 triệu USD, giảm 15,1%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.282 triệu USD, giảm 9,3% so cùng kỳ.  b. Nhập khẩu:  Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng 5/2023 đạt 197 triệu USD, tăng 9,9% so tháng trước. Năm tháng, kim ngạch nhập khẩu 943 triệu USD, đạt 41% kế hoạch, giảm 2,8% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước nhập 46 triệu USD, giảm 22,1%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập 896 triệu USD, giảm 1,5% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu 5 tháng chủ yếu các mặt hàng như: nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 107 triệu USD, giảm 39,1%; vải các loại 92 triệu USD, giảm 13%; hàng hóa khác 141 triệu USD, giảm 9,9%... so cùng kỳ.  3. Chỉ số giá:  Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2023 tăng 0,06% so tháng 4/2023 (thành thị tăng 0,03%, nông thôn tăng 0,07%); so cùng kỳ tăng 1%.  So với tháng 04/2023, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 10 nhóm tăng như: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,59% (trong đó: lương thực tăng 0,14%, thực phẩm tăng 0,7% và ăn uống ngoài gia đình tăng 0,55%); đồ uống và thuốc lá tăng 0,23%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,22%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,68%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,07%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,03%; bưu chính viễn thông tăng 0,02%; giáo dục tăng 0,06%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,28% và hàng hóa dịch vụ khác tăng 0,13%. Riêng chỉ số giá nhóm giao thông giảm 3,33%.  Một số mặt hàng có chỉ số giá tăng so với tháng trước như:  - Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,59%, trong đó nhóm hàng thực phẩm tăng 0,14% so với tháng trước; do tình hình xuất khẩu đang thuận lợi, giá gạo xuất khẩu tiếp tục ở mức cao giá gạo bán lẻ tại địa phương tăng; thực phẩm tăng 0,7% là do thời gian nghỉ lễ 30/4 và 01/5/2023 vừa qua kéo dài nhu cầu tiêu dùng tăng cao, dẫn đến giá tăng.  - Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,23%, do nhu cầu tiêu dùng tăng lên trong những ngày nghỉ lễ 30/4- 01/5 vừa qua, nên giá một số mặt hàng rượu, bia giá tăng nhẹ.  - Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,68%, do giá vật liệu xây dựng tăng. Cụ thể: xi măng PC40 Hà Tiên tăng 1,39%, giá sắt phi 6 Miền Nam tăng 0,36%, sắt vằn phi 10 Miền Nam tăng 0,3%, giá cát đen xây dựng tăng 0,78%, giá cát đen san lấp nền tăng 1,37% và tấm tôn mát 3 lớp tăng 7,37%.... Thời tiết nắng nóng kéo dài, nhu cầu sử dụng điện làm mát của người dân tăng lên; mặc khác từ ngày 04/5/2023 Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 1062/QĐ-BCT v/v điều chỉnh tăng giá điện sinh hoạt, tác động đến giá bán lẻ điện sinh hoạt bình quân trong tháng tăng 3,26%.  - Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,03%, do thời tiết giao mùa, các loại vi rút gây bệnh sinh sôi, số ca nhiễm Covid-19 tăng trở lại... Trong đó, giá nhóm thuốc trị tim mạch tăng 0,55%; nhóm thuốc tác dụng trên đường hô hấp tăng 0,66% và một số loại thuốc khác tăng 0,1%.  Bên cạnh đó, mặt hàng có chỉ số giá giảm:  Nhóm giao thông giảm 3,33% so tháng trước. Chỉ số giá nhóm hàng giao thông giảm chủ yếu ở mặt xăng, dầu. Cụ thể như: giá xăng dầu trong tháng điều chỉnh giảm ba lần (04/5;11/5; 22/5) làm cho CPI giảm 3,33%, trong đó: xăng A5-III giảm 7,86%, tương ứng giảm 2.140 đồng/lít; xăng sinh học E5 giảm 7,79%, giảm 2.200 đồng/lít; dầu Diezen 0,05S-II giảm 7,87%, giảm 1.440 đồng/lít.  Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 5 tháng năm 2023 so cùng kỳ tăng 2,45%; một số nhóm hàng có giá tăng nhiều trong 5 tháng năm 2023 so cùng kỳ như: nhóm Giáo dục tăng 7,81%, trong đó dịch vụ giáo dục tăng 8,28%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 3,01%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 3,18%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,74%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2,18%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 4,1%; …  Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 5/2023 tăng 1,39% so tháng trước, giá bình quân tháng 05/2023 là 5.705 ngàn đồng/chỉ, tăng 81 ngàn đồng/chỉ so cùng kỳ. Giá vàng trong tháng tăng do nhu cầu tăng cao trên thị trường; ngoài ra nhu cầu đôla Mỹ (USD) suy yếu so với nhiều ngoại tệ khác và giá dầu thô biến động cùng những bất ổn chính trị tại một số quốc gia, khu vực trên thế giới.  Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 05/2023 tăng giảm 0,03% so tháng trước, giá bình quân 23.636 đồng/USD, tăng 479 đồng/USD so cùng kỳ.  4. Du lịch:  Khách du lịch đến trong tháng 5/2023 được 113 ngàn lượt khách, tăng 1,1% so tháng trước và tăng 82,9% so cùng kỳ; trong đó: khách du lịch quốc tế 12 ngàn lượt khách, tăng 5,3 lần so cùng kỳ. Doanh thu lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác trong tháng 5 đạt 1.469 tỷ đồng, giảm 4,7% so tháng trước và tăng 11,6% so cùng kỳ.Tính chung năm tháng đầu năm 2023, lượt khách du lịch đến Tiền Giang là 479 ngàn lượt khách, đạt 38,3% kế hoạch và tăng 1,2 lần so cùng kỳ; trong đó: khách quốc tế 38 ngàn lượt khách, đạt 15,4% kế hoạch, tăng 5,3 lần so cùng kỳ. Tổng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch, dịch vụ tiêu dùng khác đạt 7.429 tỷ đồng, tăng 24,4% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ ăn uống chiếm tỷ trọng 37,8%, ước đạt 2.742 tỷ đồng, tăng 32,8%, lưu trú đạt 124 tỷ đồng, tăng 1,2 lần so cùng kỳ...  5. Vận tải:  Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải trong tháng thực hiện 223 tỷ đồng, tăng 0,9% so tháng trước và tăng 22,1% so cùng kỳ. Năm tháng thực hiện 996,9 tỷ đồng, tăng 21,5% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 254 tỷ đồng, tăng 20,4%; doanh thu vận tải hàng hóa thực hiện 639 tỷ đồng, tăng 21,8% so cùng kỳ. Doanh thu vận tải đường bộ thực hiện 399,7 tỷ đồng, tăng 21,6%; doanh thu vận tải đường thủy thực hiện 493 tỷ đồng, tăng 21,3%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 104 tỷ đồng, tăng 22,1% so cùng kỳ.  Vận tải hành khách trong tháng đạt 1.452 ngàn hành khách, tăng 1,9% so tháng trước và tăng 19,4% so cùng kỳ; luân chuyển 28.391 ngàn hành khách.km, tương đương so tháng trước và tăng 15% so cùng kỳ. Năm tháng, vận chuyển 6.946 ngàn hành khách, tăng 14,2% so cùng kỳ; luân chuyển 150.352 ngàn hành khách.km, tăng 12,3% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 2.236 ngàn hành khách, tăng 12,6% và luân chuyển 145.577 ngàn hành khách.km, tăng 12,3% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 4.710 ngàn hành khách, tăng 15,1% và luân chuyển 4.775 ngàn hành khách.km, giảm 13,8% so cùng kỳ.  Vận tải hàng hóa trong tháng đạt 1.454 ngàn tấn, tăng 0,8% so tháng trước và tăng 20,2% so cùng kỳ; luân chuyển 247.871 ngàn tấn.km, tăng 0,8% so tháng trước và tăng 18,5% so cùng kỳ. Năm tháng, vận tải 6.152 ngàn tấn hàng hóa, tăng 17,8% so cùng kỳ; luân chuyển 1.116.947 ngàn tấn.km, tăng 15,3% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 935 ngàn tấn, tăng 12,9% và luân chuyển 153.087 ngàn tấn.km, tăng 20,3% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 5.217 ngàn tấn, tăng 18,7% và luân chuyển 963.860 ngàn tấn.km, tăng 14,6% so cùng kỳ.  * Công tác quản lý phương tiện giao thông:         Trong tháng đăng ký mới 4.093 chiếc xe mô tô xe máy, 367 chiếc xe ô tô, 06 chiếc xe đạp điện và 02 chiếc xe khác. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.458.897 chiếc, trong đó: mô tô xe máy 1.409.324 chiếc, 48.417 chiếc xe ô tô, 153 chiếc xe ba bánh, 435 chiếc xe đạp điện và 568 chiếc xe khác.  6. Bưu chính viễn thông:  Doanh thu trong tháng 5/2023 đạt 333 tỷ đồng, tăng 0,9% so tháng trước và tăng 3,8% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 31 tỷ đồng, tăng 3,1% và viễn thông 302 tỷ đồng, tăng 0,7% so tháng trước. Năm tháng doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 1.642 tỷ đồng, tăng 3,5% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 151 tỷ đồng, tăng 14,6% và viễn thông 1.491 tỷ đồng, tăng 2,5% so cùng kỳ.  Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 5/2023 là 124.356 thuê bao, mật độ bình quân đạt 6,9 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Thuê bao internet có trên mạng cuối tháng 5/2023 là 371.535 thuê bao, mật độ internet bình quân đạt 20,9 thuê bao/100 dân. Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa dẫn đến khách hàng dần chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Số thuê bao điện thoại di động có sử dụng internet (3G, 4G) đến cuối tháng 5 năm 2023 là 1.489.498 thuê bao.  V. TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG  1. Tài chính:  Tổng thu ngân sách nhà nước trong tháng thực hiện 1.182 tỷ đồng; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn 805 tỷ đồng, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 240 tỷ đồng. Năm tháng, thu 10.776 tỷ đồng, đạt 71,8% dự toán; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 4.238 tỷ đồng, đạt 41,2% dự toán và tăng 1,2% so cùng kỳ; thu nội địa 4.139 tỷ đồng, đạt 41,9% dự toán, tăng 1,2% so cùng kỳ (trong thu ngân sách trên địa bàn: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.206 tỷ đồng, đạt 37,1% dự toán, giảm 3,7% so cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 544 tỷ đồng, đạt 47,3% dự toán, tăng 12,5% so cùng kỳ...).  Tổng chi ngân sách nhà nước trong tháng 1.305 tỷ đồng; trong đó: chi đầu tư phát triển 520 tỷ đồng. Năm tháng, chi 7.146 tỷ đồng, đạt 50,7% dự toán, tăng 49,6% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 2.647 tỷ đồng, đạt 49,9% dự toán, tăng 98,5% so cùng kỳ; chi hành chính sự nghiệp 3.018 tỷ đồng, đạt 35,9% dự toán và tăng 23,9% so cùng kỳ.  2. Ngân hàng:  Về phía ngành Ngân hàng tỉnh, trên cơ sở thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chỉ đạo của Ngân hàng nhà nước Việt Nam , trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động phần nào cũng có tác động đến hoạt động ngành Ngân hàng cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh nói riêng. Các Tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn cùng với toàn ngành đang triển khai quyết liệt các giải pháp để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và phát triển. Một số kết quả đạt được của ngành Ngân hàng trên địa bàn tỉnh Tiền Giang trong tháng 5/2023 như sau:  Đến cuối tháng 4/2023, mặt bằng lãi suất ổn định tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển: Lãi suất huy động tối đa bằng Việt Nam đồng (VND) đối với tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng (0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng; 4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng áp dụng cho Ngân hàng thương mại (NHTM), 4,5%/năm áp dụng cho Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) và Tổ chức tài chín Việt Nam (TCTCVM). Lãi suất cho vay VND phổ biến ở mức trên 9-11%/năm đối với ngắn hạn; trên 11-13%/năm đối với trung dài hạn.  Đến cuối tháng 4/2023, vốn huy động đạt 91.151 tỷ đồng, tăng 3.345 tỷ, tỷ lệ tăng 3,89% so cuối năm 2022. Tổng dư nợ toàn tỉnh đạt 89.998 tỷ, tăng 3.977 tăng tỷ, tỷ lệ tăng 4,62% so với cuối năm 2022. Ước đến cuối tháng 5/2023, vốn huy động đạt 91.220 tỷ đồng, tăng 3.483 tỷ, tỷ lệ tăng 3,97%; tổng dư nợ đạt 90.253 tỷ, tăng 4.232 tỷ đồng, tăng trưởng tương đương 4,92% so với cuối năm 2022  Nợ xấu: cuối tháng 4/2023, số dư là 1.204 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,34%, tăng 0,65% so cuối năm 2022. Ước đến cuối tháng 5/2023, nợ xấu là 1.245 tỷ đồng, tỷ lệ 1,38%, tăng 0,69% so với cuối năm 2022. Nhìn chung, nợ xấu đang có chiều hướng tăng liên tục qua 4 tháng đầu năm, tăng cả về số dư và tỷ lệ, nguyên nhân phát sinh nợ xấu là do khách hàng hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả.  Quỹ tín dụng nhân dân: đến cuối tháng 4/2023, tổng nguồn vốn hoạt động đạt 1.386 tỷ đồng, tăng 4,4 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 0,32% so tháng 12/2022, trong đó vốn huy động tăng 0,98%, chiếm tỷ trọng 87% trong tổng nguồn vốn hoạt động. Dư nợ cho vay đạt 1.030 tỷ đồng, giảm 8,7 tỷ, tỷ lệ giảm 0,83%; từ đầu năm đến nay đáp ứng nhu cầu vốn cho 3.244 lượt thành viên vay vốn. Nợ xấu: số dư 5,4 tỷ đồng, giảm 1,5 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 0,53%, giảm 0,15% so tháng 12/2022.  VI. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  Trong tháng, tập trung cho các nội dung công việc như: kiểm tra tiến độ thực hiện 02 nhiệm vụ KH&CN (01 cấp tỉnh, 01 cấp cơ sở); nghiệm thu giai đoạn 01 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh; nghiệm thu kết thúc 04 nhiệm vụ KH&CN (02 cấp tỉnh, 02 cấp cơ sở).  Đến hết tháng 5/2023, thẩm định nội dung 05 nhiệm vụ KH&CN 04 cấp tỉnh, 01 nhiệm vụ cấp cơ sở; nghiệm thu kết thúc 10 nhiệm vụ KH&CN (06 cấp tỉnh, 04 cấp cơ sở; Quyết định triển khai 04 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh; Quyết định công nhận 04 nhiệm vụ cấp tỉnh, 02 nhiệm vụ cấp cơ sở); Gia hạn 01 nhiệm vụ cấp tỉnh.  VII. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI  1. Lao động việc làm:  Trong tháng, tư vấn nghề, việc làm, pháp luật lao động và tư vấn khác cho 3.058 lượt lao động, tăng 73,5% so cùng kỳ; trong đó tư vấn nghề cho 65 lượt lao động; tư vấn việc làm cho 2.623 lượt lao động thất nghiệp; tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác cho 121 lượt lao động.  Giới thiệu việc làm cho 223 lượt lao động, giảm 16,2% so cùng kỳ, trong đó 89 lao động có được việc làm ổn định, tăng 58,9% so cùng kỳ. Tính từ đầu năm, giới thiệu việc làm cho 628 lượt lao động, giảm 28,3% so cùng kỳ, trong đó có 333 lao động có việc làm ổn định, tăng 22% so cùng kỳ.  Tư vấn đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài cho 77 lượt lao động, tăng 26,2% so cùng kỳ; có 03 lao động đăng ký tham gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, tăng 03 lao động; có 50 lao động xuất cảnh đi làm việc ở nước ngoài (Nhật Bản 39 lao động, Đài Loan 06 lao động, Hàn Quốc 02 lao động, Hồng Kông - Trung Quốc 01 lao động, Canada 02 lao động), tăng 109,1% so cùng kỳ.  Tiếp nhận 3.137 lao động đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp, tăng 70,7% so cùng kỳ; 2.700 lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp, tăng 50,7% so cùng kỳ, với số tiền chi trả 51,4 tỷ đồng, tăng 51,7% so cùng kỳ.  2. Chính sách xã hội:  Trong tháng, các chính sách cho người có công trên địa bàn tỉnh được duy trì và đảm bảo thực hiện. Lập Quyết định giải quyết chế độ mai táng phí và 03 tháng trợ cấp: 85 trường hợp; trợ cấp mai táng phí theo các Quyết định 290/2005/QĐ-TTg: 19 trường hợp, 62/2011/QĐ-TTg: 12 trường hợp, 49/2015/QĐ-TTg: 9 trường hợp; trợ cấp thờ cúng: 26 trường hợp; chuyển thờ cúng: 75 trường hợp; giải quyết trợ cấp 1 lần: 15 trường hợp. Lập Quyết định trợ cấp hàng thàng đối với 01 con liệt sĩ tàn tật; hưởng thêm chế độ thương binh, bệnh binh đối với 03 đối tượng. Cấp mới sổ dụng cụ chỉnh hình: 02 trường hợp; Cấp lại giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ và thương binh, bệnh binh: 61 trường hợp.  3. Hoạt động y tế:  Trong tháng 5/2023, có 08/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận. Tính chung 5 tháng, có 10 bệnh tăng so cùng kỳ (Lao phổi, Quai bị, Sởi, Sốt xuất huyết Dengue, Tay – chân – miệng, Thủy đậu, Tiêu chảy, Uống ván khác, Viêm gan virut B, Viêm gan vi rut C); 2 bệnh giảm so cùng kỳ (Viêm não vi rút khác, Covid- 19); 32 bệnh tương đương hoặc không xảy ra ca mắc. Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết: ghi nhận 202 ca, cộng dồn 1.599 ca, tăng 3,3 lần so với cùng kỳ. Phòng chống HIV/AIDS: toàn tỉnh hiện có 6.579 người nhiễm HIV; 1.819 người chuyển sang AIDS; 1.298 người tử vong do AIDS.  Hoạt động khám chữa bệnh: tổng số lần khám bệnh 366.313 lượt người, tăng 41,5% so cùng kỳ; tổng số người điều trị nội trú 16.439 lượt người, tăng 47,1%; công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong tháng đạt 73,05%.  COVID-19: từ đầu năm đến nay, ghi nhận 784 ca nhiễm. Thống kê số liệu tiêm vắc xin trên các nhóm đối tượng (không bao gồm các trường hợp tiêm tại các điểm tiêm ngoài tỉnh):  - Từ 18 tuổi trở lên: 4.368.157 liều, Mũi 1: 100,2%; Mũi 2: 97,8%; Mũi 3: 80,1%; Mũi 4: 94,0%.  - Từ 12 đến dưới 18 tuổi: 445.398 liều, Mũi 1: 111,8%; Mũi 2: 109,3%; Mũi 3: 83,1%.  - Từ 5 đến dưới 12 tuổi: 317.615 liều, Mũi 1: 101,9%; Mũi 2: 94,2%.  4. Hoạt động giáo dục:  Trong tháng, tình hình dạy và học trên địa bàn tỉnh được đảm bảo. Để chủ động ứng phó, phòng chống dịch Covid-19, thời gian tổ chức kiểm tra đánh giá cuối kỳ II năm học 2022 – 2023 khối lớp 9 và lớp 12 từ 24/4/2023 đến 06/5/2023; các khối còn lại (6, 7, 8, 9, 10 và 11) có thể tổ chức kiểm tra cuối học kỳ II năm học 2022 – 2023 sớm hơn thời gian quy định tại Công văn số 449/SGDĐT- GDTrH-GDTX. Bên cạnh đó, tổ chức thi thử tốt nghiệp THPT năm 2023 vào các ngày 22, 23/5/2023; Thành lập Hội đồng ra đề thi và in sao đề thi tuyển sinh THPT năm học 2023-2024 (bắt đầu làm việc từ ngày 28/5/2023); Thành lập Ban Vận chuyển và bàn giao đề thi, nhận bài thi, hồ sơ thi tại các Hội đồng coi thi tuyển sinh lớp 10 Trung học phổ thông năm học 2023-2024.  5. Hoạt động văn hóa - thể thao:  Hoạt động bảo tàng: trong tháng, Bảo tàng tỉnh và các di tích đã đón hơn 3,9 nghìn lượt khách.  Hoạt động văn hóa nghệ thuật: thực hiện 17 buổi biểu diễn văn nghệ, tuyên truyền lưu động, chiếu phim phục vụ Nhân dân. Thực hiện tuyên truyền 35 pano, 40 băng ron, 390 cờ các loại, 20 giá đỡ trụ cờ chào mừng các ngày lễ. Tổ chức chương trình giao lưu nghệ thuật cải lương các tỉnh miền Tây Nam Bộ lần thứ I năm 2023 tại Rạp hát Thầy Năm Tú với các đơn vị: Đoàn nghệ thuật cải lương Long An; Nhà hát Tây Đô; Nhà hát Trần Hữu Trang và Đoàn cải lương Bến Tre kỷ niệm 105 năm ra đời vở cải luơng "Kim Vân Kiều" tại Rạp hát Thầy Năm Tú.   Hoạt động thư viện: trong tháng, Thư viện tỉnh phục vụ 23,7 nghìn lượt bạn đọc với 42,6 nghìn lượt sách báo được lưu hành; hệ thống thư viện huyện, thư viện xã ghi nhận 27,3 nghìn lượt bạn đọc với 53,8 nghìn lượt sách báo lưu hành.  Hoạt động thể dục – thể thao trên địa bàn tỉnh tiếp tục duy trì và đạt được nhiều thành tích nổi bật, trong đó:  - Đội Bóng đá U19 tham dự Vòng loại Bảng E - Giải Bóng đá vô địch (VĐ) U19 quốc gia năm 2023, từ ngày 26/3 - 17/4/2023 với kết quả đạt 09 điểm (02 trận thắng, 03 trận hòa, 03 trận thua), xếp hạng 4/5 đội.  - Đội Vovinam tham dự Giải VĐ các đội mạnh Vovinam toàn quốc năm 2023, từ ngày 06/4 – 16/4/2023 tại Bình Dương với kết quả đạt 02 Huy chương Bạc, 01 Huy chương Đồng.  - Đội Boxing tham dự Giải VĐ Boxing các đội mạnh toàn quốc năm 2023, từ ngày 15/4 – 27/4/2023 tại Đắk Lắk với kết quả đạt 02 Huy chương Bạc, 03 Huy chương Đồng.  - Đội Rowing tham dự Giải Đua thuyền Rowing VĐ các Câu lạc bộ toàn quốc, từ ngày 17/4 – 28/4/2023 tại Đà Nẵng với kết quả đạt 02 Huy chương Đồng.  - Cử VĐV tham dự Giải Tiền Sea Games 32 môn Arnis tại Campuchia, từ ngày 18/4 – 23/4/2023 với kết quả đạt 02 Huy chương Vàng.  - Vận động viên Văn Công Quốc đạt Huy chương bạc hạng cân 60kg Nam môn Arnis tại Seagames 32.  6. Tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội (Theo báo cáo của ngành công an):  Tình hình an ninh trật tự xã hội trong tháng được đảm bảo. Cơ quan chức năng tập trung thực hiện cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, vi phạm pháp luật bảo đảm an ninh trật tự dịp Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, Lễ 30/4 và 01/5 năm 2023. Trong tháng, tội phạm về trật tự xã hội ghi nhận 85 vụ, tăng 12 vụ so với tháng trước, chết 02 người, bị thương 18 người, tài sản thiệt hại khoảng 1,1 tỷ đồng; điều tra khám phá 67 vụ (đạt 78,8%), bắt xử lý 98 đối tượng, thu hồi tài sản khoảng 433 triệu đồng. Tính đến tháng 5/2023, tội phạm về trật tự xã hội ghi nhận 365, tăng 54 vụ, tương đương tăng 17,4% so với cùng kỳ, điều tra khám phá 292 vụ (đạt 80%), bắt xử lý 529 đối tượng.  Tình hình đấu tranh, xử lý tội phạm, vi phạm pháp luật về kinh tế, ma túy: Phát hiện, xử lý 19 vụ, 26 đối tượng phạm tội về ma túy và xử lý vi phạm hành chính 113 đối tượng có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; 01 vụ, 01 đối tượng phạm tội trên lĩnh vực tham nhũng; 12 vụ, 15 đối tượng vi phạm pháp luật về kinh tế.  7. Trật tự an toàn giao thông (Theo báo cáo của ngành công an):  Tai nạn giao thông đường bộ: tai nạn giao thông trong tháng xảy ra 20 vụ, giảm 02 vụ so tháng trước và giảm 14 vụ so cùng kỳ; làm chết 12 người, giảm 5 người so tháng trước và giảm 14 người so cùng kỳ; bị thương 15 người, tăng 2 người so tháng trước và tương đương người so cùng kỳ. Nâng tổng số vụ từ đầu năm đến nay 91 vụ, làm chết 61 người và bị thương 58 người. Ước thiệt hại tài sản trị giá khoảng 1,3 tỷ đồng.  Tai nạn giao thông đường thủy: không xảy ra vụ tai nạn.  * Tai nạn giao thông trong 04 ngày nghỉ lễ 30/4 và 01/5/2022 (tính từ ngày 29/4/2023 đến ngày 03/5/2023): Tai nạn giao thông đường bộ xảy ra 08 vụ, làm 05 người chết và 04 người bị thương. So cùng kỳ: giảm 01 vụ tai nạn, giảm 02 người chết và tăng 02 người bị thương.  8. Tình hình cháy nổ, môi trường:  Cháy, nổ trong tháng ghi nhận 02 vụ (phương tiện giao thông, dịch vụ kinh doanh ăn uống), tài sản thiệt hại khoảng 1,3 tỷ đồng, nguyên nhân do sự cố điện. Tính đến tháng 5/2023, ghi nhận 06 vụ cháy, tài sản sản thiệt hại khoảng 2,6 tỷ đồng.   Lĩnh vực môi trường: trong tháng, không ghi nhận vi phạm về môi trường trên địa bàn. Từ đầu năm đến nay, ghi nhận 05 vụ vi phạm với số tiền phạt 191,4 triệu đồng.  Tình hình thiên tai: trong tháng, trên địa bàn tỉnh xảy ra 04 cơn lốc xoáy ở các huyện là Châu Thành, Tân Phước, Cái Bè và Gò Công Tây, đã làm sập 02 căn nhà, làm tốc mái 146 căn nhà, làm ngã đổ khoảng 6.625 cây ăn. Ước tổng kinh phí thiệt hại là 8.240 triệu đồng.

Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang Tháng 4 năm 2023
  •   18/06/2024 10:24

Trong tháng tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh tiếp tục phát triển. Sản xuất nông nghiệp, công nghiệp tăng trưởng khá; các lĩnh vực văn hoá - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Bên cạnh đó, vẫn còn không ít khó khăn, thách thức như: thời tiết diễn biến bất thường, tình hình giá một số mặt hàng thiết yếu, giá nguyên nhiên liệu đầu vào cho sản xuất tăng cao,… Với sự tập trung chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh Ủy, điều hành chủ động, linh hoạt của Ủy ban nhân dân tỉnh, các ngành, các cấp, kinh tế - xã hội tháng 4/2023 đã đạt được nhiều kết quả khả quan tích cực. Kết quả thực hiện trên các lĩnh vực như sau:  I. SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ THỦY SẢN  1. Nông nghiệp  Cây lương thực có hạt: trong tháng, gieo trồng 22.870 ha, sản lượng thu hoạch 410 tấn. Ước tính 4 tháng đầu năm 2023 gieo trồng 72.191 ha, đạt 55% kế hoạch, giảm 3,1% so cùng kỳ; thu hoạch 339.846 tấn, đạt 42,7% kế hoạch, giảm 4,1% so cùng kỳ; trong đó cây lúa gieo sạ 70.957 ha, thu hoạch 48.202 ha; sản lượng thu hoạch 336.317 tấn.  - Cây lúa:  + Vụ Đông Xuân 2022 - 2023: chính thức xuống giống 48.202 ha, giảm 2% so cùng kỳ; thu hoạch 100% diện tích, sản lượng thu hoạch 336.317 tấn, giảm 4%, năng suất thu hoạch bình quân đạt 69,8 tạ/ha, giảm 2% so cùng kỳ. Diện tích gieo trồng giảm do chuyển đổi đất trồng lúa sang 110 ha đất phi nông nghiệp (xây dựng, cơ sở hạ tầng,..); 348,1 ha đất cây lâu năm; 539,3 ha đất trồng cây hàng năm khác và 2,5 ha đất nuôi trồng thủy sản. Giảm ở các huyện: thị xã Gò Công giảm 150 ha, thị xã Cai Lậy giảm 91,8 ha, Tân Phước giảm 108,8 ha, Cái Bè giảm 303 ha, Châu Thành giảm 15,7 ha, Chợ Gạo 37,3 ha, Gò Công Tây giảm 213,3 ha, Gò Công Đông giảm 80 ha.  + Vụ Hè Thu (gồm Xuân Hè và Hè Thu): gieo sạ 22.755 ha, đạt 33,5% kế hoạch chủ yếu ở các huyện phía tây như: thị xã Cai Lậy, huyện Cái Bè, huyện Cai Lậy, huyện Tân Phước và huyện Châu Thành, sau khi thu hoạch lúa Đông Xuân người dân tiếp tục gieo trồng vụ Hè thu.Hình 1. Cây lương thực có hạt tính đến 15/4/2023  - Cây ngô: trong tháng gieo trồng được 115 ha, thu hoạch 119 ha, sản lượng thu hoạch 410 tấn. Tính chung 4 tháng, diện tích gieo trồng đạt 1.234 ha, đạt 51% kế hoạch, giảm 10,3% so cùng kỳ; diện tích giảm do quá trình đô thị hóa và chuyển sang trồng cây lâu năm; năng suất thu hoạch 36,1 tạ/ha, đạt 100,2% kế hoạch, tăng 0,1% so cùng kỳ với sản lượng 3.529 tấn, đạt 40,5% kế hoạch, giảm 9,8% so cùng kỳ.  - Cây rau đậu các loại: trong tháng gieo trồng 1.613 ha, thu hoạch 1.322 ha với sản lượng thu hoạch 21.782 tấn. Tính chung 4 tháng, diện tích gieo trồng đạt 28.076 ha, giảm 11,6% so cùng kỳ; diện tích thu hoạch 25.694 ha, giảm 9,2% với sản lượng thu hoạch đạt 534.424 tấn, giảm 9,1% so cùng kỳ; trong đó: rau các loại gieo trồng 27.916 ha, giảm 11,6%; thu hoạch 25.608 ha, giảm 9,2% với sản lượng 534.164 tấn, giảm 9,1% so cùng kỳ.  * Chăn nuôi: ước thời điểm 01/4/2023 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 123,8 ngàn con, giảm 0,4% so cùng kỳ; đàn lợn 293,6 ngàn con, tăng 3,3%; đàn gia cầm 16,3 triệu con, giảm 5,2%. Nhìn chung, đàn bò giảm nhẹ; đàn lợn tăng do dịch bệnh được kiểm soát, người chăn nuôi chủ động tái đàn và tăng đàn; đàn gia cầm giảm do một số gia trại, trang trại chăn nuôi không hiệu quả vì áp lực chi phí thức ăn chăn nuôi cao.  * Tình hình dịch bệnh trên vật nuôi: Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang:  Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi: trong tháng không ghi nhận. Tính từ ngày 14/12/2022 đến nay, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 06 hộ có lợn mắc bệnh với tổng số lợn bệnh 162 con trên tổng đàn 250 con tại 06 xã/04 huyện (Cai Lậy: 01 xã; Tân Phước: 01 xã; Gò Công Tây: 02 xã; Gò Công Đông: 01 xã). Số lợn được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 205 con, trọng lượng 6.638 kg.  Bệnh viêm da nổi cục: trong tháng không ghi nhận. Tính từ ngày 14/12/2022 đến nay, ghi nhận bò mắc bệnh tại 02 huyện/02 xã với 04 con bò bệnh trên tổng đàn 12 con.Hình 2. Chăn nuôi tại thời điểm 01/4/2023  2. Lâm nghiệp:  Tổng diện tích rừng hiện có là 1.771,5 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng). Trong đó rừng phòng hộ: 1.381,8 ha (huyện Gò Công Đông: 429,5 ha; huyện Tân Phú Đông: 896,9 ha và huyện Tân Phước: 55,4 ha). Rừng sản xuất: 389,7 ha.  Ước đến hết tháng 4/2023 toàn tỉnh thực hiện trồng mới được 0,4 ngàn cây phân tán nâng tổng số cây trồng được 2 ngàn cây các loại, giảm 48,3% so với cùng kỳ. Nguyên nhân giảm là do thời tiết hiện nay nắng nóng, ít mưa chưa thuận lợi cho trồng cây, các loại cây trồng chủ yếu là bạch đàn, xà cừ, tràm trồng trên các tuyến đường đi, bờ ao, bờ kênh ven sông.  3. Thủy hải sản:  Diện tích nuôi thủy sản các loại trong tháng đạt 1.277 tấn, giảm 0,6% so cùng kỳ. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, diện tích nuôi đạt 10.945 ha, đạt 74,2% kế hoạch, tăng 0,5% so cùng kỳ; trong đó: diện tích nuôi cá đạt 3.194 ha tăng 0,7%, diện tích nuôi tôm đạt 4.731 ha, tăng 0,7%; diện tích nuôi thủy sản khác đạt 3.020 ha tương đương so với cùng kỳ.  Sản lượng thủy sản thu hoạch trong tháng đạt 21.875 tấn, giảm 20% so với cùng kỳ. Tính chung 4 tháng, sản lượng thu hoạch đạt 83.170 tấn, giảm 19,6% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 51.959 tấn, tăng 3%; sản lượng khai thác 31.211 tấn, giảm 41%. Sản lượng thủy sản giảm chủ yếu ở sản lượng khai thác vì giá nhiên liệu tăng cao, chi phí nhân công tăng sau tết âm lịch, thiếu nhân công, tình hình biển động, gió lớn sản lượng giảm nên chuyến biển đánh bắt không hiệu quả, ngư dân không đánh bắt được vì không thể xuống lưới.  II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP  Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 4/2023 giảm 1,87% so với tháng trước, do một số ngành sản xuất công nghiệp có chỉ số giảm như: sản xuất đồ uống giảm 4,68%; sản xuất trang phục giảm 3,72%; sản xuất kim loại giảm 1,95%; dệt giảm 8,84%...  Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 4 năm 2023 tăng 4,5% so cùng kỳ, do một số ngành chiếm tỷ trọng lớn tăng như: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 7,52%; Sản xuất kim loại tăng 57,4%; Sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 91,52%;... Chỉ số sản xuất công nghiệp 4 tháng năm 2023 tăng 3,87% so cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,95%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 5,49%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 2,63%.Hình 3. Chỉ số sản xuất công nghiệp   Chỉ số sản xuất sản phẩm trong 4 tháng so cùng kỳ như sau:  - Có 19/40 sản phẩm tăng so cùng kỳ: giấy vệ sinh tăng 124,6%; thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng bột/cốm tăng 64,9%; giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài tăng 60,2%; ống và ống dẫn bằng đồng tăng 44,9%; Máy gặt đập liên hợp tăng 33,3%; tàu thuyền lớn chuyên chở người và hàng hóa có động cơ đẩy tăng 32,4%; thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 14,7%; bộ com lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 9,9%; điện thương phẩm tăng 5,5%; thức ăn cho gia súc tăng 1,9%; giày, dép thể thao có đế ngoài và mũ giày bằng cao su và plastic tăng 1%; bia đóng chai tăng 0,9%;…  - Có 21/40 sản phẩm giảm so cùng kỳ: cáp đồng trục và dây dẫn điện đồng trục giảm 75,1%; thuốc diệt cỏ, thuốc chống nảy mầm và thuốc điều hòa sinh trưởng cây trồng giảm 39,8%; túi xách giảm 37,3%; phi lê đông lạnh giảm 36,5%; dây thép không gỉ giảm 34,7%; áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc giảm 25,1%; thức ăn cho thủy sản giảm 21,9%; màn bằng vải khác giảm 15,5%; Bia đóng lon giảm 14,4%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo giảm 12,5%; Dịch vụ thu gom rác thải không độc hại có thể tái chế giảm 11%; Dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 8,3%; Cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép giảm 7,9%; Bóng thể thao khác giảm 6,8%; Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) giảm 4,1%; Nước uống được giảm 1,9%;  * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo:  - Chỉ số tiêu thụ tháng 4/2023 so với tháng trước giảm 2,81% và giảm 7,85% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 4/2023 giảm 7,56%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 23,53% (trong đó sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản giảm 16,54%); sản xuất đồ uống giảm 4,89% (trong đó sản xuất bia giảm 4,89%); sản xuất trang phục giảm 68,97%; sản xuất da giảm 26,78% (trong đó sản xuất giày dép giảm 16,11%); sản xuất sản phẩm cao su và plastic giảm 8,57%; … Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: dệt tăng 15,2% (trong đó sản xuất sợi tăng 17,87%); chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 92,57%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy bằng gấp 3,2 lần; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 60,16%; sản xuất kim loại tăng 42,17%;…  - Chỉ số tồn kho tháng 4/2023 so với tháng trước tăng 20,17% và so với cùng kỳ tăng 47,12%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ là: sản xuất chế biến thực phẩm tăng 21,64%; sản xuất đồ uống bằng gấp 8,7 lần; sản xuất trang phục tăng 94,46%; sản xuất da tăng 71,24%; sản xuất giấy tăng 46,32%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 56,75%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic bằng gấp 2,4 lần; sản xuất kim loại tăng 98,88%; chế biến, chế tạo khác tăng 52,69%;... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ là: dệt giảm 12,81%, trong đó sản xuất hàng may sẳn giảm 33,53%; sản xuất thiết bị điện giảm 73,99%, trong đó sản xuất mô tơ điện giảm 75,68%…  * Tình hình thu hút đầu tư và phát triển các khu - cụm công nghiệp:  - Khu công nghiệp: đến nay tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương quy hoạch 7 khu công nghiệp với tổng diện tích 2.083,5 ha; trong đó có 4 khu công nghiệp đi vào hoạt động. Trong tháng, Ban Quản lý các khu công nghiệp có 01 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn đầu tư với tổng vốn đầu tư tăng thêm là 3 triệu USD và điều chỉnh thông tin người đại diện.  Đến cuối tháng 4/2023, tổng số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp là 111 dự án (trong đó có 82 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài) với tổng vốn đầu tư là 2,4 tỷ USD và 4.865,9 tỷ đồng. Diện tích cho thuê của các doanh nghiệp đạt 525,5/753,2 ha, chiếm tỷ lệ 69,8% diện tích các khu công nghiệp.   - Cụm công nghiệp: trên địa bàn tỉnh có 27 cụm công nghiệp được quy hoạch; trong đó có 5 cụm công nghiệp (CCN) đã mời gọi được nhà đầu tư gồm: CCN Trung An, Tân Mỹ Chánh, An Thạnh, Song Thuận, Gia Thuận 1 đã hoàn thành đầu tư hạ tầng, đang hoạt động ổn định. Trong tháng không thu hút dự án đầu tư mới. Tổng số dự án đầu tư tại các cụm công nghiệp đến nay là 79 dự án (trong đó: có 6 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 150,3 triệu USD và 2.306,2 tỷ đồng, diện tích thuê đất là 88,7 ha, tỷ lệ lắp đầy đạt 73,6% diện tích đất cho thuê.  III. ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG  Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện trong tháng là 401 tỷ đồng, tăng 25,1% so cùng kỳ. Bốn tháng đầu năm 2023 thực hiện 1.125 tỷ đồng, đạt 21,4% kế hoạch, tăng 22% so cùng kỳ. Ủy ban Nhân dân tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành tỉnh và địa phương nâng cao trách nhiệm trong quản lý đầu tư xây dựng công trình cũng như đẩy mạnh huy động các nguồn lực của các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển.  Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh thực hiện 907 tỷ đồng, đạt 20,8% kế hoạch, tăng 25,4% so cùng kỳ, chiếm 80,6% tổng số; trong đó: vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 298 tỷ đồng, tăng 1,1 lần, vốn xổ số kiến thiết thực hiện 348 tỷ đồng, tăng 4,% so cùng kỳ...Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện 180 tỷ đồng, đạt 33,5% kế hoạch, tăng 9,8% so cùng kỳ, chiếm 16% tổng số; trong đó: vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 72 tỷ đồng, tăng 16,5% so cùng kỳ...  Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp xã thực hiện 38 tỷ đồng, đạt 10,4% kế hoạch, tăng 9,5% so cùng kỳ, chiếm 3,4% tổng số; trong đó: vốn huyện hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 19 tỷ đồng, tăng 4% so cùng kỳ...Hình 4 . Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý - 4 tháng đầu năm 2023  IV. THƯƠNG MẠI - GIÁ CẢ - DỊCH VỤ  1. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng:  Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong tháng thực hiện 6.619 tỷ đồng, tăng 2,7% so tháng trước và tăng 13,2% so cùng kỳ do trong tháng có các ngày nghỉ như: Giỗ Tổ Hùng vương; 30/4; 01/5; một số hoạt động hội chợ, triển lãm dự kiến được tổ chức trong tháng góp phần sôi động thị trường mua sắm, nên nhu cầu một số nhóm hàng chiếm tỉ trọng dự kiến tăng tác động đến doanh thu. Bốn tháng đầu năm 2023, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thực hiện 26.369 tỷ đồng, đạt 32.2% kế hoạch, tăng 10,3% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 20.449 tỷ đồng, tăng 6,3%; lưu trú 97 tỷ đồng, tăng 1,2 lần; ăn uống 2.191 tỷ đồng, tăng 33,6%; du lịch lữ hành 20 tỷ đồng, tăng 1,3%; dịch vụ tiêu dùng khác 3.612 tỷ đồng, tăng 21,8% so cùng kỳ.Hình 5. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng   2. Xuất - Nhập khẩu:  a. Xuất khẩu:  Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng ước thực hiện 311 triệu USD, tăng gấp đôi so tháng trước; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 53 triệu USD; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 256 triệu USD. Bốn tháng ước xuất khẩu 1.195 triệu USD, đạt 30,6% kế hoạch, giảm 14% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 14 triệu USD, tăng 358,5%; kinh tế ngoài nhà nước 176 triệu USD, giảm 33,6%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.005 triệu USD, giảm 10,4% so cùng kỳ.  Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của tỉnh như sau:  - Thủy sản: ước tính tháng 4/2023 xuất 6.696 tấn với trị giá 21,5 triệu USD. Bốn tháng xuất 23.728 tấn, giảm 42,2%; với trị giá xuất 68,2 triệu USD, đạt 5,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, đạt 17,1% kế hoạch, giảm 50,6% so cùng kỳ.  - Gạo: ước tính tháng 4/2023 xuất 23.843 tấn với trị giá 14,2 triệu USD. Bốn tháng xuất 75.923 tấn, tăng 158,5%; với trị giá xuất 45,3 triệu USD, đạt 3,8% tổng kim ngạch xuất khẩu, đạt 90,6% kế hoạch, tăng 209,5% so cùng kỳ.  - Hàng dệt, may: ước tính tháng 4/2023 xuất 2.975 ngàn sản phẩm với trị giá xuất đạt 23,3 triệu USD. Bốn tháng xuất 15.050 ngàn sản phẩm, giảm 65%; với trị giá xuất 113,4 triệu USD, đạt 9,5% tổng kim ngạch, đạt 18,3% kế hoạch, giảm 34,5% so cùng kỳ.  Ngoài các mặt hàng chủ yếu, trị giá xuất khẩu một số mặt hàng trong 4 tháng đầu năm 2023 như: giày dép các loại 233 triệu USD, giảm 1,5%; kim loại thường khác và sản phẩm (kể cả ống đồng) 431 triệu USD, tăng 17,1%; túi xách, ví, vali, mũ và ô dù 48 triệu USD, giảm 45,1%... so cùng kỳ.  2. Nhập khẩu:  Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng 4/2023 ước 179 triệu USD, giảm 40% so tháng trước. Bốn tháng, kim ngạch nhập khẩu ước 700 triệu USD, đạt 30,4% kế hoạch, giảm 5,9% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 42 triệu USD, giảm 3,7%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 658 triệu USD, giảm 6% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng như: nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 99 triệu USD, giảm 24,2%; vải các loại 87 triệu USD, tăng 10,9%; chất dẻo (plastic) nguyên liệu 26 triệu USD, giảm 56,5%; kim loại thường khác 349 triệu USD, tăng 18,7%;... so cùng kỳ.  3. Chỉ số giá:  Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 04/2023 giảm 0,39% so tháng 03/2023 (thành thị giảm 0,42%, nông thôn giảm 0,27%); so cùng kỳ tăng 1,74%. Nguyên nhân do nhóm hàng hóa và dịch vụ chính giảm so tháng trước như: hàng ăn và dịch vụ ăn uống; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng; nhóm bưu chính viễn thông. Giá gas giảm theo giá nhiên liệu thế giới; ngoài ra dịch bệnh trên đàn gia súc của địa phương được kiểm soát tốt, nguồn cung thịt lợn, thịt bò hơi dồi dào nên giá giảm.  So với tháng 03/2023, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 03 nhóm giảm như: hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,68% (trong đó: thực phẩm giảm 1,23%; lương thực tăng 0,25% và ăn uống ngoài gia đình tăng 0,2%); nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 1,25% và nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,01%. Có 7 nhóm hàng tăng: đồ uống và thuốc lá tăng 0,03%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,09%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,12%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%; giao thông tăng 0,68%; văn hoá, giải trí, du lịch tăng 0,04% và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,21%. Riêng chỉ số giá nhóm giáo dục ổn định.  Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 4 tháng năm 2023 so cùng kỳ tăng 2,81%; một số nhóm hàng có giá tăng nhiều trong 4 tháng năm 2023 so cùng kỳ như: nhóm Giáo dục tăng 7,80%, trong đó dịch vụ giáo dục tăng 8,28%; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 3,25%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,89%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 3,50%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2,24%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 4,14%; …  Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 4/2023 tăng 3% so tháng trước, giá bình quân tháng 04/2023 là 5.627 ngàn đồng/chỉ, tăng 130 ngàn đồng/chỉ so cùng kỳ.  Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 04/2023 giảm 0,89% so tháng trước, giá bình quân 23.644 đồng/USD, tăng 634 đồng/USD so cùng kỳ.  4. Du lịch:  Ước tính khách du lịch đến trong tháng 4/2023 được 87,5 ngàn lượt khách, tăng 4,1% so tháng trước và tăng 43,6% so cùng kỳ; trong đó: khách du lịch quốc tế 7 ngàn lượt khách, tăng 8,4% so tháng trước. Doanh thu lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác trong tháng 4 đạt 1.496 tỷ đồng,chiếm 22,6% tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng, tăng 6,8% so tháng trước và tăng 23,6% so cùng kỳ. Trong tháng có các ngày nghỉ Lễ như Giỗ Tổ Hùng Vương và ngày Giải phóng miền Nam 30/4, bên cạnh đó năm nay số ngày nghĩ dài cùng với thời tiết hiện mát hơn tháng trước thuận lợi cho người dân đi tham quan và du lịch trên địa bàn tỉnh.  Tính chung bốn tháng đầu năm 2023, lượt khách du lịch đến Tiền Giang là 340,5 ngàn lượt khách, đạt 27,2% kế hoạch, tăng 1,1 lần so cùng kỳ; trong đó: khách quốc tế 21,5 ngàn lượt khách, đạt 8,6% kế hoạch, tăng 4,2 lần so cùng kỳ. Tổng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch đạt 5.920 tỷ đồng, tăng 27,1% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ ăn uống chiếm tỷ trọng 37%, ước đạt 2.191 tỷ đồng, tăng 33,6%, lưu trú đạt 97 tỷ đồng, tăng 1,1 lần so cùng kỳ...  5. Vận tải:  Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải trong tháng thực hiện 202 tỷ đồng, tăng 5,3% so tháng trước và tăng 16,9% so cùng kỳ. Bốn tháng thực hiện 749,7 tỷ đồng, tăng 17,6% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 205 tỷ đồng, tăng 16,8%; doanh thu vận tải hàng hóa thực hiện 464 tỷ đồng, tăng 17,6% so cùng kỳ. Doanh thu vận tải đường bộ thực hiện 321 tỷ đồng, tăng 18,4%; doanh thu vận tải đường thủy thực hiện 348 tỷ đồng, tăng 16,4 %; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 81 tỷ đồng, tăng 19,6% so cùng kỳ.  Vận tải hành khách trong tháng đạt 1.296 ngàn hành khách, giảm 8,3% so tháng trước và tăng 10,6% so cùng kỳ; luân chuyển 41.338 ngàn hành khách.km, tăng 0,6% so tháng trước và tăng 2% so cùng kỳ. Bốn tháng, vận chuyển 5.324 ngàn hành khách, tăng 18,2% so cùng kỳ; luân chuyển 184.795 ngàn hành khách.km, tăng 11,1% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 1.824 ngàn hành khách, tăng 10,7% và luân chuyển 180.240 ngàn hành khách.km, tăng 11% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 3.500 ngàn hành khách,tăng 22,5% và luân chuyển 4.555 ngàn hành khách.km, tăng 14,8% so cùng kỳ.  Vận tải hàng hóa trong tháng đạt 1.997 ngàn tấn, tăng 10,3% so tháng trước và tăng 10,6% so cùng kỳ; luân chuyển 333.532 ngàn tấn.km, tăng 10,8% so tháng trước và tăng 9,5% so cùng kỳ. Bốn tháng, vận tải 6.882 ngàn tấn hàng hóa, tăng 18,5% so cùng kỳ; luân chuyển 1.150.553 ngàn tấn.km, tăng 21,1% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 976 ngàn tấn, tăng 12,4% và luân chuyển 150.554 ngàn tấn.km, tăng 15,6% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 5.906 ngàn tấn, tăng 19,6% và luân chuyển 999.999 ngàn tấn.km, tăng 22,7% so cùng kỳ.  * Công tác quản lý phương tiện giao thông:  Trong tháng đăng ký mới 3.678 chiếc mô tô xe máy, 319 chiếc ô tô, 05 chiếc xe đạp điện và xe khác 02 chiếc. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.454.371 chiếc, trong đó mô tô xe máy: 1.405.208 chiếc, 48.015 xe ô tô, 153 xe ba bánh, 428 xe đạp điện và 567 xe khác.  6. Bưu chính viễn thông:  Doanh thu trong tháng 4/2023 đạt 325 tỷ đồng, giảm 0,4% so với tháng trước và tăng 2,1% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 30 tỷ đồng, giảm 3,6% và viễn thông 1.179 tỷ đồng, tương đương đương so tháng trước. Bốn tháng doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 1.299 tỷ đồng, tăng 2,6% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 120 tỷ đồng, tăng 14,3% và viễn thông 1.179 tỷ đồng, tăng 1,6% so cùng kỳ.  V. TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG  1. Tài chính:  Tổng thu ngân sách nhà nước trong tháng thực hiện 1.252 tỷ đồng; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn 875 tỷ đồng, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 285 tỷ đồng. Bốn tháng, thu 9.576 tỷ đồng; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 4.380 tỷ đồng, đạt 33,8% dự toán và tăng 3,9% so cùng kỳ; thu nội địa 3.409 tỷ đồng, đạt 34,5% dự toán, tăng 3,6% so cùng kỳ (trong thu ngân sách trên địa bàn: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.032 tỷ đồng, đạt 31,7% dự toán, tăng 5,8% so cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 461 tỷ đồng, đạt 40,1% dự toán, tăng 13,6% so cùng kỳ, thu từ hoạt động xổ số kiến thiết 703 tỷ đồng, đạt 39,1% dự toán, tăng 32,3% so cùng kỳ...  Tổng chi ngân sách nhà nước trong tháng 1.190 tỷ đồng; trong đó: chi đầu tư phát triển 480 tỷ đồng. Bốn tháng, chi 5.827 tỷ đồng, đạt 41,3% dự toán, tăng 22% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 2.083 tỷ đồng, đạt 39,3% dự toán, tăng 56,2% so cùng kỳ; chi hành chính sự nghiệp 2.087 tỷ đồng, đạt 27% dự toán và giảm 7,9% so cùng kỳ.  2. Ngân hàng:  Đến cuối tháng 3/2023, vốn huy động đạt 90.816 tỷ đồng, tăng 3.080 tỷ so với cuối năm 2022, tỷ lệ tăng 3,34%. Ước đến cuối tháng 4/2023, vốn huy động đạt 90.816 tỷ đồng, tăng 3.080 tỷ tương đương 3,51% so với cuối năm 2022.  Tổng dư nợ toàn tỉnh đến cuối tháng 3 đạt 90.149 tỷ đồng, tăng 4,8% so với cuối năm 2022. Ước đến cuối tháng 4/2023, dư nợ toàn tỉnh thực hiện 90.296 tỷ đồng, tăng 4.275 tỷ, tương đương tăng 1,96% so với cuối năm 2022.  Nợ xấu: cuối tháng 3/2023, số dư là 924 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,02%, tăng 0,33% so với cuối năm 2022. Ước đến cuối tháng 4/2023, nợ xấu là 941 tỷ đồng, tỷ lệ 1,04%, tăng 0,35% so với cuối năm 2022.  Quỹ tín dụng nhân dân: đến cuối tháng 03/2023, tổng nguồn vốn hoạt động đạt 1.396 tỷ đồng, tăng 15 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 1,1% so cuối năm 2022, trong đó vốn huy động tăng 1,51%, chiếm tỷ trọng 87% trong tổng nguồn vốn hoạt động; đáp ứng nhu cầu vốn cho 2.365 lượt thành viên vay vốn từ đầu năm đến nay; tổng dư nợ đạt 1.033 tỷ đồng, giảm 4,97 tỷ, tỷ lệ giảm 0,48%, trong đó dư nợ ngắn hạn giảm 0,48% chiếm 45% tổng dư nợ. Nợ xấu là 5 tỷ đồng, giảm 2 tỷ, tỷ lệ nợ xấu 0,48%, giảm 0,19% so với cuối năm 2022.  VI. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  Trong tháng, Hội đồng tư vấn tuyển chọn đánh giá hồ sơ tuyển chọn, thẩm định nội dung 4 nhiệm vụ khoa học và công nghệ (03 cấp tỉnh, 01 cấp cơ sở); kiểm tra tiến độ thực hiện 01 nhiệm vụ khoa học và công nghệ (KH&CN) cấp cơ sở; nghiệm thu giai đoạn 04 nhiệm vụ KH&CN (02 cấp tỉnh, 02 cấp cơ sở); nghiệm thu kết thúc 01 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh; quyết định công nhận 01 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh.  Đến tháng 4/2023, thẩm định nội dung 05 nhiệm vụ KH&CN (04 cấp tỉnh, 01 cấp cơ sở); quyết định triển khai 04 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh; nghiệm thu kết thúc 05 nhiệm vụ KH&CN (04 cấp tỉnh, 02 cấp cơ sở); quyết định công nhận 06 nhiệm vụ KH&CN (04 cấp tỉnh, 02 cấp cơ sở); gia hạn 01 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh.  VII. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI  1. Lao động việc làm:  Trong tháng, tư vấn nghề, việc làm, pháp luật lao động và tư vấn khác cho 3.655 lượt lao động, tăng 51,2% so cùng kỳ; trong đó tư vấn nghề cho 164 lượt lao động; tư vấn việc làm cho 370 lượt lao động; tư vấn việc làm cho 3.021 lượt lao động thất nghiệp; tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác cho 100 lượt lao động. Giới thiệu việc làm cho 352 lượt lao động, tăng 49,2% so cùng kỳ, trong đó 123 lao động có được việc làm ổn định, tăng 108,5% so cùng kỳ.  Tư vấn đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài cho 110 lượt lao động, tăng 25% so cùng kỳ; 03 lao động đăng ký tham gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, giảm 25% so cùng kỳ; có 46 lao động xuất cảnh đi làm việc ở nước ngoài tại các thị trường: Nhật Bản 39 lao động, Đài Loan 06 lao động và Hungary 01 lao động, tăng 109,1% so cùng kỳ.  Tiếp nhận 2.361 lao động đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 0,4% so cùng kỳ; trợ cấp thất nghiệp cho 2.092 lao động, giảm 14,3% so cùng kỳ, với tổng số tiền chi trả 48,7 tỷ đồng, tăng 1,4% so cùng kỳ; có 4.052 lượt lao động thất nghiệp được tư vấn, giới thiệu việc làm và 01 lao động đăng ký học nghề.  2. Đời sống dân cư và an sinh xã hội:  Trong tháng, các chế độ ưu đãi cho người có công đã thực hiện: tổng hợp danh sách tăng, giảm trợ cấp thờ cúng liệt sĩ để thực hiện phê duyệt danh sách chi trả trợ cấp thờ cúng liệt sĩ năm 2023; Thẩm định, lập Quyết định điều dưỡng người có công cho huyện Cái Bè, huyện Tân Phước, huyện Châu Thành; Lập Quyết định trợ cấp hàng thàng đối với 01 con liệt sĩ tàn tật; hưởng thêm chế độ thương binh, bệnh binh đối với 09 đối tượng; Thẩm định, ra quyết định 09 trường hợp trợ cấp ưu đãi học sinh; Chuyển hồ sơ người có công đi tỉnh khác và tiếp nhận hồ sơ người có công do tỉnh khác chuyển đến: 31 trường hợp; Cấp lại giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ và thương binh, bệnh binh: 40 trường hợp.  3. Hoạt động giáo dục:  Trong tháng, các trường được công nhận đạt chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục và chuẩn quốc gia tại huyện Cái Bè: Tiểu học Tân Thanh, Mầm non Mỹ Trung; thị xã Cai Lậy: THCS Thái Thị Kim Hồng; huyện Tân Phước: Tiểu học Tân Hoà Tây; huyện Châu Thành: Mầm non Bình Trưng; thành phố Mỹ Tho: Mầm non Vườn Trẻ, Mầm non Vàng Anh; huyện Chợ Gạo: Mầm non An Thạnh Thuỷ, Mầm non Xuân Đông, Mầm non Bình Ninh, Tiểu học Bình Phục Nhứt, Tiểu học Quơn Long; thị xã Gò Công: Tiểu học Bình Xuân 1; huyện Tân Phú Đông: Mầm non Tân Thới, Tiểu học Tân Thạnh, THCS Phú Đông, THCS Tân Phú.  4. Hoạt động y tế:  Trong tháng có 7/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận. So với cùng kỳ về số mắc, có 08 bệnh tăng (Lao phổi, Sốt xuất huyết Dengue, Tay - chân - miệng, Thủy đậu, Tiêu chảy, Uốn ván khác, Viêm gan vi rút B, Viêm gan vi rút C); 02 bệnh giảm (Viêm não vi rút khác, Covid - 19); 34 bệnh tương đương và không xảy ra ca mắc.  Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết ghi nhận 315 ca mắc, cộng dồn số ca mắc 1.385 ca, tăng 3,9 lần so với cùng kỳ, không có tử vong do sốt xuất huyết.  Phòng chống HIV/AIDS ghi nhận 6.542 người nhiễm HIV; 1.819 người chuyển sang AIDS; 1.297 người tử vong do AIDS.  Hoạt động khám chữa bệnh so với cùng kỳ: khám bệnh 411.822 lượt người, tăng 38,8%; điều trị nội trú 16.954 lượt người, tăng 35,8%.  Ngoài ra, ngày 13 tháng 4 năm 2023 UBND tỉnh Tiền Giang đã ban hành công văn số 1780/UBND – KGVX về việc tăng cường công tác phòng, chống dịch Covid -19 trước tình hình dịch bệnh có xu hướng gia tăng trở lại. Tiếp tục rà soát, kiểm tra xác minh các trường hợp có yếu tố dịch tễ phức tạp, nguy cơ cao như nhập cảnh, về từ vùng dịch, tiến hành lấy mẫu giải trình tự gen theo Công văn 2494/PAS-KSBT về việc tăng cường giám giám sát giải trình tự gen trường hợp Covid-19 trong cộng đồng và nhập cảnh của Viện Pasteur TP.HCM.  5. Hoạt động văn hóa - thể thao:  Hoạt động bảo tàng: trong tháng, Bảo tàng tỉnh và các di tích đã đón 16.758 lượt khách. Trưng bày cố định các chuyên đề phục vụ khách tham quan tại Bảo tàng tỉnh và trưng bày cố định các chuyên đề theo tiến trình lịch sử tại các di tích trực thuộc: Khảo cổ Gò Thành, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Chiến thắng Ấp Bắc, Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút.  Hoạt động văn hóa nghệ thuật: thực hiện 24 buổi biểu diễn văn nghệ phục vụ Nhân dân và tuyên truyền 40 băng-rôn, 15 pano, 200 phướn chào mừng các ngày lễ.  Hoạt động thư viện: trong tháng, Thư viện đã phục vụ được 17.586 lượt bạn đọc với 34.985 lượt sách báo được đưa ra lưu hành; hệ thống thư viện huyện, thư viện xã đã tiếp được 24.804 lượt bạn đọc, với 47.346 lượt sách báo lưu hành. Ngoài ra, tổ chức 4 Chuyến xe Thư viện thông minh lưu động và Tọa đàm “Từ trang sách đến Thành công” về Văn hóa đọc cho các em học sinh.  Hoạt động thể dục, thể thao:  + Tổ chức các lớp xóa mù bơi cho trẻ em, lớp hướng dẫn viên chương trình bơi phòng chống tai nạn tỉnh Tiền Giang tại huyện Cai Lậy và huyện Tân Phước.  + Tổ chức Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân năm 2023 trên địa bàn tỉnh.  + Đội Muay tham dự Giải vô địch các câu lạc bộ Muay quốc gia năm 2023, từ ngày 17/3 – 29/3/2023 tại Gia Lai với kết quả đạt 01 Huy Chương Vàng, 01 Huy chương Bạc, 02 Huy chương Đồng.  + Đội Điền kinh tham dự Giải Điền kinh Cúp Tốc độc Thống Nhất Hồ Chí Minh năm 2023, từ ngày 27/3 – 03/4/2023 tại Tp Hồ Chí Minh với kết quả đạt 03 Huy chương Vàng, 07 Huy chương Bạc, 01 Huy chương Đồng.  + Đội Bóng đá U19 tham dự Vòng loại Bảng E - Giải Bóng đá vô địch U19 quốc gia năm 2023, từ ngày 26/3 – 17/4/2023.   6. Tình hình trật tự an toàn xã hội (Theo báo cáo ngành Công an):  Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn được đảm bảo. Tội phạm về trật tự xã hội ghi nhận 73 vụ, tăng 07 vụ so với tháng 3/2023, tăng 16 vụ so với tháng 4/2022, chết 03 người, bị thương 15 người, tài sản thiệt hại khoảng 1,5 tỷ đồng; điều tra khám phá 58 vụ (đạt 79,5%), bắt xử lý 101 đối tượng, thu hồi tài sản khoảng 148 triệu đồng. Tính đến tháng 4/2023 tội phạm về trật tự xã hội ghi nhận 280 đối tượng/244 vụ, tăng 36 vụ so với cùng kỳ; điều tra khám phá 225 vụ (đạt 80,4%), bắt xử lý 429 đối tượng.  Phát hiện, xử lý 14 vụ, 13 đối tượng có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và xử lý vi phạm hành chính 155 đối tượng có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; 01 vụ, 01 đối tượng phạm tội trên lĩnh vực tham nhũng; 20 vụ, 17 đối tượng vi phạm pháp luật về kinh tế.  7. Trật tự an toàn giao thông (Theo báo cáo ngành Công an):  Tai nạn giao thông đường bộ: tai nạn giao thông trong tháng xảy ra 22 vụ, giảm 04 vụ so tháng trước và giảm 04 vụ so cùng kỳ, làm chết 17 người, giảm 02 người so tháng trước và giảm 05 người so cùng kỳ, bị thương 13 người, giảm 02 người so tháng trước và tăng 08 người so cùng kỳ. Nâng tổng số vụ từ đầu năm đến nay ghi nhận 71 vụ, giảm 53 vụ so cùng kỳ, làm chết 49 người, giảm 40 người so cùng kỳ, bị thương 43 người, giảm 13 người so cùng kỳ.  Các nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông chủ yếu vẫn do ý thức chấp hành Luật giao thông đường bộ của người tham gia giao thông như: uống rượu say, điều khiển xe khi có rượu bia, phóng nhanh vược ẩu, không làm chủ tốc độ; không đi đúng phần đường, làn đường; không nhường đường, vượt đèn đỏ, thiếu quan sát…   8. Tình hình cháy nổ, môi trường:  Tình hình cháy, nổ trong tháng ghi nhận 01 vụ (Công ty TNHH Sợi MêKông - khu công nghiệp Long Giang, huyện Tân Phước), tài sản thiệt hại khoảng 150 triệu đồng; nguyên nhân do chập điện. Tính đến tháng 4/2023 cháy, nổ trên địa bàn ghi nhận 04 vụ, giảm 01 vụ so với cùng kỳ, tài sản sản thiệt hại khoảng 1,3 tỷ đồng.  Lĩnh vực môi trường trong tháng xảy ra 02 vụ vi phạm, tăng 02 vụ so cùng kỳ với tổng số tiền xử phạt là 71,4 triệu đồng. Tính từ đầu năm đến nay, ghi nhận 05 vụ vi phạm, giảm 04 vụ so cùng kỳ với số tiền phạt trên 191,4 triệu đồng.  Thiên tai trong tháng xảy ra 03 cơn lốc xoáy ở huyện Cai Lậy, thị xã Cai Lậy và Châu Thành đã gây thiệt hại làm 89 căn nhà bị tốc mái, ngã đổ khoảng 8.000 cây ăn trái (mít: 7.703 cây, sầu riêng: 267 cây, cây dừa: 05 cây, nhãn: 25 cây); xảy ra 21 điểm đê bị sạt lở trên địa bàn huyện Châu Thành. Ước tổng kinh phí thiệt hại trên 18,6 tỷ đồng.

Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang Quý I năm 2023
  •   18/06/2024 10:28

Quý I năm 2023, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh tiếp tục phục hồi và phát triển; Bên cạnh những thuận lợi vẫn còn không ít khó khăn, thách thức như: thời tiết bất thường, tình hình giá một số mặt hàng thiết yếu, giá nguyên nhiên liệu đầu vào cho sản xuất tăng cao,… tác động trực tiếp đến tình hình kinh tế - xã hội. Với quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2023, ngay trong quý I năm 2023, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng ngành, từng địa phương; đề ra các giải pháp chủ yếu thực hiện; tập trung tổ chức cho Nhân dân vui xuân đón Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023, được các tổ chức trong hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân tích cực hưởng ứng thực hiện. Kết quả thực hiện trên các lĩnh vực như sau:  I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ  1. Tài chính - Ngân hàng:  a. Tài chính:  Tổng thu ngân sách nhà nước quý I ước tính thu được 7.389 tỷ đồng; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn ước thu 2.723 tỷ đồng, đạt 26,5% dự toán và tăng 7,9% so cùng kỳ; thu nội địa 2.668 tỷ đồng, đạt 26,9% dự toán, tăng 8,1% so cùng kỳ (trong thu ngân sách trên địa bàn: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 820 tỷ đồng, đạt 25,2% dự toán, tăng 15,2% so cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 368 tỷ đồng, đạt 32% dự toán, tăng 18,9% so cùng kỳ, thu từ hoạt động xổ số kiến thiết 552 tỷ đồng, đạt 30,7% dự toán, tăng 37,2% so cùng kỳ...).  Tổng chi ngân sách nhà nước quý I là 4.996 tỷ đồng; trong đó: chi đầu tư phát triển 1.852 tỷ đồng, đạt 35% dự toán; chi hành chính sự nghiệp 1.538 tỷ đồng, đạt 19,9% dự toán và giảm 8,9% so cùng kỳ.  b. Ngân hàng:  Trong tháng mặt bằng lãi suất trên địa bàn tỉnh ổn định tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Các tổ chức tín dụng chấp hành nghiêm mức lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi. Đến cuối tháng 02/2023: Lãi suất huy động tối đa bằng VND đối với tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng (0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng; 4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng áp dụng cho ngân hàng thương mại (NHTM), 4,5%/năm áp dụng cho Quỹ tín dụng nhân dân và Tổ chức tài chính việt nam); lãi suất cho vay VND phổ biến ở mức trên 9-11%/năm đối với ngắn hạn (chiếm 41,07% tổng dư nợ ngắn hạn VND); trên 11-13%/năm đối với trung dài hạn (chiếm 43,26% tổng dư nợ TDH VND). Ước tính đến cuối tháng 03/2023, tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn đạt 89.009 tỷ, tăng 1,45% so với cuối năm 2022; tổng dư nợ đạt 87.707 tỷ tăng 1,96%.  Tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn tỉnh đến cuối tháng 03/2023 ước tính đạt 87.707 tỷ, tăng 1,96% so với cuối năm 2022. Nợ xấu ước tính đến cuối tháng 03/2023, số dư là 785 tỷ đồng, tỷ lệ nợ 0,90%, tăng 0,21% so với cuối năm 2022. Nhìn chung các ngân hàng phát sinh nợ xấu trong giới hạn an toàn với tỷ lệ thấp.  Quỹ tín dụng nhân dân: quỹ tín dụng nhân dân hoạt động ổn định, các chỉ tiêu đều đạt mức tăng trưởng. Một số kết quả đạt được trong tháng 02/2023 so với cuối năm 2022 như sau: Nguồn vốn hoạt động đạt 1.382 tỷ đồng, tăng 406 tỷ, tăng 0,1%, trong đó vốn huy động chiếm 87%; Dư nợ cho vay đạt 1.025 tỷ, giảm 13,7 tỷ, giảm 1,32%, trong đó dư nợ ngắn hạn giảm 1,32%, chiếm 45% tổng dư nợ; Nợ xấu số dư 3,7 tỷ, giảm 3,3 tỷ, tỷ lệ nợ xấu giảm 0,36%, gảm 0,312% so với cuối năm 2022.  2. Giá cả, lạm phát:  Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 03/2023 giảm 0,03% so tháng 02/2023 (thành thị giảm 0,01%, nông thôn giảm 0,04%); so cùng kỳ tăng 2,61%. Giá xăng dầu, gas giảm theo giá nhiên liệu thế giới; ngoài ra dịch bệnh trên đàn gia súc của địa phương được kiểm soát tốt, nguồn cung thịt lợn, thịt bò hơi dồi dào nên giá giảm.  So với tháng 02/2023, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 03 nhóm giảm như: bưu chính viễn thông giảm 0,05%; giao thông giảm 0,19% và hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,29%. Có 7 nhóm hàng tăng: đồ uống và thuốc lá tăng 0,32%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,35%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,19%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,06%; thuốc, dịch vụ y tế tăng 0,01%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 0,19%; hàng hoá và dịch vụ khác tăng 0,21%. Riêng chỉ số giá nhóm giáo dục ổn định.  Một số mặt hàng có chỉ số giá giảm so với tháng trước kìm hãm tốc độ tăng CPI của tỉnh:  - Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,29%, trong đó nhóm hàng thực phẩm giảm 0,57% so với tháng trước, góp phần làm CPI chung giảm 0,12 điểm phần trăm. Giá giảm tập trung ở một số mặt hàng: thịt lợn; thịt bò; trứng các loại; Giá rau tươi, khô và chế biến... Nguyên nhân giảm do dịch tả lợn châu Phi tại địa phương được kiểm soát tốt, nguồn cung thịt lợn được đảm bảo; thịt bò đông lạnh nhập khẩu về Việt Nam nhiều; trứng các loại nguồn cung dồi dào; thời tiết vụ Đông Xuân thuận lợi sinh trưởng tốt nên giá rau tươi, khô và chế biến giảm.  - Nhóm giao thông giảm 0,19%, do từ đầu năm 2023 nhóm mặt hàng này có chỉ số giá tăng liên tục, nhưng đến nay, do giá dầu của thế giới giảm, nên giá xăng dầu trong nước cũng điều chỉnh giảm theo.  - Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,05%, do giá máy điện thoại di động thông minh thế hệ cũ giảm...  Bên cạnh đó, có một số mặt hàng có chỉ số giá tăng như:  - Nhóm may mặc và giầy dép tăng 0,35%, do chi phí và giá nguyên liệu đầu vào tăng như: vải các loại tăng 0,5%, quần áo may sẵn tăng 0,36%, giầy dép tăng 0,41% và dịch vụ sửa giầy dép tăng 0,73%.  - Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,06% giá tăng tập trung vào một số mặt hàng như: máy điều hoà nhiệt độ tăng 0,2%; đồ dùng bằng kim loại tăng 1,38%, dụng cụ làm vườn tăng 2,53% (do giá sắt, thép tăng)...  - Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01% do thời tiết giao mùa, các loại vi rút gây bệnh sinh sôi mạnh, người dân dễ mắc bệnh hô hấp nên nhu cầu mua các loại thuốc tăng cường hệ miễn dịch tăng, theo đó giá nhóm thuốc chống viêm nhiễm điều trị ký sinh trùng tăng 0,05%; thuốc tim mạch tăng 0,02% và nhóm thuốc chống dị ứng tăng 0,16%.  Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý I/2023 so cùng kỳ tăng 3,17%; một số nhóm hàng có chỉ số tăng nhiều trong quý so cùng kỳ quý I/2022 như: giáo dục 7,81%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống 4,85%, trong đó lương thực 4,25%, thực phẩm 4,58%, ăn uống ngoài gia đình 5,89%; Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng 4,24%; May mặc, mũ nón, giầy dép 3,34%...  Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 3/2023 giảm 0,89% so tháng trước, giá bình quân tháng 03/2023 là 5.463 ngàn đồng/chỉ, giảm 98 ngàn đồng/chỉ so cùng kỳ.  Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 03/2023 tăng 0,56% so tháng trước, giá bình quân 23.856 đồng/USD, tăng 869 đồng/USD so cùng kỳ.  3. Đầu tư và Xây dựng:  Vốn đầu tư toàn xã hội quý I/2023, ước thực hiện 7.673 tỷ đồng, đạt 16,7% kế hoạch, tăng 10,4% so cùng kỳ (trong đó: vốn đầu tư xây dựng cơ bản 5.258 tỷ đồng, chiếm 68,5% vốn đầu tư toàn xã hội, tăng 15,6% so cùng kỳ; vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động 764 tỷ đồng, chiếm 9,9%, tăng 0,1%...); bao gồm: vốn Nhà nước 1.726 tỷ đồng, tăng 7,8%; vốn ngoài Nhà nước 4.325 tỷ đồng, tăng 14,5%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.362 tỷ đồng, giảm 2,8% so cùng kỳ.Hình 1. Vốn đầu tư toàn xã hội  Tổng vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý quý I/2023 là 714 tỷ đồng, đạt 13,6% kế hoạch, tăng 18,7% so cùng kỳ; gồm có: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 591 tỷ đồng, tăng 22,4%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 104 tỷ đồng, tăng 2,7%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 19 tỷ đồng, tăng 10,9% so cùng kỳ.  Giá trị sản xuất ngành xây dựng quý I/2023 thực hiện 2.334 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 2010), tăng 7,48% so cùng kỳ; Giá nhiên liệu trong kỳ tăng cao, công tác giải phóng mặt bằng còn gặp nhiều khó khăn, … đã ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng các công trình trên địa bàn tỉnh.  4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp:  Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư, tổng số doanh nghiệp thành lập mới từ 01/01/2023 đến 9/3/2023 là 153 doanh nghiệp, với tổng vốn đăng ký là 1.151 tỷ đồng, bao gồm vùng Trung tâm: 87 doanh nghiệp, tổng vốn đăng ký 884,6 tỷ đồng; vùng phía Tây: 44 doanh nghiệp, tổng vốn đăng ký 228,9 tỷ đồng; vùng phía Đông: 22 doanh nghiệp, tổng vốn đăng ký 77,1 tỷ đồng. Đăng ký 124 đơn vị trực thuộc (24 chi nhánh, 97 địa điểm kinh doanh, 03 văn phòng đại diện); đăng ký giải thể 20 doanh nghiệp. Tính đến cuối tháng 3 năm 2023, ước tính toàn tỉnh 6.338 doanh nghiệp hoạt động; số hộ kinh doanh 69.396 hộ.  5. Sản xuất nông - lâm nghiệp và thủy sản:  a. Nông nghiệp:  Tình hình xâm nhập mặn trong mùa khô năm 2022-2023 trên địa bàn tỉnh đến trễ hơn so với trung bình nhiều năm, độ mặn xấp xỉ năm 2022. Các giải pháp phòng chống hạn mặn được chủ động triển khai, đến nay tình hình hạn mặn không gây ảnh hưởng đến sản xuất. Sản xuất nông nghiệp trong quý tập trung chủ yếu chăm sóc lúa Đông xuân, gieo trồng cây hoa màu trên địa bàn tỉnh. Chăn nuôi cơ bản ổn định, có xu hướng phục hồi nhờ định hướng, hỗ trợ chuyển hướng chăn nuôi đúng đắn, kịp thời; ngành thủy sản cơ cấu lại ngành nghề khai thác; đa dạng hóa đối tượng và phương thức nuôi phù hợp với lợi thế so sánh của từng vùng, địa phương.  * Trồng trọt:  - Cây lương thực có hạt: Ước tính đến cuối quý I năm 2023, gieo trồng 49.321 ha, đạt 37,6% kế hoạch, giảm 2,1% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch 348.887 tấn, đạt 43,8% kế hoạch, giảm 1,4% so cùng kỳ. Cụ thể:  - Cây lúa: Vụ Đông Xuân 2022 - 2023 chính thức xuống giống 48.202 ha, giảm 2% so cùng kỳ, diện tích gieo trồng giảm hầu hết ở các huyện, trong đó: TX. Gò Công giảm 150 ha, TX Cai Lậy giảm 91,8 ha, Tân Phước giảm 108,8 ha, Cái Bè giảm 303 ha, Châu Thành giảm 15,7 ha, Chợ Gạo giảm 37,3 ha, Gò Công Tây giảm 213,3 ha, Gò Công Đông giảm 80 ha. Do chuyển từ diện tích trồng lúa sang làm đường và trồng cây ăn quả cho giá trị kinh tế cao hơn như: sầu riêng, mít, thanh long, bưởi…; năng suất thu hoạch bình quân đạt 71,7 tạ/ha, tăng 0,7% so cùng kỳ, vùng lúa phía đông năng suất bình quân 67 tạ/ha, phía tây là 75,5 tạ/ha (cao nhất đạt 78,6 tạ/ha, thấp nhất đạt 72 tạ/ha); sản lượng thu hoạch 345.804 tấn, giảm 1,3% do diện tích gieo trồng giảm. Nhìn chung, người dân tuân thủ theo lịch thời vụ gieo sạ đã đề ra, đưa những giống lúa mới thích ứng nhanh với thời tiết và chất lượng cao vào sản xuất.Hình 2. Cây lương thực có hạt đến ngày 15/3/2023   - Cây ngô: gieo trồng được 1.119 ha, đạt 46,2% kế hoạch, giảm 7,2% so cùng kỳ, diện tích giảm do quá trình đô thị hóa và chuyển sang trồng cây lâu năm; diện tích thu hoạch đạt 848 ha, đạt 35% kế hoạch, giảm 12,2%; năng suất thu hoạch ước đạt 36,4 tạ/ha, đạt 101% kế hoạch, tăng 1% với sản lượng đạt 3.083 tấn, đạt 35,4% kế hoạch, giảm 11,3% so cùng kỳ.  Cây rau đậu các loại: gieo trồng 26.464 ha, đạt 45,7% kế hoạch, giảm 2,5% so cùng kỳ; thu hoạch 23.772 ha, đạt 41,1% kế hoạch, giảm 1,1% với sản lượng 500.033 tấn, đạt 40,5% kế hoạch, tăng 0,2%. Trong đó: rau các loại gieo trồng đạt 26.326 ha, giảm 2,5%; thu hoạch 23.709 ha, giảm 1,1% với sản lượng 499.852 tấn, tăng 0,2% so cùng kỳ.  Cây lâu năm: Toàn tỉnh hiện có 104.940 ha cây lâu năm, đạt 98,9% kế hoạch, tăng 1,1% so cùng kỳ; diện tích tăng chủ yếu ở các loại cây: dứa 188 ha, sầu riêng 2.483 ha, mít 509 ha, ổi 15,4 ha, dừa 1.060 ha… Một số diện tích cây giảm như: xoài 701 ha, hồng xiêm 265 ha, thanh long 731 ha, cam 295 ha, chanh 281 ha; Sản lượng cây lâu năm quý I năm 2023 thu hoạch đạt 549.147 tấn, giảm 0,3% so cùng kỳ. Trong đó, cây ăn quả hiện có 82.353 ha, đạt 95,9% kế hoạch, tương đương so cùng kỳ; sản lượng cây ăn quả trong quý I thu hoạch đạt 449.085 tấn, giảm 0,6% so cùng kỳ, một số cây trồng giảm diện tích do cây trồng già cỗi hiệu quả thấp như: xoài, thanh long, cam, bưởi, nhãn...làm cho sản lượng giảm theo. Vườn cây ăn trái tiếp tục tăng, nhiều hộ nông dân các xã ở huyện phía tây và phía đông đã chuyển từ đất lúa sang trồng cây ăn quả ngày càng tăng vì cây ăn quả có hiệu quả kinh tế cao hơn cây lúa.  * Chăn nuôi: Ước thời điểm 01/3/2023 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 123,9 ngàn con, giảm 0,2% so cùng kỳ; đàn lợn 293,2 ngàn con, tăng 4,2% và đàn gia cầm 16,4 triệu con, giảm 6,6%. Trong quý I năm 2023, đàn bò giảm nhẹ so cùng kỳ; Chăn nuôi lợn được duy trì do kiểm soát tốt dịch bệnh, người chăn nuôi chủ động được nguồn giống và nhu cầu thị trường tăng nên hộ chăn nuôi đang tái đàn và tăng đàn, chủ yếu đàn lợn tăng ở các trang trại nuôi quy mô lớn; Đàn gia cầm giảm do giá gà trong thời gian 3 tháng trước Tết Nguyên đán năm 2023 (tháng 10,11,12 năm 2022) giảm mạnh, nuôi không lời nên hộ tạm nghỉ. Hiện nay hộ đang vệ sinh chuồng trại chuẩn bị tái đàn.   * Tình hình dịch bệnh trên vật nuôi: Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang:   Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi: trên địa bàn tỉnh ghi nhận 06 hộ có lợn mắc với tổng số lợn bệnh là 162 trên tổng đàn 250 con tại 06 xã/04 huyện (Cai Lậy; Tân Phước; Gò Công Tây; Gò Công Đông). Số lợn được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 205 con với trọng lượng 6.638 kg.Bệnh viêm da nổi cục: ghi nhận bò bệnh tại 03 hộ của 02 xã/02 huyện với 04 con bò bệnh trên tổng đàn 12 con.Hình 3. Tình hình chăn tại thời điểm 01/3/2023  b. Lâm nghiệp:  Tổng diện tích rừng hiện có là 1.784,5 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng). Trong đó rừng phòng hộ 1.381,8 ha (huyện Gò Công Đông: 429,5 ha; huyện Tân Phú Đông: 896,9 ha và huyện Tân Phước: 55,4 ha); rừng sản xuất: 402,7 ha.  Ước tính đến cuối quý I năm 2023, toàn tỉnh thực hiện trồng mới được 1,6 ngàn cây các loại, tăng 7,4% so với cùng kỳ, trồng trên những tuyến đường đi mới và các trục đường giao thông được nâng cấp ở huyện Cai Lậy, Chợ Gạo.  Sản lượng gỗ khai thác quý I năm 2023 đạt 7.466 m3, giảm 3,8% so cùng kỳ; sản lượng củi khai thác đạt 20.428 ste củi các loại, giảm 3,9% so cùng kỳ. Do các hộ dân ở huyện Cái Bè, Cai Lậy, Tân Phước, khai thác một số cây ăn quả đã già không cho trái, cho trái ít để chuyển đổi sang trồng cây ăn quả khác.  c. Thủy hải sản:  Diện tích nuôi thủy sản các loại trong quý I năm 2023 đạt 9.436 ha, đạt 64% kế hoạch, giảm 0,2% so cùng kỳ; trong đó: diện tích nuôi cá đạt 2.913 ha giảm 1,9%, diện tích nuôi tôm đạt 3.503 ha, tăng 1%; diện tích nuôi thủy sản khác đạt 3.020 ha tương đương so với cùng kỳ. Diện tích nuôi trồng thủy sản trong quý giảm chủ yếu ở diện tích nuôi cá tra, mặc dù giá cá tra đang có xu hướng tăng nhưng lo ngại đầu ra không ổn định, nhiều hộ vẫn chưa thả giống cho vụ nuôi mới.  Sản lượng thủy sản thu hoạch trong quý I đạt 63.580 tấn, giảm 13,3% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 36.957 tấn, tăng 3,2%; sản lượng khai thác 26.623 tấn, giảm 29,1%. Sản lượng thủy sản giảm chủ yếu do giá nhiên liệu cao dẫn đến sản lượng khai thác ít hơn so với cùng kỳ, những tháng đầu năm 2023 biển động liên tục, sóng lớn gây ảnh hưởng không nhỏ đến các đội tàu trong quá trình khai thác.  6. Sản xuất công nghiệp:  Chỉ số sản xuất công nghiệp quý I/2023 tăng 2,99% so với cùng kỳ, do các ngành chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh sản xuất tiếp tục ổn định và tăng so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,63% (tập trung ở một số ngành chủ yếu sau: sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy 1,3 lần; công nghiệp chế biến, chế tạo khác 59,1%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế); sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện 42,33%; sản xuất kim loại 35,19%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu 29,34%,...); ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 7,89%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,04%.Hình 4. Chỉ số sản xuất công nghiệp   Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 3/2023 giảm 0,4% so với tháng trước, (trong đó doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 0,76%, doanh nghiệp nhà nước tăng 1,53%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 1,45); tăng 0,82% so cùng kỳ, (trong đó doanh nghiệp nhà nước tăng 20,37%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 4,46%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 0,23%) Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp quý I/2022 tăng 37,14% so cùng kỳ, (trong đó doanh nghiệp nhà nước giảm 3,37%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 8,13%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 51,34%). Chia theo ngành công nghiệp thì ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 6,92%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 1,34%; cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải giảm 0,46%.  Sản phẩm sản xuất công nghiệp quý I/2023: Có 18/39 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài tăng 77%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng bột/cốm tăng 63%; Đồ chơi hình con vật hoặc sinh vật không phải hình người tăng 59,1%; Phân vi sinh tăng 42,8%; Các sản phẩm bằng vật liệu tết bện khác tăng 42,3%; Ống và ống dẫn bằng đồng tăng 35,6%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 14,7%; Bộ com lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 9%; Điện thương phẩm tăng 7,9%; Bia đóng chai tăng 7,8%; Nước uống được tăng 3,9%; Tàu thuyền lớn chuyên chở người và hàng hóa có động cơ đẩy tăng 3,2%; Giày, dép thể thao có đế ngoài và mũ giày bằng cao su và plastic tăng 1,8%; Thức ăn cho gia súc tăng 0,1%;…  Có 21/39 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Thuốc diệt cỏ, thuốc chống nảy mầm và thuốc điều hòa sinh trưởng cây trồng giảm 58,9%; Thiết bị dùng cho dàn giáo, ván khuôn, vật chống hoặc cột trụ chống hầm lò bằng sắt, thép, nhôm giảm 37,8%; Dây thép không gỉ giảm 37,8%; Túi xách giảm 33,8%; Áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc giảm 30,9%; Phi lê đông lạnh giảm 26,1%; Thức ăn cho thủy sản giảm 24,4%; Bia đóng lon giảm 10,9%; Dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 10,1%; Dịch vụ thu gom rác thải không độc hại có thể tái chế giảm 7,2%; Cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép giảm 6,7%; …  Chỉ số tiêu thụ tháng 3/2023 so với tháng trước tăng 3,54% và giảm 13,83% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 3 năm 2023 giảm 9,24%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 22,92%, trong đó sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản giảm 18,94%; sản xuất trang phục giảm 67,59%; sản xuất da giảm 29,14%, trong đó sản xuất giày dép giảm 23,99%; sản xuất sản phẩm cao su và plastic giảm 22,09%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 61,15%; sản xuất thiết bị điện giảm 43,1%, trong đó sản xuất dây cáp, dây điện…giảm 77,41%… Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng so cùng kỳ là: sản xuất đồ uống tăng 8,66%, trong đó sản xuất bia tăng 8,66%; dệt tăng 27,69%, trong đó sản xuất sợi tăng 23,2%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 42,84%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy bằng gấp 2,4 lần; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 77,78%; sản xuất kim loại tăng 37,53%;…  Chỉ số tồn kho tháng 3/2023 so với tháng trước tăng 20,18% và so với cùng kỳ tăng 13,65%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng so với cùng kỳ là: sản xuất chế biến thực phẩm tăng 25,72%, trong đó sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 30,94%; sản xuất trang phục tăng 1,22%; sản xuất da tăng gấp đôi, trong đó sản xuất giày dép tăng 1,3 lần; sản xuất giấy tăng 12,63%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 49,6%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 97,42%; chế biến, chế tạo khác tăng 10,99%, trong đó sản xuất đồ chơi, trò chơi tăng 10,99%;... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ là: sản xuất đồ uống giảm 100%, trong đó sản xuất bia giảm 100%; dệt giảm 10,5%,trong đó sản xuất hàng may sẳn giảm 40,82%; sản xuất kim loại giảm 9,18%; sản xuất thiết bị điện giảm 53,71%, trong đó sản xuất mô tơ điện giảm 56,91%…  Tình hình thu hút đầu tư và phát triển các khu - cụm công nghiệp:  - Khu công nghiệp: đến nay tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương quy hoạch 7 khu công nghiệp với tổng diện tích 2.083,5 ha; trong đó có 4 khu công nghiệp được thành lập và đi vào hoạt động. Quý I/2023, thực hiện cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 02 dự án với tổng vốn đầu tư là 2.648 tỷ đồng (trong đó có 01 dự án Đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp). Ngoài ra điều chỉnh giấy kinh doanh cho 04 dự án như: điều chỉnh thông tin nhà đầu tư; tên dự án; vốn góp để thực hiện dự án;...  Đến cuối tháng 3/2023, tổng số dự án tại các khu công nghiệp là 111 dự án (trong đó: có 82 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài) với tổng vốn đầu tư đăng ký là 2,4 tỷ USD và 4.866 tỷ đồng. Diện tích đất đã cho thuê 525,5/753,2 ha, đạt 69,8% diện tích đất công nghiệp cho thuê.  - Cụm công nghiệp: trên địa bàn tỉnh có 27 cụm công nghiệp được quy hoạch; trong đó có 5 cụm công nghiệp (CCN) đã mời gọi được nhà đầu tư gồm: CCN Trung An, Tân Mỹ Chánh, An Thạnh, Song Thuận, Gia Thuận 1 đã hoàn thành đầu tư hạ tầng, đang hoạt động ổn định. Trong quý I/2023 không thu hút dự án đầu tư mới. Tổng số dự án đầu tư tại các cụm công nghiệp đến nay là 79 dự án (trong đó: có 6 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 150,3 triệu USD và 2.306,2 tỷ đồng, diện tích thuê đất là 88,7 ha, tỷ lệ lắp đầy đạt 73,6% diện tích đất cho thuê.  7. Thương mại, dịch vụ:  a. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng:  Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng quý I/2023 thực hiện 19.586 tỷ đồng, đạt 27,8% kế hoạch, tăng 9,1% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 15.316 tỷ đồng, tăng 5,6%; lưu trú 73 tỷ đồng, tăng 1,2 lần; ăn uống 1.501 tỷ đồng, tăng 23,7%; du lịch lữ hành 19 tỷ đồng, tăng 2,3%; dịch vụ 2.667 tỷ đồng, tăng 21,9% so cùng kỳ. Hoạt động mua bán trên địa bàn tỉnh trong quý I/2023 diễn ra sôi nổi hơn so với các tháng cuối năm 2022, Tết Nguyên đán Quý Mão năm nay rơi vào tháng 01/2023, từ đầu tháng 1/2023 thị trường hàng hóa phục vụ Tết diễn ra sôi nổi, sức mua tại các Siêu thị tăng từ 20-30% so với ngày thường, đặc biệt là ngày thứ Bảy, Chủ nhật của các tuần đầu tháng 01/2023, thời điểm cận Tết Nguyên đán sức mua tăng từ 30-45% so với ngày thường.Hình 5. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng  b. Xuất - Nhập khẩu:  Do ảnh hưởng cuộc chiến Nga - U-crai-na tác động lớn đến tình hình kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng cũng đã tác động lớn đến tình hình hoạt động các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của tỉnh. Từ quý IV/2022, nhiều doanh nghiệp phải đối mặt với tình trạng nhu cầu thị trường sụt giảm, thiếu đơn hàng, thiếu vốn, khó tiếp cận vốn tín dụng và lãi suất còn duy trì ở mức cao. Ngoài ra khung giá điện bán lẻ bình quân hiện nay tăng sẽ kéo mọi chi phí sản xuất khác tăng theo, giảm khả năng cạnh tranh và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong lĩnh vực thủy sản sử dụng nhiều điện để hoạt động cấp đông, trữ đông khi hàng chưa xuất được...  * Xuất khẩu:  Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hóa quý I/2023 ước 854 triệu USD, đạt 21,9% kế hoạch, giảm 15,5% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 108 triệu USD, giảm 46,5%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 738 triệu USD, giảm 8,3%; kinh tế nhà nước 8 triệu USD, tăng gấp 2,4 lần so cùng kỳ. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh trong quý I/2023 như sau:  - Thủy sản: ước xuất 13.603 tấn, giảm 56,8% so cùng kỳ; với giá trị xuất 39 triệu USD, đạt 9,8% kế hoạch, giảm 63,8% so cùng kỳ.  Tình hình lạm phát thế giới đã tác động mạnh đến các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, đối với mặt hàng cá tra, đây là sản phẩm lợi thế dễ tiêu dùng, giá thấp, có thể đáp ứng yêu cầu dinh dưỡng trong bữa ăn hàng ngày, nên vẫn có nhiều lợi thế trong cạnh tranh tại thị trường nước ngoài, dù người tiêu dùng đang thắt chặt chi tiêu ứng phó lạm phát. Theo các chuyên gia, doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản sẽ được hưởng lợi khi giá USD tăng cao do phần lớn các giao dịch hiện đều thanh toán bằng USD. Năm 2023, Mỹ vẫn là thị trường chính của doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản, chiếm khoảng 60%. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thủy sản cũng đang đối mặt cùng lúc 2 sức ép, đó là giảm giá xuất khẩu để cạnh tranh với sản phẩm nước khác, nhưng phải tăng giá thu mua nguyên liệu do thiếu hụt nguồn cung.  - Gạo: ước xuất 32.043 tấn, tăng 37,7% so cùng kỳ; với giá trị 20 triệu USD, đạt 40% kế hoạch, tăng 70,4% so cùng kỳ.  Các đơn hàng xuất khẩu đều được thanh toán bằng đồng USD, do đó biến động tỷ giá USD sẽ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cải thiện biên lợi nhuận gộp. Đặc thù của ngành gạo là đơn hàng ký kết theo tháng, do đó với những doanh nghiệp nào đã giao hàng rồi sẽ được lợi khi giá USD tăng. Tuy nhiên, đối với những đơn hàng chưa giao thì khách hàng sẽ e ngại, vì tránh tác động USD tăng họ sẽ cân nhắc trong việc thu mua lúa gạo ở giai đoạn khác. Thị trường vẫn còn những khó khăn tiềm ẩn liên quan đến giá cước vận tải biển cao, giá cả đầu vào sản xuất lúa gạo cao cũng như tình hình xung đột chính trị trên thế giới tác động đến giá các mặt hàng lương thực khác. Do vậy, để đảm bảo an ninh lương thực, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cần theo sát tín hiệu từ các thị trường, đặc biệt là thị trường Trung Quốc. Đặc biệt, doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng gạo, đảm bảo các yêu cầu về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kiểm dịch thực vật, truy xuất nguồn gốc để tận dụng tối đa ưu đãi từ các Hiệp định thương mại tự do...  - Hàng dệt, may: ước xuất 12.954 ngàn sản phẩm, giảm 52,6%; trị giá xuất 95 triệu USD, đạt 15,3% kế hoạch, giảm 21% so cùng kỳ.  Hoạt động xuất khẩu hàng dệt, may trong nữa đầu năm 2023, được dự báo sẽ khá trầm lắng trong bối cảnh nhu cầu trên toàn cầu suy giảm, nhiều thị trường chủ lực đối mặt với rủi ro suy thoái kinh tế và lạm phát ở mức cao. Trong đó, lạm phát tăng cao đã và đang khiến người dân hạn chế đáng kể chi tiêu, trong đó may mặc là nhóm hàng bị cắt giảm chi tiêu nhiều. Các doanh nghiệp cho biết số lượng đơn đặt hàng trong quý IV/2022 thấp hơn 25 - 50% so với quý II/2022, chủ yếu do lượng hàng tồn kho tại các thị trường nhập khẩu hiện ở mức cao. Mặc dù nhiều công ty đã nhận đơn đặt hàng cho đến hết quý II/2023 nhưng lượng đơn đặt hàng nhận được vẫn còn cách rất xa so với công suất hoạt động của những công ty này. Các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may có khách hàng tập trung chủ yếu tại Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu (EU) sẽ chịu tác động rõ rệt nhất. Hoạt động xuất khẩu sang Nhật Bản và Hàn Quốc cũng được dự báo có xu hướng giảm nhưng ở mức độ thấp hơn đáng kể.  Ngoài ra, trị giá xuất khẩu một số mặt hàng trong quý I/2023 như: giày dép các loại 172 triệu USD, tăng 5,6%; kim loại thường khác và sản phẩm (kể cả ống đồng) xuất 305 triệu USD, tăng 13,2%; túi xách, ví, vali, mũ và ô dù 37 triệu USD, giảm 46,6%... so cùng kỳ.  * Nhập khẩu:  Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa quý I/2023 thực hiện 496 triệu USD, đạt 21,6 % kế hoạch, giảm 9,5% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 19 triệu USD, giảm 20,6%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 477 triệu USD, giảm 9% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng như: nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 63 triệu USD, giảm 43,4%; hàng hóa khác 41 triệu USD , giảm 49,2%; vải các loại 62 triệu USD, tăng 17,3%... so cùng kỳ.  c. Vận tải:  Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải quý I/2023 thực hiện 562,1 tỷ đồng, tăng 18% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 156 tỷ đồng, tăng 15,9%; vận tải hàng hóa thực hiện 342 tỷ đồng, tăng 15,1% so cùng kỳ. Vận tải đường bộ thực hiện 243,3 tỷ đồng, tăng 9,4%; vận tải đường thủy thực hiện 254,3 tỷ đồng, tăng 21,6%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 59 tỷ đồng, tăng 31,2% so cùng kỳ.  Vận chuyển hành khách đạt 3.863 ngàn hành khách, tăng 6,1% so cùng kỳ và luân chuyển được 149.259 ngàn hành khách.km, tăng 14% so cùng kỳ; trong đó:vận chuyển đường bộ 1.464 ngàn hành khách, tăng 7,5% và luân chuyển 146.037ngàn hành khách.km, tăng 14,3% so cùng kỳ; vận chuyển đường thủy 2.399 ngàn hành khách.km, tăng 5,2% và luân chuyển đường thủy 3.222 ngàn hành khách.km tăng 3,5% so cùng kỳ. Nhìn chung, dịch vụ vận tải đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá cũng như đi lại của người dân, kiểm tra các bến xe, đảm bảo an toàn cho hành khách.  Vận tải hàng hóa đạt 4.910 ngàn tấn, tăng 18,2% và luân chuyển được 824.056 ngàn tấn.km, tăng 19,3% so cùng kỳ; trong đó: vận chuyển đường bộ thực hiện 875 ngàn tấn,tăng 5,8% và luân chuyển được 152.670 ngàn tấn.km, tăng 5,9% so cùng kỳ; vận tải đường thủy thực hiện 4.035 ngàn tấn, tăng 21,2% và luân chuyển được 671.386 ngàn tấn.km, tăng 22,9% so cùng kỳ.  * Phương tiện giao thông: Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.450.394 chiếc, trong đó mô tô xe máy: 1.401.592 chiếc, 47.659 xe ô tô, 153 xe ba bánh, 423 xe đạp điện và 567 xe khác.  d. Du lịch:  Ước lượng khách du lịch đến tỉnh trong quý I/2023 đạt 179 ngàn lượt, tăng 81,4% so cùng kỳ; trong đó khách quốc tế đạt 11 ngàn lượt, tăng 4,2 lần so cùng kỳ. Doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành đạt 1.593 tỷ đồng, tăng 27,3 %; trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm 98,8%. Trật tự tại các khu du lịch được đảm bảo, việc mua bán kinh doanh được sắp xếp ổn định tạo thuận lợi cho du khách đến vui chơi, giải trí. Duy trì thường xuyên công tác kiểm tra, xử lý các trường hợp chèo kéo khách du lịch, nhắc nhở và hướng dẫn các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch triển khai các biện pháp nhằm đảm bảo an ninh trật tự, phòng chống dịch bệnh, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và an toàn cho khách du lịch.   e. Bưu chính viễn thông:  Quý I/2023, doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 975 tỷ đồng, tăng 6,8% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính 90 tỷ đồng, tăng 17,5%; doanh thu viễn thông 884 tỷ đồng, tăng 5,8%. Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 3/2023 là 121.773 thuê bao (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau); thuê bao điện thoại bình quân đạt 6,84 thuê bao/100 dân. Tổng số thuê bao Internet trên mạng phát triển mới trong quý I/2023 là 39.164 thuê bao; số thuê bao Internet trên mạng có đến tháng 3/2023 là 368.525 thuê bao; mật độ Internet bình quân ước đạt 20,71 thuê bao/100 dân.  Trong quý I/2023, các doanh nghiệp bưu chính, viễn thông tiếp tục phát triển ổn định: Nhờ đa dạng hoá loại hình dịch vụ, đã góp phần đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, phát triển dịch vụ ra khu vực nông thôn. Thông tin liên lạc luôn thông suốt, kịp thời; chất lượng nhận chuyển thư từ, báo chí, bưu phẩm … được thực hiện đảm bảo chất lượng và thời gian giao nhận.  II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI        1. Lao động, giải quyết việc làm:  Trong quý I năm 2023, thực hiện tư vấn nghề, việc làm, pháp luật lao động và tư vấn khác cho 4.057 lượt lao động, giảm 50,5% so cùng kỳ, đạt 20,3% kế hoạch năm. Trong đó, tư vấn nghề cho 358 lượt lao động; tư vấn việc làm 446 lượt lao động; tư vấn việc làm cho 3.100 lượt lao động thất nghiệp; tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác cho 153 lượt lao động. Giới thiệu việc làm cho 405 lượt lao động, tăng 8,3% so cùng kỳ, trong đó có 121 lao động có được việc làm ổn định, giảm 23,4% so cùng kỳ.   Về trợ cấp thất nghiệp, có 2.917 hồ sơ lao động đăng ký, giảm 62,4% so cùng kỳ; 2.609 lao động được quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 61% so cùng kỳ, với số tiền chi trả 52,2 tỷ đồng, giảm 57,6% so cùng kỳ.  Về tư vấn đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, có 348 lượt lao động được tư vấn, giảm 9,6% so cùng kỳ; có 08 lao động đăng ký tham gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, tăng 33,3% so cùng kỳ; có 106 lao động xuất cảnh đi làm việc ở nước ngoài (Nhật Bản 93 người, Đài Loan 12 người, Hoa Kỳ 01 người), tăng 103 lao động so cùng kỳ, đạt 35,3% kế hoạch năm.  Trong quý I năm 2023, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 02 vụ ngừng việc tập thể tại 02 doanh nghiệp (01 doanh nghiệp FDI, 01 doanh nghiệp vốn 99% nước ngoài và 1% tư nhân trong nước), tương đương so cùng kỳ, khoảng 550/2.130 người lao động ngừng việc. Trước tình hình đó, các cơ quan chức năng và doanh nghiệp đã tổ chức cuộc đối thoại với người lao động nên các vụ ngừng việc đã được giải quyết ổn thỏa, quan hệ lao động tại các doanh nghiệp hiện đã bình thường trở lại.  Tình hình thiếu việc làm, thất nghiệp:  Theo kết quả sơ bộ điều tra mẫu điều tra lao động việc làm quý I năm 2023, thiếu việc làm chiếm tỷ lệ 7,44%, tăng 1,53 điểm phần trăm so quý trước và tăng 3,03 điểm phần trăm so cùng kỳ năm trước (từ 4,41% năm 2022 lên 7,44% năm 2023), đã làm cho tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị tăng 3,93 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,49 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước (từ 8,29% năm 2022 lên 9,79% năm 2023). Đối với khu vực nông thôn tỷ lệ thiếu việc làm tăng 0,45 điểm phần trăm so quý trước và tăng 3,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước (từ 2,79% năm 2022 lên 6,39% năm 2023). Tình trạng thiếu việc làm quý I năm 2023 chủ yếu ở khu vực nông thôn (chiếm 59,3% trong tổng số số lao động thiếu việc làm của tỉnh).  Tỷ lệ lao động thất nghiệp trong quý I năm 2023 là 1,87% tăng 0,46 điểm phần trăm so quý trước và giảm 0,06 điểm phần trăm so cùng kỳ năm trước. Nhìn về tỷ lệ thất nghiệp chia theo khu vực thì khu vực thành thị giảm 0,33 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,7 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước (từ 4,19% năm 2022 xuống 3,49% năm 2023). Vì vậy, đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn tăng 0,78 điểm phần trăm so quý trước và tăng 0,18 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước (từ 0,95% năm 2022 lên 1,13% năm 2023). Tỷ trọng thất nghiệp ở khu vực thành thị chiếm 58,62% so với tổng số lao động thất nghiệp của toàn tỉnh và giảm 6,9 điểm phần trăm so cùng kỳ năm 2022.  2. Đời sống dân cư và an sinh xã hội:  Bảo trợ xã hội: Tổ chức Đoàn thăm, tặng quà nhân dịp Tết Nguyên đán năm 2023 cho 100 gia đình hoàn cảnh khó khăn có người tử vong do dịch Covid-19. Thăm và tặng quà Tết cho người nghèo, hộ nghèo, người cao tuổi 90 tuổi, 100 tuổi và trên 100 tuổi và các gia đình chính sách, trẻ em mồ côi và gia đình có người tử vong do dịch Covid-19.  Giảm nghèo: Quỹ Thiện Tâm - Tập đoàn Vingroup tặng quà Tết năm 2023 cho 1.500 hộ nghèo ở các huyện Tân Phước, Châu Thành, Cái Bè, Cai Lậy, Tân Phú Đông và Thành phố Mỹ Tho.  3. Hoạt động giáo dục:  Trong quý I năm 2023, hoạt động giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh triển khai đúng theo kế hoạch đề ra, đảm bảo được chất lượng và đạt được nhiều thành tích nổi bật:  Tổ chức Kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp quốc gia THPT vào các ngày 24, 25/02/2023 có 54 thí sinh đăng ký dự thi. Kết quả Tiền Giang có 18 thí sinh đoạt giải, tăng 09 giải so với năm học 2021 - 2022, ở 6 môn thi Toán (02 giải Ba, 01 giải Khuyến khích); Hóa học (01 giải Nhì, 01 giải Ba); Sinh học (01 giải Nhì, 02 giải Ba, 02 giải Khuyến khích); Ngữ văn (01 giải Khuyến khích); Lịch sử (03 giải Khuyến khích); Tiếng Anh (02 giải Ba, 02 giải Khuyến khích). Xếp hạng 4/13 các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long, sau TP. Cần Thơ (25 giải), Đồng Tháp (19 giải) và An Giang (19 giải). Xếp hạng 45/72 đơn vị đăng ký dự thi toàn quốc và tăng 10 bậc.  Tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh THPT năm học 2022-2023 khóa ngày 03/03/2023 có 1.277 thí sinh dự thi tại 02 địa điểm thi gồm trường THPT Nguyễn Đình Chiểu và THCS Xuân Diệu. Kết quả giải nhất: 55 thí sinh (4,3%); giải nhì: 137 thí sinh (10,8%); giải ba: 160 thí sinh (12,6%). Các trường có nhiều học sinh đạt giải gồm: THPT Chuyên (147 giải; 88%), THPT Nguyễn Đình Chiểu (61 giải; 75,3%), THPT Trương Định (49 giải; 83,1%), THPT Chợ Gạo (47 giải; 56,6%), THPT Cái Bè (42 giải; 77,8%).  Quyết định công nhận trường đạt chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục và đạt chuẩn quốc gia (đợt 2 năm học 2022-2023) gồm các trường: THPT Bình Phục Nhứt, THCS Phường 3-thị xã Gò Công, THCS Nguyễn Thanh Sơn (huyện Gò Công Tây), THCS Phú Phong (huyện Châu Thành), Tiểu học và THCS Hậu Mỹ Phú, Tiểu học Đinh Bộ Lĩnh (TP Mỹ Tho).   4. Hoạt động y tế:  Trong quý I năm 2023 có 09/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận. So với cùng kỳ về số mắc, có 7 bệnh tăng (Sốt xuất huyết Dengue, Tay - chân - miệng, Thủy đậu, Tiêu chảy, Uốn ván khác, Viêm gan vi rút B, Viêm gan vi rút C); 02 bệnh giảm (Lao phổi, Covid-19); 33 bệnh tương đương hoặc không xảy ra ca mắc; Bệnh HIV/AIDS: 6.502 người nhiễm, 1.819 người chuyển sang AIDS, tử vong do AIDS 1.295 người; Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết trong quý I ghi nhận 1.054 ca mắc, tăng 4 lần so cùng kỳ; An toàn thực phẩm: không ghi nhận ngộ độc thực phẩm trên địa bàn; Hoạt động khám chữa bệnh trong quý: tổng số lần khám bệnh là 1.055.444 lần, tăng 9,2% so cùng kỳ, tổng số người điều trị nội trú 44.575 người, tăng 6,7%, công suất sử dụng giường bệnh bình quân đạt 16,1%.   Bệnh viện đa khoa tỉnh Tiền Giang (bệnh viện cũ) địa chỉ số 2, Hùng Vương, Phường 1, thành phố Mỹ Tho được dờ về bệnh viện mới địa chỉ số 315, quốc lộ 1A, ấp Long Hưng, xã Phước Thạnh, thành phố Mỹ Tho chính thức hoạt động tiếp nhận bệnh nhân đến khám, chữa bệnh từ sáng ngày 13/02/2023, bệnh viện mới có quy mô 1.000 giường, được xây dựng trên diện tích khoảng 10 ha (trong đó diện tích xây dựng hơn 2,3 ha) với tổng mức đầu tư trên 2.350 tỷ đồng. Bệnh viện mới có 18 khoa được di dời gồm: Khám; Nội B; Nhiễm; Nội tim mạch; Ngoại thần kinh; Bỏng - Da liễu; Nội thần kinh; Nội tiết; Cấp cứu; Hồi sức tích cực - Chống độc; Ngoại tổng quát; Phẫu thuật gây mê hồi sức; Chấn thương chỉnh hình; Ung bướu; Hồi sức tích cực - Chống độc nhi; Nhi; Tai - Mũi - Họng; Răng - Hàm - Mặt. Các khoa còn lại sẽ tiếp tục hoạt động ở bệnh viện cũ, tạo điều kiện tốt nhất để điều trị cho bệnh nhân và chăm sóc sức khỏe nhân dân.  5.Hoạt động văn hóa - thể thao:  Toàn tỉnh hiện có 447.938/473.270 hộ đạt 3 tiêu chuẩn Gia đình văn hóa, đạt 94,7%, tăng 0,4% so cùng kỳ; 1.005/1.005 ấp (khu phố) văn hóa, đạt tỷ lệ 100%; 166/172 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới/phường/thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị; 69 chợ văn hóa; 17 công viên văn hóa; 882 con đường văn hóa, 557 cơ sở thờ tự văn hóa.  Hoạt động văn hóa nghệ thuật: Thực hiện 52 cuộc tuyên truyền lưu động, biểu diễn văn nghệ; 39 suất nhạc nước tại quảng trường Hùng Vương.  Hoạt động thư viện: Diễn ra Hội báo xuân Quý Mão năm 2023 tại Thư viện và một số thư viện, phòng đọc cơ sở. Trong quý, hệ thống Thư viện tỉnh, huyện và phòng đọc cơ sở đã phục vụ hơn 50 nghìn lượt bạn đọc.  Hoạt động bảo tàng: ghi nhận 68.778 lượt khách tham quan; đảm bảo công tác an ninh trật tự, phòng chống cháy nổ tại các di tích phục vụ Nhân dân đến tham quan, nghiên cứu.  Hoạt động thể dục, thể thao:  - Tổ chức hội thi các môn thể thao dân tộc và Giải Việt dã Báo Ấp Bắc tỉnh Tiền Giang lần thứ 38; Giải Vô địch Võ cổ truyền tỉnh Tiền Giang; Hội thao Ngành Kế hoạch và Đầu tư khu vực Tây Nam Bộ năm 2023; Giải Bóng chuyền hơi nữ CĐVC lần thứ IV tỉnh Tiền Giang năm 2023; Hội thao Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Tiền Giang năm 2023.  - Đoàn thể thao Tiền Giang tham dự 18 giải với tổng số huy chương các môn đạt được là: 06 HCV, 05 HCB, 20 HCĐ. Trong đó tham dự Đại hội thể thao toàn quốc lần thứ IX năm 2022 tại Quảng Ninh với 13 môn, 113 người tham dự 86 nội dung thi đấu, kết quả đạt 05 HCV; 04 HCB; 16 HCĐ.  6. Tình hình trật tự an toàn xã hội: (Theo báo cáo của ngành Công an):  Trong quý I năm 2023, tình hình trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Tội phạm về trật tự xã hội xảy ra 207 vụ, làm chết 04 người, bị thương 36 người, tài sản thiệt hại khoảng 3,5 tỷ đồng, tăng 20 vụ (10,7%) so với quý I năm 2022 và giảm 42 vụ (16,9%) so với quý IV năm 2022; điều tra khám phá 167 vụ đạt 81,1%; án rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đạt 100%, bắt xử lý 328 đối tượng, thu hồi tài sản trị giá khoảng 1,34 tỷ đồng.  Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy: Phát hiện, xử lý 42 vụ với 47 đối tượng tàng trữ, vận chuyển, mua bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trái phép chất ma túy và xử lý hành chính 178 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy.  Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, tham nhũng, chức vụ: Phát hiện, xử lý 37 vụ với 34 đối tượng phạm tội, vi phạm pháp luật về kinh tế, tham nhũng; trong đó, đã khởi tố 10 vụ với 08 bị can (lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ: 01 vụ với 01 bị can; vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên: 02 vụ với 02 bị can; trốn thuế 01 vụ với 01 bị can; tàng trữ, vận chuyển hàng cấm: 03 vụ với 02 bị can; buôn bán hàng cấm: 03 vụ với 02 bị can).  7. Trật tự an toàn giao thông: (Theo báo cáo của ngành Công an):  Tai nạn giao thông đường bộ: trong tháng xảy ra 26 vụ tăng 3 vụ so tháng trước và giảm 28 vụ so cùng kỳ, làm chết 19 người tăng 06 người so tháng trước và giảm 20 người so cùng kỳ, bị thương 15 người tương đương so tháng trước và giảm 08 người so cùng kỳ. Nâng tổng số vụ tai nạn xảy ra từ đầu năm đến nay là 49 vụ làm chết 32 người và bị thương 30 người. Nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông chủ yếu do ý thức chấp hành Luật giao thông đường bộ của người tham gia giao thông như: điều khiển xe khi có rượu bia, phóng nhanh vược ẩu, không làm chủ tốc độ; không đi đúng phần đường, làn đường; không nhường đường, vượt đèn đỏ, thiếu quan sát.  Tai nạn giao thông đường thủy: Không xảy ra.  Tình hình Tết Dương lịch năm 2023 (31/12/2022 đến ngày 02/01/2023): Tai nạn giao thông đường bộ ghi 01 vụ, chết 01 người, 01 người bị thương. So cùng kỳ giảm 01 vụ, tăng 01 người chết và giảm 01 người bị thương.  Trật tự an toàn giao thông Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023 (28/12/2021 đến ngày 05/01/2022 Âm lịch): Trong dịp Tết xảy ra 06 vụ giảm 07 vụ; chết 05 người, giảm 05 người; 02 người bị thương, giảm 04 người.  8. Tình hình cháy nổ, môi trường:  Trong quý I năm 2023, trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 vụ cháy, tài sản thiệt hại trị giá khoảng 1,1 tỷ đồng; nguyên nhân do bất cẩn trong sử dụng lửa 02 vụ, đang điều tra 01 vụ. Về lĩnh vực môi trường ghi nhận 03 vụ vi phạm, giảm 06 vụ vi phạm với số tiền phạt: 120 triệu đồng.  9. Thiệt hại do thiên tai:  Trong tháng, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 13 điểm đê bị sạt lở, tăng 13 điểm so cùng kỳ, trên địa bàn huyện Cái Bè và thị xã Cai Lậy với kinh phí thiệt hại là 36,3 tỷ đồng. Nâng tổng số điểm đê sạt lở từ đầu năm là 13 điểm, giảm 37 điểm đê bị sạt lở so cùng kỳ với tổng giá trị thiệt hại là 36,3 tỷ đồng.

Tổng sản phẩm trên địa bàn quí I năm 2023 Tiền Giang đạt 2,66%
  •   18/06/2024 10:26

Với sự chỉ đạo tập trung của Tỉnh uỷ, sự điều hành quyết liệt của Ủy ban nhân dân tỉnh, sự nỗ lực, cố gắng của các cấp, các ngành, tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp trong việc triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời và đồng bộ các chủ trương, chính sách, các giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh ngay từ đầu năm, để đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh. Tình hình sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh Tiền Giang quí I/2023 có nhiều chuyển biến tích cực, các khu vực kinh tế đều tăng so cùng kỳ.  Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) quí I năm 2023 ước đạt 15.559 tỷ đồng, (giá so sánh năm 2010) tăng 2,66% so với quí I năm 2022, khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,39 %, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 2,97% và khu vực dịch vụ tăng 3,81 % (bao gồm thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); Nếu tách riêng thuế sản phẩm thì khu vực dịch vụ tăng 5,52 % và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm giảm 3,97% so cùng kỳ. Trong 2,66% tăng trưởng thì khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 0,52%, khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 0,86%, khu vực dịch vụ đóng góp 1,52% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm làm giảm 0,24%. GRDP nếu tính theo giá hiện hành đạt 29.426 tỷ đồng.    Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: quí I năm 2022 tăng 1,39% so với quí I năm 2022; trong đó nông nghiệp tăng 4,24%. Trồng trọt trong quí có nhiều thuận lợi, công tác phòng chống hạn mặn được triển khai sớm, độ mặn năm nay thấp, không ảnh hưởng nhiều đến sản xuất nông nghiệp; Dịch covid-19 được kiểm soát, xuất khẩu thông thoáng trở lại nên giá bán các loại sản phẩm trồng trọt tăng so cùng kỳ nhất là sầu riêng, thanh long, mít ... Giá vật tư nông nghiệp vẫn ở mức cao, ảnh hưởng đến lợi nhuận của nông dân. Trà lúa Đông Xuân năm nay phát triển tốt, năng suất bình quân ước tính đạt 71,7 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha so cùng kỳ; Tuy nhiên do diện tích gieo sạ giảm 989,6 ha nên sản lượng thu hoạch giảm 1,4% so cùng. Trong lĩnh vực chăn nuôi, dịch bệnh được kiểm soát tốt, tuy nhiên dịch cúm gia cầm xuất hiện ở Campuchia nên gây tâm lý lo lắng cho người nuôi. Giá bán các sản phẩm chăn nuôi thấp so cùng kỳ trong khi giá thức ăn tăng cao nên việc tái đàn trên địa bàn tỉnh còn chậm; giá lợn hơi bình quân quí I khoảng 50.000 đồng/ ký, với giá này người nuôi sẽ lỗ, dự báo tổng đàn sẽ giảm trong thời gian tới. Ước tính đến thời điểm 01/3/2023 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 123,9 ngàn con, giảm 0,13% so cùng kỳ; đàn lợn 293,2 ngàn con, tăng 0,21% so cùng kỳ; đàn gia cầm 16,4 triệu con, giảm 3,6% so cùng kỳ. Ngành thủy sản giảm 15,3% so cùng kỳ, giảm chủ yếu ở sản lượng khai thác (giảm 29%)). Hoạt động khai thác thủy sản còn nhiều khó khăn do giá nhiêu liệu tăng cao, biển động liên tục, gió nhiều, sóng lớn nên các đội tàu gặp khó khăn trong quá trình đánh bắt, sản lượng khai thác ít, số lượng tàu ra khơi đánh bắt ít hơn cùng kỳ, làm cho sản lượng thủy sản khai thác giảm, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chung của khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản.  Khu vực công nghiệp - xây dựng: tăng 2,97% so với quí I năm 2022; trong đó công nghiệp tăng 2,33%. Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh còn nhiều khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm do đơn hàng giảm từ quí IV/2022 cho đến nay, nhất là các ngành may mặc, giày da, túi xách, chế biến thủy sản ... do tác động của hậu dịch Covid – 19, kinh tế tế thế giới suy giảm, cuộc chiến giữa Nga và Ucraina làm cho giá nhiên liệu tăng, lạm phát tăng cao. Tính riêng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ số tiêu thụ đến cuối tháng 3 giảm 9,24% so cùng kỳ; Chỉ số hàng tồn kho tăng 13,65% so cùng kỳ; Trong khi lãi suất ngân hàng đang ở mức cao, tạo áp lực lớn cho các doanh nghiệp. Theo kết quả điều tra xu hướng sản xuất kinh doanh quí II năm 2023, thì tình hình sản xuất của các doanh nghiệp cũng chưa được khả quan, có 35,11% số doanh nghiệp ngành chế biến, chế tạo dự báo tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quí II/2023 tốt lên so với quí I/2023 và 36,17% dự báo giữ ổn định; có 28,72% doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh khó khăn hơn so với quí I/2023. Trong quí II dự báo có một số doanh nghiệp mới đi vào hoạt động, kỳ vọng sản xuất công nghiệp của tỉnh vẫn tăng so với cùng kỳ. Ngành xây dựng tăng 7,48%, là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng tốt nhất trong quí I năm 2023. Trên địa bàn tỉnh có nhiều công trình trọng điểm của địa phương và trung ương đang được triển khai thi công, cộng với sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt trong việc đẩy nhanh tiến độ đầu tư công đã góp phần làm cho hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh tăng khá so cùng kỳ.  Khu vực dịch vụ: tăng 3,81% so cùng kỳ; hầu hết các ngành trong khu vực này đều tăng, nhu cầu tiêu dùng, mua sắm của người dân trong quí tăng cao nên hoạt động thương mại và dịch vụ diễn ra khá sôi động và có mức tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước, một số ngành tăng khá như: bán buôn và bán lẽ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy tăng 6,1%; Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,39%; Vận tải kho bãi tăng 6,53%; Hoạt động dịch vụ khác tăng 45,77% ... Riêng hoạt động y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm 14,21%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm giảm 3,97%   Cơ cấu kinh tế: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 39,7% (cùng kỳ 38,8%); khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 27,4% (cùng kỳ 27,7%); khu vực dịch vụ chiếm 27,3% (cùng kỳ 27,5%); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,6% (cùng kỳ 6,0%).  Với mức tăng trưởng 2,66% của quí I/2023, để đạt được kế hoạch đề ra trong năm 2023 với mục tiêu tăng trưởng của tỉnh tăng từ 7% - 7,5%, thì tốc độ tăng của ba quí còn lại phải tăng từ 8,38% trở lên. Để đạt được mục tiêu trên trong các quí còn lại cần thực hiện tốt các giải pháp sau:  Một là, theo dõi sát và cập nhật kịp thời diễn biến tình hình thế giới, chính sách tài khóa, tiền tệ của các nước là đối tác thương mại, đầu tư quan trọng của tỉnh. Thực hiện chính sách tiền tệ cần linh hoạt, tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn vay, vừa đảm bảo kiềm chế lạm phát, vừa đảm bảo thúc đẩy tăng trưởng.  Hai là, thường xuyên rà soát để kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh. Cần có giải pháp hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp thiếu vốn, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm và một số ngành, lĩnh vực bị tác động bất lợi do nhu cầu của thị trường thế giới suy giảm như: da giày, dệt may, sản xuất và chế biến gỗ, chế biến thủy sản...  Ba là, triển khai hiệu quả các giải pháp phù hợp kích cầu thương mại và dịch vụ, các chương trình xúc tiến, đẩy mạnh quảng bá thúc đẩy phát triển du lịch; các giải pháp để mở rộng, đa dạng hóa thị trường và sản phẩm xuất khẩu.  Bốn là, quyết liệt triển khai nhanh, hiệu quả các nhiệm vụ, dự án đầu tư thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội năm 2023; đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công đối với các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao, nâng cấp cơ sở hạ tầng đồng bộ, trong đó tập trung vào các dự án chuyển tiếp, hoàn thành trong năm 2023; đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hồ sơ dự án, giao kế hoạch, giải phóng mặt bằng, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục về đầu tư công.  Năm là, tiếp tục tăng cường công tác phòng chống bệnh dịch; chủ động phương án phòng chống thiên tai, cảnh báo mưa lũ, sạt lở, tác động của hạn hán, xâm nhập mặn nhằm hạn chế tối đa thiệt hại tới sản xuất và cuộc sống của người dân; thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, lao động, việc làm.  Sáu là, nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành của các ngành, các cấp; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính trong quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực; thực hiện nghiêm quy chế làm việc, kỷ luật phát ngôn; công khai, minh bạch, tạo môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng. Tăng cường thông tin, ngăn chặn, triệt phá các thông tin xấu, sai sự thật gây hoang mang cho người dân, tuyên truyền quảng bá các hình ảnh đẹp về du lịch, cuộc sống, sinh hoạt của người Tiền Giang đến du khách gần xa./.                                             N.V.Tròn