Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang tháng 10 năm 2021
- 18/06/2024 15:57
Tình hình dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh đến thời điểm hiện tại đã được kiểm soát kết quả đạt được với quyết tâm cao trong phòng chống dịch bệnh của cả hệ thống chính trị. Song song đó, lãnh đạo tỉnh nhà cũng rất quyết tâm chỉ đạo các giả pháp để “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả Covid – 19 theo Nghị quyết số 128/NQ-CP. Kết quả cụ thể của các ngành trong tháng như sau: I. SẢN XUẤT NÔNG - LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN 1. Nông nghiệp *Trồng trọt: Cây lương thực có hạt: trong tháng gieo trồng 52 ha, sản lượng thu hoạch 211.030 tấn; ước tính đến cuối tháng 10/2021, gieo trồng 134.134 ha, đạt 100,1% kế hoạch, giảm 3,8% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch 801.357 tấn, đạt 99,7% kế hoạch, tăng 0,2% so với cùng kỳ; trong đó, cây lúa gieo sạ 131.846 ha giảm 3,1% so cùng kỳ, thu hoạch 126.375 ha giảm 4,6% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch 793.201 tấn tăng 0,7% so cùng kỳ. - Cây lúa: Vụ Hè thu (Xuân Hè + Hè Thu): Mùa mưa đến sớm, không chịu ảnh hưởng bởi hạn, mặn nên sản xuất lúa vụ Hè thu 2021 tương đối thuận lợi, bố trí sản xuất hợp lý, lịch thời vụ chuyển dịch phù hợp với điều kiện từng vùng sinh thái. Diện tích gieo trồng 74.728 ha (bao gồm vụ Xuân hè 24.905 ha và Hè thu 49.823 ha) đạt 97,5% kế hoạch, giảm 1,5% so cùng kỳ; diện tích gieo trồng giảm so cùng kỳ do chuyển đổi sang trồng cây rau màu, cây ăn quả và nuôi trồng thủy sản có hiệu quả kinh tế cao hơn. Thu hoạch lúa Hè Thu đạt 74.728 ha, giảm 1,4% so cùng kỳ; sản lượng đạt 426.012 tấn, tăng 2,9% so với cùng kỳ do năng suất bình quân tăng 4,4% so cùng kỳ (đạt 57 tạ/ha). Vụ Thu đông: Diện tích gieo trồng 5.417 ha; tăng 112,6% so cùng kỳ (gieo trồng chủ yếu ở 05 huyện phía đông chiếm 66,3% diện tích còn lại huyện Tân Phước, Châu Thành). Dù chủ trương cắt vụ lúa Thu đông nhằm tránh ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, đặc biệt là tình hình hạn, mặn đã được ngành Nông nghiệp khuyến cáo, nhưng việc tổ chức thực hiện vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhiều hộ dân không tuân thủ khuyến cáo, chấp nhận thiệt hại dù đã được các địa phương tuyên truyền, vận động làm cho diện tích tăng cao so với cùng kỳ. - Cây ngô: Diện tích trồng trong tháng 52 ha, nâng tổng diện tích gieo trồng 2.288 ha, giảm 32,1% so cùng kỳ; năng suất bình quân 35,7 tạ/ha, sản lượng 8.156 tấn, giảm 32,9% so cùng kỳ, chuyển đổi sang trồng cây thanh long, một số cây ăn quả khác. Huyện Chợ Gạo nằm trong vùng ngọt hóa Gò Công phía đông tỉnh Tiền Giang có diện tích trồng ngô lớn nhất tỉnh với 958 ha chiếm 42,8% diện tích ngô toàn tỉnh. Đây cũng là địa phương có tốc độ chuyển dịch cơ cấu sản xuất từ trồng lúa sang các cây trồng khác mạnh nhất tỉnh. Cây rau đậu các loại: trong tháng 10/2021 gieo trồng được 494 ha, tăng 57,5% so cùng kỳ, thu hoạch 1.375 ha, tăng 3,7% so cùng kỳ. Mười tháng năm 2021 gieo trồng 54.331 ha, đạt 87% kế hoạch, tăng 6,7% so cùng kỳ; thu hoạch 46.749 ha, tăng 2,9% so cùng kỳ; với sản lượng 944.317 tấn, đạt 78,1% kế hoạch, tăng 3,3% so cùng kỳ. Bao gồm diện tích gieo trồng rau các loại 54.080 ha, tăng 6,6% so cùng kỳ, nguyên nhân do chuyển từ đất trồng lúa, năng suất ước 207,7 tạ/ha tăng 0,4% so cùng kỳ, sản lượng 943.747 tấn, tăng 3,3% so cùng kỳ do nông hộ tăng cường ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong sản xuất, mở rộng quy mô trồng rau trong nhà lưới kiểm soát được sâu bệnh, nhiều loại giống mới được đưa vào sản xuất nên năng suất, sản lượng tăng; Diện tích gieo trồng đậu các loại 251 ha, so cùng kỳ tăng 18,3%; Sản lượng 570 tấn, so cùng kỳ tăng 5,2% do diện tích thu hoạch tăng. Chăn nuôi: Thời điểm 01/10/2021 tổng đàn gian súc, gia cầm của tỉnh như sau: Đàn bò hiện có 120.871 con, tăng 1,8% so cùng kỳ, tương ứng tăng 2.185 con so cùng kỳ, sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng trong tháng đạt 1.600 tấn, cộng dồn đạt 18.586 tấn, giảm 3,9% tương ứng giảm 761 tấn so với cùng kỳ. Đàn lợn 275.625 con, giảm 1,7% tương ứng giảm 4.780 con so với cùng kỳ, sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 10 đạt 6.511 tấn giảm 4,1% tương ứng giảm 276 tấn so cùng kỳ. Tính chung 10 tháng đạt 63.577 tấn, giảm 12,4% tương ứng giảm 9.030 tấn; Tổng đàn gia cầm của tỉnh là 17.100 ngàn con, tăng 0,4% tương ứng tăng 65 ngàn con so với cùng kỳ. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng trong tháng 10 đạt 4.147 tấn, giảm 8,5% tương ứng giảm 387 tấn so cùng kỳ, nâng tổng số sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 10 tháng năm 2021 đạt 45.532 tấn, giảm 3,1% tương ứng giảm 1.433 tấn so với cùng kỳ. Nguyên nhân sản lượng chăn nuôi gia súc, gia cầm giảm do dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, khó lường trên địa bàn tỉnh, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình tiêu thụ hàng hóa, vì vậy tình hình tiêu thụ gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh có chiều hướng giảm mạnh; Giá cả thịt lợn hơi giảm liên tục từ đầu năm đến hiện nay, giá thức ăn chăn nuôi trong tháng tiếp tục tăng mạnh, người chăn nuôi không dự đoán được thị trường nên rất lo lắng khi tái đàn. * Tình hình dịch bệnh trên động vật trong tháng 10: (Theo báo cáo của Chi cục Thú y tỉnh): Trên gia cầm: Trong tháng không ghi nhận. Luỹ tiến: ghi nhận 03 trường hợp/03 xã/03 huyện có gà bệnh cúm gia cầm với tổng đàn 9.006 con; trong đó, gà bệnh và chết được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 8.836 con. Trên gia súc: + Bệnh lở mồm long móng: Trong tháng không ghi nhận. Lũy tiến: 01 trường hợp heo mắc bệnh lở mồm long móng tại huyện Cái Bè, tổng đàn 35 con. Chính quyền địa phương tổ chức tiêu hủy 35 con heo bệnh; đồng thời triển khai thực hiện công tác tiêu độc khử trùng tại cơ sở thu gom heo. + Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP): Trong tháng ghi nhận 16 trường hợp heo mắc bệnh Dịch tả lợn Châu Phi trên địa bàn huyện Cái Bè, TX Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước và Gò Công Đông với tổng đàn 666 con. Số heo được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 335 con. Luỹ tiến: Từ ngày 15/12/2020, trên địa bàn toàn tỉnh ghi nhận 34 hộ có heo mắc bệnh DTLCP với tổng đàn 1.110 con tại 20 xã/08 huyện (Cái Bè: 06 xã; Thị xã Cai Lậy: 01 xã; Châu Thành: 02 xã; Tân Phước: 02 xã; Gò Công Tây: 03 xã; Gò Công Đông: 04 xã; Tân Phú Đông: 01 xã; Chợ Gạo: 01 xã). Tổng số heo được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 677 con trên 31 hộ. Ngoài ra, địa phương tiêu hủy heo bệnh chết tại 02 hộ cũ (Bệnh trước ngày 15/12/2020), với số lượng 105 con. + Bệnh viêm da nổi cục (VDNC): Trong tháng ghi nhận 201 hộ/104 ấp/55 xã/09 huyện có bò mắc bệnh VDNC với tổng đàn 904 con, số bò mắc bệnh là 314 con. Đã tiêu hủy 11 con/11 hộ có bò bệnh, chết. Lũy tiến: Toàn tỉnh đã ghi nhận bò có dấu hiệu điển hình của bệnh VDNC tại 311 hộ /147 ấp/63 xã/10 đơn vị huyện (trừ Thị xã Gò Công) với số bò bệnh là 482 con/tổng đàn 1.472 con. 2. Lâm nghiệp: Tổng diện tích rừng hiện có là 1.925,2 ha (Không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng). Trong đó rừng phòng hộ 1.337,4 ha (huyện Gò Công Đông: 444,8 ha; huyện Tân Phú Đông: 848,8 ha và huyện Tân Phước: 43,8 ha); rừng sản xuất 587,8 ha. Tháng 10/2021 toàn tỉnh thực hiện trồng mới được 10,6 ngàn cây phân tán nâng tổng số cây trồng 838,5 ngàn cây các loại, tăng 30,8% so với cùng kỳ. Những cây trồng mới chủ yếu là cây bạch đàn, tràm bông vàng trồng trên các tuyến đê, tuyến đường xã đạt và phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới giao cho dân chăm sóc. 3. Thủy hải sản: Trong tháng, thủy sản các loại thả nuôi 371 ha, giảm 45,3% so cùng kỳ; Mười tháng thả nuôi 15.139 ha, đạt 99,7% kế hoạch và giảm 3% so cùng kỳ; Thủy sản nước ngọt nuôi 4.695 ha, giảm 5% so cùng kỳ; Thủy sản nước mặn, lợ nuôi 10.444 ha, giảm 2% so cùng kỳ, diện tích giảm chủ yếu là nuôi tôm sú nuôi quảng canh và nuôi tôm thẻ chân trắng do bị ảnh hưởng dịch Covid-19 tôm xuất ra ngoài tỉnh không được, giá tôm giảm mạnh nên sản lượng thu hoạch cũng giảm theo vì vậy người dân chỉ tiêu thụ sản phẩm trong phạm vi ở địa phương mình. Do độ mặn và tình hình dịch bệnh chưa ổn định nên người dân đang chờ thời tiết thích hợp thì tiến hành thả giống, các hộ nuôi tôm thâm canh và quảng canh cải tiến rất thận trọng trong việc chọn mua giống. Sản lượng thủy sản trong tháng thu hoạch 33.292 tấn, giảm 3,9% so cùng kỳ. Mười tháng thu hoạch 255.741 tấn, đạt 87,2% kế hoạch, tăng 0,3% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 131.320 tấn, đạt 80,7% kế hoạch, tăng 0,7% so cùng kỳ, sản lượng khai thác 124.421 tấn, đạt 95,2% kế hoạch, giảm 0,1% so cùng kỳ. II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP Tình hình dịch Covid-19 đang bùng phát mạnh trong những tháng trước đã làm cho các doanh nghiệp tạm dừng hoạt động để phòng chống dịch, chỉ còn vài doanh nghiệp sản xuất sản phẩm thiết yếu thực hiện hoạt động sản xuất theo phương án 3 tại chỗ. Trong những tuần đầu tháng 10 Ủy ban nhân dân tỉnh đã tổ chức cho 34 doanh nghiệp tái sản xuất lại theo hướng 3 tại chỗ và đang tiếp tục thẩm định các doanh nghiệp đủ điều kiện đăng ký 3 tại chỗ để các doanh nghiệp sớm quay lại sản xuất. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 10/2021 tăng 1,8% so với tháng trước, do một số ngành sản xuất công nghiệp chủ yếu của tỉnh như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 5,5%; Sản xuất trang phục tăng 1,2%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 7 lần so tháng trước (ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 25,6%; các ngành còn lại có chỉ số giảm như không đáng kể) và giảm 20% so cùng kỳ. Các ngành chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh có chỉ số giảm so cùng kỳ, như: sản xuất trang phục giảm 35,8%, sản xuất thiết bị điện giảm 77,2%... (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 22,5%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 2,9%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,5%). Chỉ số sản xuất công nghiệp 10 tháng đầu năm 2021 giảm 3,6% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 3,8%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 1,7%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,4%. Chỉ số sản xuất sản phẩm trong 10 tháng so cùng kỳ như sau: - Có 8/42 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Bộ com lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 38,9%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng bột/cốm tăng 18,3%; Bia đóng chai tăng 17,8%; Bia đóng lon tăng 12,4%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 7,5%; Ống và ống dẫn bằng đồng tăng 2,7%; Thức ăn cho gia súc tăng 1,2%. - Có 34/42 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu, thuyền giảm 52,5%; Đồ chơi hình con vật hoặc sinh vật không phải hình người giảm 51,4%; Dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 49,7%; Giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài giảm 40,2%; Áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc giảm 35,4%; Giấy vệ sinh giảm 33,8%; Bao và túi (kể cả loại hình nón) từ plastic khác giảm 33,4%; Phân vi sinh giảm 33,3%; Thức ăn cho thủy sản giảm 9,6%;… Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 10/2021 so với tháng trước tăng 98,3%; trong đó: doanh nghiệp nhà nước bằng 100%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 39%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 139,5%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 10/2021 so với cùng kỳ giảm 43,7%; trong đó: trong đó doanh nghiệp nhà nước giảm 6,4%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 48,1%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 43,9%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 10 năm 2021 giảm 19,8%, trong đó doanh nghiệp nhà nước giảm 2,6%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 17,3%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 21,1%. Chia theo ngành công nghiệp: Công nghiệp chế biến chế tạo giảm 20,3%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 0,4%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải giảm 2,3%. * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: - Chỉ số tiêu thụ tháng 10/2021 so với tháng trước giảm 3,2% và giảm 41,9% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 10 năm 2021 giảm 19,6%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ như: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 18,5%, trong đó chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản giảm 28,2%; Dệt giảm 21,9%, trong đó sản xuất sợi giảm 37,1%; Sản xuất trang phục giảm 14,9%; Sản xuất da giảm 15,7%, trong đó sản xuất giày dép giảm 22,5%... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng nhưng không đáng kể so cùng kỳ là: Sản xuất đồ uống tăng 8,7%, trong đó sản xuất bia tăng 8,7%; Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 3,9%... - Chỉ số tồn kho tháng 10/2021 so với tháng trước tăng 8,1% và so với cùng kỳ tăng 32,5%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ là: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 51,3%; Sản xuất đồ uống tăng 28,42%, trong đó sản xuất bia tăng 28,4%; Dệt tăng 53,3%; Sản xuất trang phục tăng 27,5%; Sản xuất kim loại tăng 78,9%;... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ là: Sản xuất da giảm 55%; Sản xuất giấy giảm 39,5%; Sản xuất thiết bị điện giảm 50,2%;… * Tình hình thu hút đầu tư và phát triển các khu - cụm công nghiệp: Trong tháng, các khu công nghiệp và cụm công nghiệp không cấp mới dự án đầu tư và điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký mới.Tính đến tháng 10 năm 2021, không cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới, chỉ điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 16 lượt dự án tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp; trong đó có 05 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn, tổng vốn đầu tư tăng thêm là 0,2 tỷ USD. - Khu công nghiệp: Lũy kế đến 10/2021 các Khu công nghiệp đã thu hút được 107 dự án đầu tư; trong đó: có 78 dự án đầu tư nước ngoài. Tổng vốn đầu tư là 2,5 tỷ USD và 4.575,9 tỷ đồng. Diện tích đất thuê của các doanh nghiệp là 571,1 ha/770,1 ha chiếm tỷ lệ 74,1% diện tích đất công nghiệp cho thuê. - Cụm công nghiệp: trong tháng không thu hút dự án đầu tư mới. Tổng số dự án đầu tư tại các cụm công nghiệp hiện nay là 79 dự án (trong đó: có 6 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 0,2 tỷ USD và 2.306,2 tỷ đồng, diện tích thuê đất là 89,8 ha/120,6 ha, đạt 74,5% của 5 Cụm công nghiệp đang hoạt động. III. ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn khó khăn do ảnh hưởng dịch Covid-19, UBND tỉnh cùng các ngành, các cấp thường xuyên kiểm tra giám sát nhằm tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh đầu tư công như: điều chuyển vốn các công trình triển khai chậm sang các công trình có khối lượng cao, bố trí sử dụng các khoản vốn chưa có bố trí trong danh mục công trình cụ thể trong Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh. Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện trong tháng là 293 tỷ đồng, giảm 57,7% so cùng kỳ. Mười tháng thực hiện 2.547 tỷ đồng, đạt 66,7% kế hoạch, giảm 38,2% so cùng kỳ, do thực hiện giản cách để phòng chống dịch Covid-19. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh thực hiện 1.944,5 tỷ đồng, đạt 62,3% kế hoạch, giảm 37,1% so cùng kỳ, chiếm 76,4% tổng số; trong đó: vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 374 tỷ đồng, giảm 40,9%. Các ngành các cấp yêu cầu các ban quản lý chủ đầu tư tập trung điều kiện đẩy nhanh tiến độ thi công của các dự án công trình trong những tháng cuối năm 2021, đồng thời thực hiện đảm bảo các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 để không ảnh hưởng đến tiến độ thi công. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện 436,9 tỷ đồng, tăng 11,5% kế hoạch, giải 39% so cùng kỳ, chiếm 17,1% tổng số; trong đó: vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 220,8 tỷ đồng, giảm 35,6% so cùng kỳ... Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp xã thực hiện 165,7 tỷ đồng, đạt 54,5% kế hoạch, giảm 47,1% so cùng kỳ, chiếm 6,5% tổng số; trong đó: vốn huyện hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 117,8 tỷ đồng, giảm 48,4% so cùng kỳ... Các xã tập trung điều kiện đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình xây dựng nông thôn mới năm 2021 nhằm phục vụ đi lại và vận chuyển hàng hóa của người dân đồng thời hoàn thành tiêu chí để ra mắt xã nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao. IV. THƯƠNG MẠI - GIÁ CẢ - DỊCH VỤ 1. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng: Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong tháng thực hiện 4.910,3 tỷ đồng, giảm 20,7% so cùng kỳ. Mười tháng đầu năm 2021, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thực hiện 49.547,4 tỷ đồng, đạt 70,5% kế hoạch, giảm 4,2% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 42.635,9 tỷ đồng, tăng 0,5%; lưu trú 20,6 tỷ đồng, giảm 48,5%; ăn uống 2.931,2 tỷ đồng, giảm 29%; du lịch lữ hành 5,8 tỷ đồng, giảm 77,8%; dịch vụ tiêu dùng khác 3.953,8 tỷ đồng, giảm 22,1% so cùng kỳ. 2. Xuất - Nhập khẩu: a. Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng thực hiện 153 triệu USD; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 27 triệu USD, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 124 triệu USD. Mười tháng xuất khẩu 2.468 triệu USD, đạt 75,9% kế hoạch, tương đương so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 37 triệu USD, giảm 6,7%; kinh tế ngoài nhà nước 424 triệu USD, giảm 17,2%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2.007 triệu USD, tăng 4,8% so cùng kỳ. b. Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng 10/2021 đạt 189,7 triệu USD. Mười tháng, kim ngạch nhập khẩu 1.551 triệu USD, đạt 86,2% kế hoạch, tăng 25,4% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước nhập khẩu 126 triệu USD, tăng 51,2%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập 1.425 triệu USD, tăng 23,6% so cùng kỳ. Nhập khẩu tăng hơn so cùng kỳ do nhập nguyên liệu để phục vụ cho sản xuất, chủ yếu các mặt hàng như: Kim loại thường khác 494 triệu USD, tăng 6,5%; Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 247 triệu USD, tăng 26%; Máy móc thiết bị, dụng cụ văn phòng 138 triệu USD, tăng 127,2%... so cùng kỳ. 3. Chỉ số giá: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10/2021 tăng 0,22% so tháng 9/2021 (thành thị tăng 0,43%, nông thôn tăng 0,17%); so cùng kỳ tăng 2,7%. So với tháng 9/2021, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 8 nhóm hàng tăng: đồ uống và thuốc lá tăng 0,03%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,16%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,75%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,13%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%; giao thông tăng 2,54%; giáo dục tăng 0,06%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,02%. có 02 nhóm giảm: hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,52%, trong đó (lương thực tăng 0,47%, thực phẩm giảm 0,95%); bưu chính viễn thông giảm 0,01%. riêng nhóm Hàng hoá và dịch vụ khác chỉ số giá ổn định Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 10/2021 giảm 0,04% so tháng trước, giá vàng bình quân tháng 10/2021 là 5.177 ngàn đồng/chỉ, giảm 176 ngàn đồng/chỉ so cùng kỳ. Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 10/2021 giảm 0,09% so tháng trước; giá bình quân tháng 10/2021 là 22.860 đồng/USD, giảm 1,13 đồng/USD so cùng kỳ. 4. Du lịch: Hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh hiện nay chưa hoạt động trở lại trạng thái bình thường. Khách du lịch đến trong tháng 10/2021 được 110 lượt khách, giảm 99,8% so cùng kỳ. Doanh thu lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác trong tháng 10 đạt 175,2 tỷ đồng, giảm 84,4% so cùng kỳ. Tính chung mười tháng đầu năm 2021, lượt khách du lịch đến Tiền Giang là 263,7 ngàn lượt khách, đạt 24% kế hoạch và giảm 56,3% so cùng kỳ; trong đó: khách quốc tế 3,8 ngàn lượt khách, giảm 96,1% so cùng kỳ. Tổng doanh thu thu lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác đạt 6.911,4 tỷ đồng, giảm 25,4% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 2.931,2 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 42,4%, giảm 29%; lưu trú đạt 20,6 tỷ đồng, giảm 48,5% so cùng kỳ... 5. Vận tải: Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải trong tháng thực hiện 102,9 tỷ đồng, tăng 27,1% so tháng trước và giảm 37,2% so cùng kỳ. Mười tháng thực hiện 1.312,6 tỷ đồng, giảm 20,6% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 307,3 tỷ đồng, giảm 34,5%; doanh thu vận tải hàng hóa thực hiện 857,1 tỷ đồng, giảm 15,3% so cùng kỳ. Doanh thu vận tải đường bộ thực hiện 597,9 tỷ đồng, giảm 25,1%; doanh thu vận tải đường thủy thực hiện 566,5 tỷ đồng, giảm 17,1%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 148,2 tỷ đồng, giảm 13,5% so cùng kỳ. Vận tải hành khách trong tháng đạt 1.584 ngàn hành khách, tăng 2,2 lần so tháng trước và giảm 42,5% so cùng kỳ. Doanh thu hành khách tăng cao so với tháng trước là do tình hình dịch bệnh covid-19 của các tháng trước diễn biến phức tạp, trên địa bàn tỉnh thực hiện giãn cách toàn xã hội theo Chỉ thị 16, đến nay tình hình dịch bênh cơ bản được kiểm soát, nên tỉnh cho phép người dân trong vùng xanh được đi lại trong tỉnh, công nhân lao động trở lại doanh nghiệp làm việc...dẫn đến doanh thu tăng. Luân chuyển 15.317 ngàn hành khách.km, tăng 3,3 lần so tháng trước và giảm 70,7% so cùng kỳ. Mười tháng, vận chuyển 18.899 ngàn hành khách, giảm 33,7% so cùng kỳ; luân chuyển 321.700 ngàn hành khách.km, giảm 35,5% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 8.556 ngàn hành khách, giảm 29,9% và luân chuyển 308.254 ngàn hành khách.km, giảm 35,1% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 10.343 ngàn hành khách, giảm 36,6% và luân chuyển 13.446 ngàn hành khách.km, giảm 43% so cùng kỳ. Vận tải hàng hóa trong tháng đạt 712 ngàn tấn, tăng 11,5% so tháng trước và giảm 24,8% so cùng kỳ; luân chuyển 94.929 ngàn tấn.km, tăng 11,1% so tháng trước và giảm 21,9% so cùng kỳ. Mười tháng, vận tải 8.273 ngàn tấn hàng hóa, giảm 12,9% so cùng kỳ; luân chuyển 1.071.664 ngàn tấn.km, giảm 13% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 1.904 ngàn tấn, giảm 9% và luân chuyển 202.222 ngàn tấn.km, giảm 20,1% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 6.369 ngàn tấn, giảm 14% và luân chuyển 869.442 ngàn tấn.km, giảm 11,2% so cùng kỳ. * Công tác quản lý phương tiện giao thông: Trong tháng đăng ký mới mô tô xe máy không phát sinh, do ảnh hưởng của tình hình dịch Covid-19; 05 chiếc xe ô tô. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh là 1.355.014 chiếc, trong đó mô tô xe máy: 1.312.967 chiếc, 41.256 chiếc xe ô tô, 152 xe ba bánh, 192 xe đạp điện và 447 xe khác. 6. Bưu chính viễn thông: Doanh thu trong tháng 10/2021 đạt 266,3 tỷ đồng, tăng 0,4% so tháng trước và tăng 2,2% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 25,8 tỷ đồng, tăng 1,2% và viễn thông 240,5 tỷ đồng, tăng 0,3% so tháng trước. Mười tháng doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 2.638 tỷ đồng, tăng 3,9% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 239,3 tỷ đồng, tăng 12,2% và viễn thông 2.398,7 tỷ đồng, tăng 3,2% so cùng kỳ. Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 10/2021 là 97.455 thuê bao, mật độ bình quân đạt 5,5 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Thuê bao internet có trên mạng cuối tháng 10/2021 là 283.769 thuê bao, mật độ internet bình quân đạt 16,1 thuê bao/100 dân. Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa dẫn đến khách hàng dần chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Số thuê bao điện thoại di động có sử dụng internet (3G, 4G) đến cuối tháng 9/2021 là 1.621.013 thuê bao. V.TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG 1. Tài chính: Thu ngân sách trên địa bàn trong tháng thực hiện 265 tỷ đồng; trong đó:thu nội địa 260 tỷ đồng. Mười tháng, thu 6.788,8 tỷ đồng, đạt 63,97% kế hoạch, giảm 23,5% so cùng kỳ; trong đó: thu nội địa 6.417,9 tỷ đồng, đạt 62,1% dự toán, giảm 26,2% so cùng kỳ (trong thu ngân sách trên địa bàn: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.106,1 tỷ đồng, đạt 61,1% dự toán, giảm 29,1% so cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 769 tỷ đồng, đạt 54,9% dự toán, giảm 24,9% so cùng kỳ...). Tổng chi ngân sách nhà nước trong tháng 1.480,5 tỷ đồng; trong đó: chi đầu tư phát triển 843,5 tỷ đồng. Mười tháng, chi 10.370,6 tỷ đồng, đạt 84,6% dự toán, giảm 26,5% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 2.920,1 tỷ đồng, đạt 78,9% dự toán, giảm 34,5% so cùng kỳ; chi hành chính sự nghiệp 5.485,9 tỷ đồng, đạt 79,8% dự toán và giảm 5,5% so cùng kỳ. 2. Ngân hàng: Đến cuối tháng 9/2021, vốn huy động đạt 77.874 tỷ đồng, tăng 2,4% so cuối năm 2020; Mức tăng bình quân là 0,3%/tháng. Huy động vốn chủ yếu từ khu vực dân cư, chiếm tỷ trọng 85,2% tổng nguồn vốn huy động. Ước đến cuối tháng 10/2021, vốn huy động đạt 77.874 tỷ đồng, tỷ lệ 2,7% so với cuối năm 2020. Nợ xấu: đến cuối tháng 9/2021, số dư là 740 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,1%, tăng 0,04% so với cuối tháng 6/2021 là thời điểm dịch bệnh bắt đầu bùng phát trên địa bàn tỉnh. Ước đến cuối tháng 10/2021, nợ xấu là 750 tỷ đồng, tỷ lệ 1,1%, giảm 0,2% so với cuối năm 2020 Hệ thống Quỹ Tín dụng nhân dân trên địa bàn tỉnh hoạt động ổn định, các chỉ tiêu đều đạt mức tăng trưởng. Một số kết quả đạt được đến cuối tháng 9/2021 so với cuối năm 2020 như sau: tổng nguồn vốn hoạt động đạt 1.211 tỷ đồng, tăng 80 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 7,1% (trong đó: vốn điều lệ tăng 5,6%, vốn huy động tăng 9,6%.); tổng dư nợ cho vay đạt 834 tỷ đồng, giảm 17 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 2% (trong đó: dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng 43,2%); nợ xấu: số dư 5,6 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 0,7%, tăng 0,4%. - Kết quả thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 Đến cuối tháng 9/2021, tổng dư nợ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang là 11.571 tỷ đồng, chiếm 16,6% tổng dư nợ toàn tỉnh (trong đó khách hàng doanh nghiệp bị ảnh hưởng chiếm 44%). Một số ngành có tỷ lệ dư nợ bị ảnh hưởng lớn là: Công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 31,7% tổng dư nợ); bán buôn và bán lẻ (33,2%); hoạt động dịch vụ (9,7%);.... Các TCTD đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho 1.447 khách hàng với lũy kế giá trị nợ được cơ cấu từ 23/01/2020 là 1.494 tỷ đồng. Chính sách giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 từ 13/3/2020 đến hết 30/9/2021, các TCTD đã miễn, giảm, hạ lãi suất cho hơn 97 ngàn khách hàng với dư nợ trên 29.230 tỷ đồng. Cho vay mới lãi suất thấp hơn so với trước dịch đạt trên 32.493 tỷ đồng với 3,7 ngàn khách hàng còn dư nợ. Lũy kế từ 13/3/2020 đến 30/9/2021, tổng số tiền lãi TCTD miễn, giảm, hạ cho khách hàng hơn 202 tỷ đồng. Thực hiện Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do dịch Covid-19 và Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020 sửa đổi, bổ sung NQ42: Đến nay, Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) tỉnh đã giải ngân cho vay đối với 6 đơn vị với dư nợ đạt 978 triệu đồng. Thời gian vay là 12 tháng, lãi suất là 0%/năm. Chương trình cho vay trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ: NHCSXH tỉnh đã giải ngân cho vay 6 doanh nghiệp với 92 lao động, dư nợ 329,2 triệu đồng, thời gian cho vay 11 tháng, lãi suất 0%/năm. - Kết quả cho vay thu mua tạm trữ thóc gạo năm 2021 Trước tình hình dịch bệnh Covid-19 gây ảnh hưởng tiêu cực, gây ách tắc làm đứt gãy chuỗi cung ứng sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu thụ, xuất khẩu thóc, gạo, đặc biệt là tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Thực hiện chỉ đạo của NHNN VN tại công văn số 5747/NHNN-TD ngày 10/08/2021, NHNN tỉnh đã có văn bản triển khai đến các chi nhánh NHTM yêu cầu đảm bảo vốn tín dụng cho vay thu mua tạm trữ, thóc gạo năm 2021. Đến cuối tháng 9/2021, trên địa bàn tỉnh có 11 chi nhánh NHTM tham gia cho vay lĩnh vực lúa gạo. Từ đầu năm đến nay, các NHTM đã cấp hạn mức tín dụng 9.715 tỷ đồng cho các doanh nghiệp, thương nhân thu mua tạm trữ thóc, gạo, đã giải ngân với tổng doanh số cho vay lũy kế 17.907 tỷ đồng để thu mua 2.285.305 tấn thóc gạo. Dư nợ thu mua, tiêu thụ đạt 7.625 tỷ đồng (trong đó dư nợ ngắn hạn chiếm 99,9%), chiếm 78,4% hạn mức được cấp, chiếm 11,1% tổng dư nợ toàn tỉnh. VI. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Trong tháng, do tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid -19 trên địa bàn tỉnh đã ảnh hưởng đến kế hoạch hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN). Trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành quyết định triển khai 01 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh. Kiểm tra tiến độ thực hiện 01 nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở (Dự án sản xuất thử nghiệm: Ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt kết hợp nhà màng trong canh tác dưa lưới tại huyện Cái Bè - tỉnh Tiền Giang). Nghiệm thu giai đoạn 03 nhiệm vụ KH&CN, trong đó 01 cấp tỉnh (Đề tài: Nghiên cứu, biên soạn từ điển địa danh tỉnh Tiền Giang); 02 cấp cơ sở (Đề tài: Tạo lập, quản lý và phát triển nhãn hiệu chứng nhận “ Gạo Gò Công” cho sản phẩm gạo Gò Công, tỉnh Tiền Giang; Tạo lập, quản lý và phát triển nhãn hiệu chứng nhận “Dưa hấu Gò Công” cho sản phẩm dưa hấu Gò Công, tỉnh Tiền Giang). Ngoài ra Gia hạn 01 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh (Đề tài: Nghiên cứu tận dụng phụ phẩm từ quả mít để sản xuất các sản phẩm giá trị gia tăng trên địa bàn tỉnh Tiền Giang). Đến tháng 10/2021, thẩm định nội dung 13 nhiệm vụ ( 06 cấp tỉnh, 07 cấp cơ sở); nghiệm thu kết thúc 08 nhiệm vụ (07 cấp tỉnh , 01 cấp cơ sở); nghiệm thu giai đoạn 17 nhiệm vụ (08 cấp tỉnh, 09 cấp cơ sở); Quyết định triển khai 16 nhiệm vụ (09 cấp tỉnh, 07 cấp cơ sở); Quyết định công nhận 13 nhiệm vụ (10 cấp tỉnh, 03 cấp cơ sở); Gia hạn 07 nhiệm vụ KH&CN (05 cấp tỉnh, 02 cấp cơ sở). VII. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Lao động việc làm: Trong tháng, tư vấn cho 572 lượt lao động, giảm 85,7% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó: tư vấn nghề cho 17 lượt lao động, tư vấn việc làm 69 lượt lao động, tư vấn việc làm cho 473 lượt lao động thất nghiệp, tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác cho 13 lượt lao động; giới thiệu việc làm cho 58 lao động, bằng 7,9% so với cùng kỳ năm 2020; đã giới thiệu cho 48 lao động có được việc làm ổn định, bằng 12,9% so với cùng kỳ; tư vấn cho 02 lượt lao động có nguyện vọng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, bằng 8,3% so với cùng kỳ, có 01 lao động đăng ký tham gia, tăng 01 lao động so với cùng kỳ. Bên cạnh đó, tiếp nhận được 591 hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp, bằng 19,2% so với cùng kỳ, quyết định 233 trường hợp được hưởng trợ cấp thất nghiệp, bằng 8,8% so với cùng kỳ, với số tiền chi trả gần 5,7 tỷ đồng, đạt 11,4% so với cùng kỳ năm 2020; thực hiện tư vấn, giới thiệu việc làm cho 613 lượt lao động thất nghiệp. 2. Chính sách xã hội: Quỹ đền ơn đáp nghĩa vận động được 1,2 tỷ đồng, lũy kế từ đầu năm vận động được 7,1 tỷ đồng giảm 19% so với cùng kỳ năm 2020, xây dựng được 6 căn nhà tình nghĩa với tổng số tiền 240 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm xây dựng được 41 ngôi nhà tình nghĩa, với tổng số tiền trên 1,6 tỷ đồng, giảm 56% so với cùng kỳ ; sửa chữa 9 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 180 triệu đồng, lũy kế từ đầu năm sửa chữa được 60 ngôi nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 1,2 tỷ đồng tăng 6% so với cùng kỳ. Tiếp nhận 1.516 tấn gạo do Trung ương hỗ trợ (đợt 2) cho các huyện, thành, thị để cấp cho 101.062 người dân, người lao động gặp khó khăn do dịch bệnh Covid-19. Số lượng gạo qua 2 đợt, tỉnh Tiền Giang được Trung ương hỗ trợ 3.006 tấn gạo, cấp cho 200.415 người. Bên cạnh đó, tỉnh còn tiếp nhận 50 tấn gạo do Phó Chủ tịch nước - Võ Thị Ánh Xuân tặng để hỗ trợ cho người dân gặp khó khăn do dịch bệnh Covid-19. Ngoài ra, Ban Chỉ đạo, Trung tâm Chỉ huy phòng, chống Covid -19 tỉnh đã đi thăm hỏi, tặng quà cho 58 trẻ em mồ côi và 349 gia đình có người tử vong do dịch Covid-19 ở các huyện, thành, thị. 3. Hoạt động y tế: Trong tháng có 06/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận. So cùng kỳ về số mắc, có 03 bệnh tăng như: tay chân miệng (+425 ca), viêm não do vi rút (+4 ca), Covid-19 (+14.844 ca); 15 bệnh giảm như: liên cầu lợn ở người (-3 ca), ho gà (-1 ca), lao phổi (-364 ca), lỵ a míp (-2 ca), Quai bị (-33 ca), sởi (-36 ca), Sốt xuất huyết (-759 ca), thương hàn (-8 ca), thủy đậu (-86 ca), tiêu chảy (-692 ca), uốn ván khác (-2 ca), viêm gan siêu vi A (-2 ca), viêm gan siêu vi B (-14 ca), viêm gan siêu vi C (-3 ca), Zika (-1 ca); 26 bệnh tương đương và hoặc không xảy ra ca mắc; Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết ghi nhận 37 ca mắc, cộng dồn số ca mắc từ đầu năm 1.766 ca, giảm 30,1% so với cùng kỳ, ghi nhận 01 ca tử vong do SXHD. Phòng chống HIV/AIDS tính đến nay toàn tỉnh có 6.181 người nhiễm HIV, 1.805 người chuyển sang AIDS, tử vong do AIDS: 999 người. Số lần khám bệnh 198.325 lượt, giảm 54,8%; số người điều trị nội trú 10.323 lượt, giảm 46,9%; số ngày điều trị nội trú 49.240, giảm 43,31%, công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong tháng đạt 45,3%. Không ghi nhận xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm. Covid - 19: Kể từ ngày có ca nhiễm đầu tiên trong cộng đồng (5/6/2021) đến 24/10/2021 toàn tỉnh có 15.626 bệnh nhân; 14.169 bệnh nhân được điều trị khỏi bệnh; đã tử vong 390 bệnh nhân; Tiền Giang thuộc cấp độ 2 (vùng vàng, nguy cơ trung bình) theo công bộ cấp độ dich Covid-19 của Bộ Y tế. Tính đến ngày 15/10/2021, toàn tỉnh tiêm ngừa vắc xin COVID-19 cho 720.331 người (mũi 1: 602.944; mũi 2: 117.387); tỷ lệ 58,8% theo Quyết định được phân bố (1.224.350 liều), 80,5% trên tổng số vaccine thực nhận (894.350 liều), 82,6% tổng số vaccine phân bố đến các điểm tiêm (871.937 liều). 4. Hoạt động giáo dục: Trong tháng 10, công tác dạy và học trực tuyến tiếp tục thực hiện theo Quyết định 2259/QĐ-UBND ngày 25/8/2021 về kế hoạch năm học 2021 – 2022; Ngành Giáo dục – Đào tạo thành lập tổ và tiến hành kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức dạy học trực tuyến và dạy học qua truyền hình tại các trường tiểu học bằng hình thức online. Phấn đấu tất cả học sinh đều được tham gia học tập và có đủ thiết bị học tập; Triển khai tập huấn đại trà cho giáo viên cấp trung học về tổ chức dạy học trực tuyến vào ngày 16,17/10/2021 cho tất cả các bộ môn; Hướng dẫn dạy học trực tuyến môn Giáo dục thể chất cho cấp THCS-THPT, Giáo dục quốc phòng - An ninh cho cấp THPT. 5. Hoạt động văn hóa - thể thao: Trong tháng 10, Trung tâm Văn hóa – Nghệ thuật tỉnh đã tổ chức 10 lượt xe loa tuyên truyền. Do tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp nên phần lớn các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao đông người tạm dừng để thực hiện phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang. 6. Trật tự an toàn giao thông: Theo báo cáo của ngành Công an Tai nạn giao thông đường bộ: Trong tháng, tai nạn giao thông xảy ra 07 vụ giảm 02 vụ so tháng trước và giảm 37 vụ so cùng kỳ, làm chết 03 người giảm 03 người so tháng trước và giảm 25 người so cùng kỳ, bị thương 02 người giảm 05 người so tháng trước và giảm 28 người so cùng kỳ. Nguyên nhân gây tai nạn như: đi không đúng phần đường, làn đường, uống rượu say.... Ước tính thiệt hại về tài sản trong tháng là 58 triệu đồng, cộng dồn từ đầu năm đến nay là gần 4,2 tỷ đồng. Về vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ xảy ra 1.177 vụ, tăng 566 vụ so tháng trước và giảm 5.321 vụ so cùng kỳ; trong đó các lỗi vi phạm như: không giấy phép lái xe, giấy phép không hợp lệ, chạy quá tốc độ qui định, không đội mũ bảo hiểm, uống rượu điều khiển phương tiện, thiết bị an toàn không đảm bảo... Đã xử lý tạm giữ giấy tờ và phương tiện 1.172 vụ, tước giấy phép lái xe 28 vụ, phạt tiền 05 vụ với số tiền phạt trên 1 tỷ đồng. Tai nạn giao thông đường thủy: Trong tháng không xảy ra, tương đương so với tháng trước và giảm 01 vụ so cùng kỳ. không phát sinh số người chết và bị thương. Vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy trong tháng xảy ra 767 vụ giảm 84 vụ so tháng trước và giảm 1.287 vụ so cùng kỳ; trong đó chở quá vạch mớn nước an toàn 651 vụ và vi phạm khác 116 vụ. Đã lập biên bản tạm giữ giấy tờ 10 vụ và phạt tiền tại chỗ 757 vụ với số tiền phạt 76,5 triệu đồng. 7. Tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội (theo báo cáo ngành Công an): Tội phạm về trật tự xã hội ghi nhận 52 vụ, tăng 08 vụ so với liền kề; giảm 82 vụ so với cùng kỳ, làm chết 02 người; bị thương 13 người; tài sản thiệt hại khoảng 507 triệu đồng, trong đó xảy ra 01 vụ giết người, 11 vụ cố ý gây thương tích, nguyên nhân chủ yếu do mâu thuần xã hội bộc phát (sau khi đã uổng rượu không kiềm chế bản thân; đâm đánh nhau, gây thương tích dẫn đến tử vong); tội phạm trộm cắp tài sản có dấu hiệu phức tạp trở lại, nhất là sau khi tỉnh thực hiện nới lỏng các biện pháp giản cách xã hội. Phát hiện, xử lý 17 tụ điểm cờ bạc với 141 đối tượng liên quan; 16 vụ, 21 đối tượng phạm tội về ma túy và xử lý vi phạm hành chính 98 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; 06 vụ với 05 đổi tượng có hành vi vận chuyển hàng hóa không hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc, thu giữ 26,9m3 gỗ và 11 thùng sữa nhãn hiệu IZUMIO, 315 bao phân bón các loại (tổng giá trị hàng hóa khoảng 382 triệu đồng), 01 vụ kinh doanh hàng hóa không rõ nguồn gốc (máy trò chơi điện tử)... và xử lý hành chính 01 trường hợp giết mổ động vật trái phép, số tiền 07 triệu đồng. 8. Tình hình cháy nổ, môi trường: Tình hình cháy nổ trong tháng xảy ra 01 cháy nhà ở huyện Cai Lậy, ước giá trị thiệt hại tài sản là 60 triệu đồng; chủ sở hữu không yêu cầu điều tra nguyên nhân; nâng số vụ cháy, nổ từ đầu năm đến nay là 29 vụ, 1 người chết và thiệt hại về tài sản trên 5,5 tỷ đồng. Thiên tai tháng 10, xảy ra 02 vụ lốc xoáy, ước tổng giá trị thiệt hại 580 triệu đồng, bao gồm thiệt hại về tài sản như tốc mái 09 căn nhà, thiệt hại về cây ăn trái, ngã đỗ (sầu riêng 121 cây, mít 247 cây, vú sữa 02 cây, đu đủ 75 cây, chuối 30 cây và dừa 03 cây). Về lĩnh vực môi trường tháng 10, xử phạt vi phạm hành chính (với 01 tổ chức) với số tiền xử phạt vi phạm 20 triệu đồng; nội dung vi phạm chủ yếu là thực hiện không đúng một trong các nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường và các yêu cầu trong Quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; khai thác sử dụng nước dưới đất không có giấy phép và thăm dò nước dưới đất không có giấy phép; không báo cáo kết quả giám sát chất thải định kỳ (một năm một lần trước ngày 31 tháng 01 hàng năm) cho cơ quan đã phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường thuộc thẩm quyền phê duyệt của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định; khai thác cát làm vật liệu xây dựng thông thường không giấy phép.
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang 9 tháng đầu năm 2021
- 18/06/2024 16:01
Trong chín tháng đầu năm 2021, dịch bệnh covid-19 cả nước nói chung, trên địa bàn tỉnh nói riêng đã và đang diễn ra rất phức tạp, tác động rất lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh và cuộc sống của người dân. Lãnh đạo Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh tập trung chỉ đạo các ngành, các cấp phòng chống dịch bệnh covid-19 đồng thời rất quân tâm chỉ đạo phòng chống dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi và đề ra các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Kết quả thực hiện trên các lĩnh vực đạt được như sau: I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ 1. Tài chính - Ngân hàng: a. Tài chính: Thu ngân sách nhà nước: 9 tháng đầu năm 2021 ước thu được 13.703 tỷ đồng, đạt 102,1% dự toán, giảm 12,8% so cùng kỳ; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 6.569 tỷ đồng, đạt 61,9% dự toán và giảm 14,7% so cùng kỳ; thu nội địa 6.224 tỷ đồng, đạt 60,21% dự toán, giảm 17,3% so cùng kỳ. Các khoản thu chủ yếu như sau: + Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.071 tỷ đồng, đạt 60% dự toán, giảm 16,7% so cùng kỳ do hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn do tác động dịch covid-19, phần lớn các ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn phải tạm ngưng hoạt động. + Thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 736 tỷ đồng, đạt 52,6% dự toán, giảm 16,4% so cùng kỳ do ảnh hưởng của dịch Covid-19 bùng phát và diễn biến phức tạp từ giữa tháng 6/2021 cho đến nay, nhiều doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn tỉnh do có ca nhiễm bệnh đã phải phong tỏa, ngừng hoạt động để kiểm soát dịch bệnh. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh chỉ cho các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hoạt động theo phương án “3 tại chỗ” sau khi được thẩm định, công nhận và kiểm tra sau công nhận phương án “3 tại chỗ”. + Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết 1.068 tỷ đồng, đạt 64,7% dự toán, giảm 11,3% so cùng kỳ do thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ, địa phương ngừng phát hành xổ số kiến thiết từ 12/6/2021 Chi ngân sách nhà nước: Tổng chi ngân sách 9 tháng đầu năm 2021 là 9.608 tỷ đồng đạt 78,4% dự toán, giảm 26,8% so cùng kỳ do ảnh hưởng của dịch Covid-19, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 42/NQ-CP hỗ trợ người dân gặp khó khăn, ngân sách địa phương đã kịp thời bổ sung cho các huyện, thành, thị để chi hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn, trong đó: chi đầu tư phát triển 2.529 tỷ đồng, đạt 68,3% dự toán, giảm 38,9%; chi hành chính sự nghiệp 5.008 tỷ đồng, đạt 72,9% dự toán và giảm 3% so cùng kỳ. b. Ngân hàng: Đến cuối tháng 8/2021, vốn huy động đạt 77.741 tỷ, tăng 2,5% so với cuối năm 2020; tổng dư nợ cho vay thực hiện là 69.937 tỷ đồng, tăng 8,8% so với cuối năm 2020, tăng dần trong 8 tháng, bình quân tăng 1,1%/tháng. Tăng trưởng dư nợ tốt, cao hơn 1,7% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính đến cuối tháng 9/2021, nguồn vốn huy động đạt 77.783 tỷ, tăng 2,6%; tổng dư nợ đạt 69.986 tỷ, tăng 8,8% so với cuối năm 2020. Lãy suất huy động: Mặt bằng lãi suất tiếp tục được duy trì phù hợp,ổn định ở mức thấp nhằm tạo điều kiện cho các đối tượng khách hàng duy trì sản xuất kinh doanh do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19. Lãi suất huy động tối đa bằng VND đối với tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng (0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng; 4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng) + Lãy suất cho vay VNĐ: phổ biến ở mức trên 4,5%-9%/năm đối với ngắn hạn (chiếm 62,20% tổng dư nợ cho vay ngắn hạn VNĐ) và trên 11%-13%/năm đối với trung dài hạn (chiếm 51,94% tổng dư nợ cho vay TDH VNĐ). Các TCTD thực hiện nghiêm các mức trần lãi suất theo quy định của NHNNVN nhất là trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên theo Thông tư số 39/2016/TT-NHNN là 4,5%/năm. Nợ xấu: đến cuối tháng 8/2021 là 859 tỷ đồng, tỷ lệ 1,23%, giảm 0,02% so với cuối năm 2020. Tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp, nằm trong sự kiểm soát, có chuyển biến tích cực theo chiều hướng giảm. Quỹ tín dụng nhân dân: đến cuối 7/2021, tổng nguồn vốn huy động 1.241 tỷ đồng, tăng 9,7% và dư nợ cho vay 854 tỷ đồng, tăng 0,4% so cuối năm 2020. Nợ xấu: số dư 4,8 tỷ đồng, so cuối năm 2020 tỷ lệ nợ xấu 5,3%, tăng 0,3%. 2. Giá cả, lạm phát: Trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19, tại địa phương thực hiện giãn cách xã hội để ngăn chặn sự lây nhiễm dịch bệnh trong cộng đồng. Bênh cạnh đó để giảm bớt những khó khăn cho người dân bị ảnh hưởng của dịch Covid-19 nhà nước đã hỗ trợ giá một số mặt hàng như: điện, nước sinh hoạt,... là những nguyên nhân làm chỉ số giá tiêu dùng giảm hơn so tháng trước. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2021 giảm 0,24% so tháng 8/2021 (thành thị giảm 0,41%, nông thôn giảm 0,2%); so cùng kỳ tăng 2,55%. So với tháng 8/2021, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có có 2 nhóm hàng giảm: Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 2,26%; Giao thông giảm 0,16%. Có 6 nhóm hàng tăng: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,54% (lương thực tăng 1,04%, thực phẩm tăng 0,65%); Đồ uống và thuốc lá tăng 0,23%; May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,02%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,19%; Giáo dục tăng 0,03% và nhóm Hàng hóa dịch vụ khác tăng 0,13%. Các nhóm hàng còn lại như: Thuốc và dịch vụ y tế; Bưu chính viễn thông và Văn hoá, giải trí và du lịch có chỉ số giá ổn định. Nguyên nhân chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2021 giảm so tháng 8/2021: - Giá điện sinh hoạt bình quân trong tháng giảm 14,05%, nước sinh hoạt giảm 1,25%, nguyên nhân do giá điện, nước tháng này được nhà nước hỗ trợ giá cho người dân khi sử dụng điện, nước sinh hoạt do ảnh hưởng tình hình bệnh dịch COVID-19. - Giá xăng dầu điều chỉnh tăng vào ngày 10/9/2021 nhưng do chu kỳ tính CPI bình quân trong tháng, nên giá xăng dầu còn chịu tác động giảm của các kỳ điều chỉnh trước đó (ngày 11 và ngày 26/8/2021). Tính chung: giá xăng dầu giảm 0,32% so với tháng trước. - Do giá trứng gia cầm các loại giảm 6,03% do qua mùa chế biến bánh Trung thu, sức mua giảm, giá giảm theo. Bên cạnh đó, một số mặt hàng có chỉ số giá tăng go các nguyên nhân sau: Giá gạo tháng này tăng 0,59%, nguyên nhân do: tình hình xuất khẩu gạo thuận lợi hơn tháng trước, các doanh nghiệp tăng cường thu mua để đáp ứng đủ số lượng gạo đã ký kết hợp đồng ngay từ đầu năm, dẫn đến giá gạo bán lẻ tăng lên. - Giá thịt lợn tăng 1,06%, thịt gia cầm các loại tăng 1,32%: do ảnh hưởng dịch bệnh Covid kéo dài, hầu hết các lò giết mổ trong tỉnh đều thực hiện nghiêm giãn cách xã hội, nên các lò giết mổ gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh hoạt động bị hạn chế, dẫn đến nguồn cung ứng sản lượng thịt ra bên ngoài thị trường ít, giá bán tăng nhẹ so với tháng trước. - Giá rau tươi, khô và chế biến tăng 0,42% là do tình hình dịch bệnh Covid-19 tại địa phương được kiểm soát tốt, nút thắc giao thông của các mặt hàng nông sản từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ được cải thiện, nên hàng hoá nông sản, trái cây được lưu thông thông thoáng hơn tháng trước, dẫn đến giá bán lẻ tăng. - Giá gas tăng 0,82%, tương ứng tăng 3.000 đồng/bình 12 kg màu xám vào ngày 01/9/2021. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý III năm 2021, tăng 0,8% so quý trước và tăng 3,37% so cùng kỳ năm trước. Một số nhóm hàng có chỉ số giá tăng nhiều trong quý III năm 2021 so cùng kỳ như: Giá xăng, dầu trong nước tăng 39,5% so với cùng kỳ năm trước, góp phần làm CPI chung tăng 2,76 điểm phần trăm. Giá gas trong nước biến động theo giá gas thế giới, giá gas quý III/2021 tăng 36,64% so với cùng kỳ năm trước làm CPI chung tăng 0,44 điểm phần trăm. Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 9,46% so cùng kỳ năm trước (làm CPI tăng 0,29 điểm phần trăm) do giá thép tăng khi giá nguyên vật liệu đầu vào sản xuất thép tăng cao... Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm 2021 so cùng kỳ tăng 2,8%. Một số nhóm hàng có chỉ số giá tăng nhiều so cùng kỳ như: Giá xăng dầu trong nước tăng 23,54%; Gas và các loại chất đốt khác tăng 22,92%; Gạo tăng 9,33%; … do giá gas trong nước biến động theo giá gas thế giới, giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu, nhu cầu dự trữ gạo do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19… Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 9/2021 giảm 0,04% so tháng trước, giảm 4,66% so cùng kỳ; giá vàng bình quân tháng 9/2021 là 5.179 ngàn đồng/chỉ, giảm 253 ngàn đồng/chỉ so cùng kỳ. Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 9/2021 giảm 0,58% so tháng trước và giảm 1,68% so cùng kỳ; giá bình quân tháng 9/2021 là 22.880 đồng/USD, giảm 390 đồng/USD so cùng kỳ. 3. Đầu tư và Xây dựng: Vốn đầu tư toàn xã hội quý III/2021, ước thực hiện được 8.551 tỷ đồng, đạt 21,6% kế hoạch, giảm 14% so cùng kỳ; trong đó: vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 5.059 tỷ đồng, chiếm 59,2%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 770 tỷ đồng, chiếm 9%; vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 1.113 tỷ đồng, chiếm 13%. Chín tháng đầu năm 2021, vốn đầu tư toàn xã hội ước thực hiện 24.351 tỷ đồng, đạt 61,4% kế hoạch, giảm 2,7% so cùng kỳ; trong đó: vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 16.077 tỷ đồng, tăng 0,1%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.345 tỷ đồng, giảm 27,6%, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 2847 tỷ đồng, giảm 23,4% so cùng kỳ. Chín tháng đầu năm 2021, vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý là 2.246 tỷ đồng, đạt 61,2% kế hoạch, giảm 34,4% so cùng kỳ; gồm có: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 1.712 tỷ đồng, giảm 32,9%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 393 tỷ đồng, giảm 37,4%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 141 tỷ đồng, giảm 42.8% so cùng kỳ. Trong 09 tháng đầu năm 2021, Ban Quản lý không có cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới. Điều chỉnh cho 16 lượt dự án đầu tư bằng 76,19% so với cùng kỳ, trong đó có 05 dự án điều chỉnh tăng vốn đầu tư. Tổng vốn đầu tư 9 tháng đầu năm là 178,9 tỷ USD giảm 0,03% so với cùng, trong đó vốn đầu tư mới không có chủ yếu các dự án điều chỉnh tăng vốn. Giá trị sản xuất ngành xây dựng (giá so sánh 2010), chín tháng đầu năm 2021 thực hiện 7.149 tỷ đồng, tăng 1,2% so cùng kỳ. Theo giá hiện hành, giá trị sản xuất ngành xây dựng 9 tháng đầu năm 2021 thực hiện 10.636 tỷ đồng, tăng 3,8% so cùng kỳ. 4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp: Theo báo cáo Sở kế hoạch - Đầu tư, Số doanh nghiệp thành lập mới 9 tháng đầu năm 2021 là 390 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký là 2.750 tỷ đồng, đạt 55% so với kế hoạch, giảm 33% về số doanh nghiệp và giảm 12% về vốn đăng ký so cùng kỳ; trong đó 500 đơn vị trực thuộc đăng ký hoạt động (100 chi nhánh, 382 địa điểm kinh doanh, 18 văn phòng đại diện), giảm 49,4% so cùng kỳ. Tính đến cuối tháng 9/2021, toàn tỉnh hiện có khoảng 6.510 doanh nghiệp hoạt động. 9 tháng năm 2021 có 71 doanh nghiệp đăng ký giải thể giảm 4,1% và 30 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng giảm 38,8% so cùng kỳ. Ngành nghề giải thể tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực dịch vụ cho thuê xe, vận tải, giáo dục, nhà trọ, khách sạn chiếm 33,8%, là các lĩnh vực bị ảnh hưởng rất lớn của dịch bệnh; Về quy mô doanh nghiệp giải thể: 33,8% doanh nghiệp giải thể có vốn đăng ký dưới 1 tỷ đồng; 46,5% doanh nghiệp có vốn đăng ký từ 1 tỷ đồng đến 5 tỷ đồng. Các doanh nghiệp giải thể chủ yếu có quy mô nhỏ dễ bị tổn thương do tác động tiêu cực từ bên ngoài. Số hộ kinh doanh thành lập mới 9 tháng đầu năm 2021 là 2.500 hộ kinh doanh, giảm 32,2% so cùng kỳ 2020. Lũy kế đến hết tháng 09/2021, toàn tỉnh có 59.800 hộ kinh doanh. Số lượng doanh nghiệp và đơn vị trực thuộc giảm đáng kể - do dịch Covid-19 bùng phát rất mạnh và diễn biến phức tạp, tỉnh Tiền Giang áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội để kiểm soát dịch bệnh. 5. Sản xuất nông - lâm nghiệp và thủy sản: a. Nông nghiệp * Trồng trọt: Cây lương thực có hạt trong 9 tháng đầu năm 2021, gieo trồng 133.578 ha, đạt 99,7% kế hoạch, giảm 4,2% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch 740.371 tấn, đạt 92,1% kế hoạch, tăng 7,1% so với cùng kỳ; trong đó: cây lúa gieo sạ 131.342 ha, giảm 3,4% so cùng kỳ, thu hoạch 115.858 ha, tăng 5,9% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch đạt 732.466 tấn, tăng 7,8% so với cùng kỳ. - Cây lúa: Vụ Đông Xuân 2020 - 2021: chính thức gieo trồng 51.647 ha, giảm 10,3% so cùng kỳ. Nguyên nhân giảm do chuyển từ diện tích trồng lúa sang trồng cây ăn quả cho giá trị kinh tế cao hơn như: sầu riêng, mít, thanh long. Mặt khác, do hạn, mặn kéo dài ở khu vực phía đông chưa xả sổ kịp độ mặn nên một số diện tích không dám gieo trồng đã chuyển sang trồng rau, màu các loại. Năng suất thu hoạch đạt 71,1 tạ/ha, tăng 7,8% so cùng kỳ. Vụ Đông Xuân 2020- 2021 được triển khai thực hiện sớm hơn so cùng kỳ để tránh hạn mặn trong mùa khô và thời tiết thuận lợi hơn giúp cây lúa sinh trưởng, phát triển tốt, sâu bệnh ít, thời gian lúa trổ gặp thời tiết tương đối thuận lợi giúp thụ phấn và đậu hạt tốt, có 2- 3 cơn mưa trái mùa giúp đủ nước cung cấp cho cây lúa trong suốt quá trình sinh trưởng, phát triển nên cho năng suất cao. Sản lượng thu hoạch 367.189 tấn, giảm 1,8% so cùng kỳ. Nguyên nhân do diện tích gieo trồng giảm. Năm nay, giá bán giá lúa tươi bán tại ruộng từ 6.500- 7.500 đ/kg cao hơn so với cùng kỳ năm trước từ 1.900-2.500 đ/kg tùy theo loại giống nên bà con nông dân có lãi. Vụ Hè thu (Xuân Hè + Hè Thu): Mùa mưa đến sớm, không chịu ảnh hưởng bởi hạn, mặn nên sản xuất lúa vụ Hè thu 2021 tương đối thuận lợi. Bố trí sản xuất hợp lý, lịch thời vụ chuyển dịch phù hợp với điều kiện từng vùng sinh thái. Diện tích gieo trồng 74.728 ha (bao gồm vụ Xuân hè 24.905 ha và Hè thu 49.823 ha) đạt 97,5% kế hoạch, giảm 1,5% so cùng kỳ. Thu hoạch lúa Hè Thu đạt 64.211 ha, tăng 21,7% so cùng kỳ; năng suất đạt 56,9 tạ/ha, giảm 1,9% so cùng kỳ. Sản lượng đạt 365.277 tấn, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích gieo trồng giảm so cùng kỳ do chuyển đổi sang trồng cây rau màu, cây ăn quả và nuôi trồng thủy sản có hiệu quả kinh tế cao hơn và nhu cầu nguồn nước tưới ít hơn so với trồng lúa. Vụ Thu đông: Diện tích gieo trồng 4.967 ha; tăng 92,2% so cùng kỳ (gieo trồng chủ yếu ở huyện Tân Phước 1.190 ha, Châu Thành 737 ha và 05 huyện phía đông 3.040 ha). Dù chủ trương cắt vụ lúa Thu đông nhằm tránh ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, đặc biệt là tình hình hạn, mặn đã được ngành Nông nghiệp khuyến cáo, nhưng việc tổ chức thực hiện vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhiều hộ dân không tuân thủ khuyến cáo, chấp nhận thiệt hại dù đã được các địa phương tuyên truyền, vận động. - Cây ngô: Diện tích trồng trong tháng 85 ha, nâng tổng diện tích gieo trồng 2.236 ha, giảm 33,7% so cùng kỳ; năng suất bình quân 35,6 tạ/ha, sản lượng 7.905 tấn, giảm 32,8% so cùng kỳ, do chịu ảnh hưởng một phần hạn mặn kéo dài của năm 2020 và chuyển đổi sang trồng cây thanh long, một số cây ăn quả khác. Trong đó, huyện Chợ Gạo nằm trong vùng ngọt hóa Gò Công phía đông tỉnh Tiền Giang có diện tích trồng ngô lớn nhất tỉnh với 958 ha chiếm 42,8% diện tích ngô toàn tỉnh. Đây cũng là địa phương có tốc độ chuyển dịch cơ cấu sản xuất từ trồng lúa sang các cây trồng khác mạnh nhất tỉnh. Cây rau đậu các loại: 9 tháng năm 2021 gieo trồng 53.837 ha, đạt 86,2% kế hoạch, tăng 6,3% so cùng kỳ; thu hoạch 45.374 ha, tăng 2,9% so cùng kỳ; với sản lượng 919.928, đạt 76% kế hoạch, tăng 3,4% so cùng kỳ. Bao gồm diện tích gieo trồng rau các loại 53.589 ha, tăng 6,3% so cùng kỳ, nguyên nhân do chuyển từ đất trồng lúa, năng suất ước 203,4 tạ/ha tăng 0,4% so cùng kỳ, sản lượng 919.421 tấn, tăng 3,4% so cùng kỳ do nông hộ tăng cường ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong sản xuất, mở rộng quy mô trồng rau trong nhà lưới kiểm soát được sâu bệnh, nhiều loại giống mới được đưa vào sản xuất nên năng suất, sản lượng tăng; Diện tích gieo trồng đậu các loại 248 ha, so cùng kỳ tăng 19,9%; Sản lượng 507 tấn, so cùng kỳ tăng 4,5% do diện tích thu hoạch tăng. Chăn nuôi: Thời điểm 01/9/2021 tổng đàn gian súc, gia cầm của tỉnh như sau: Đàn bò hiện có 120.351 con, tăng 1,8% so cùng kỳ, tương ứng tăng 2.157 con so cùng kỳ, sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng trong tháng đạt 1.543 tấn, cộng dồn đạt 16.986 tấn, giảm 4,2% tương ứng giảm 744,29 tấn so với cùng kỳ; Đàn lợn là 273.816 con, giảm 5,3% tương ứng giảm 420 con so với cùng kỳ, sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 9 đạt 5.901 tấn giảm 15,4% tương ứng giảm 1.075 tấn so cùng kỳ, cộng dồn 9 tháng đạt 57.067 tấn, giảm 13,3% tương ứng giảm 8.753 tấn. Nguyên nhân chủ yếu là do dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang diễn biến rất phức tạp, dịch vụ vận tải đã ngừng hoạt động, trên địa bàn tỉnh thực hiện giãn cách nghiêm ngặt và phong tỏa khu Trung tâm Thành phố Mỹ Tho, vì vậy khâu tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi gặp rất nhiều khó khăn. Tổng đàn gia cầm của tỉnh là 17.200 ngàn con, tăng 2,8% tương ứng tăng 470,96 ngàn con so với cùng kỳ. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng trong tháng 9 đạt 3.770 tấn, giảm 15,6% tương ứng giảm 695 tấn. Nâng tổng số sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 9 tháng năm 2021 đạt 41.385,15 tấn, giảm 2,5% tương ứng giảm 1.045,45 tấn so với cùng kỳ. Nguyên nhân do dịch Covid-19, tình hình tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi gặp nhiều khó khăn. b. Lâm nghiệp Tổng diện tích rừng hiện có là 1.925,1 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng). Trong đó rừng phòng hộ 1.337,4 ha (huyện Gò Công Đông: 444,8 ha; huyện Tân Phú Đông: 848,8 ha và huyện Tân Phước: 43,8 ha) và 587,7 ha rừng sản xuất. Trong tháng 9/2021 toàn tỉnh thực hiện trồng mới được 8,3 ngàn cây phân tán nâng tổng số cây trồng từ đầu năm đến nay là 827,9 ngàn cây các loại, tăng 31,4% so với cùng kỳ do trong tháng có mưa nhiều, cây đựợc trồng ven các tuyến đường đi mới mở, nâng cấp theo chuẩn nông thôn mới (các loại cây trồng mới chủ yếu là cây bạch đàn, tràm bông vàng). Trong 9 tháng năm 2021, sản lương khai thác gỗ đạt 27.531 m3, giảm 7,5% so với cùng kỳ. Các loại gỗ được khai thác chủ yếu từ các loại cây bạch đàn, bạch đàn cao sản, dầu gió, tràm lanh. Nguyên nhân giảm là do diện tích rừng và chuyển đổi sang trồng các loại cây ăn quả khác như cây khóm, mít, chanh, sầu riêng nên sản lượng gỗ khai thác giảm; Khai thác củi đạt 108.872 Ste củi các loại, giảm 1,4% so cùng kỳ. Sản lượng củi khai thác giảm do các hộ dân ở huyện Cái Bè, Cai Lậy, Tân Phước ít khai thác và chuyển qua trồng cây ăn trái. c. Thủy hải sản: Diện tích nuôi thủy hải sản các loại trong tháng 9 đạt 693 ha, giảm 2,7% so cùng kỳ năm 2020; Trong quý III/2021 diện tích nuôi trong thủy sản đạt 1.565 ha, giảm 21,4% so cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2021, diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 14.778 ha, đạt 97,3% kế hoạch, tăng 0,3% so với cùng kỳ năm 2020; bao gồm nuôi thủy sản nước ngọt thả nuôi được 4.430 ha, so cùng kỳ tăng 0,4%. Nguyên nhân nuôi trồng thủy sản nước ngọt tăng là do ít bị ảnh hưởng hạn mặn kết hợp với mực nước nội đồng đủ nước nên các hộ tiến hành thả nuôi. Ngoài việc nuôi theo truyền thống ở hộ gia đình thì phong trào nuôi cá da trơn dọc bờ sông Tiền với hình thức nuôi công nghiệp cũng duy trì; nuôi thủy sản mặn, lợ trong 9 tháng đầu năm toàn tỉnh nuôi được 10.348 ha, tăng 0,3% so cùng kỳ, diện tích tăng chủ yếu là nuôi tôm sú nuôi quảng canh và nuôi tôm thẻ chân trắng do độ mặn và thời tiết thích hợp thì tiến hành thả giống, các hộ nuôi tôm thâm canh và quảng canh cải tiến rất thận trọng trong việc chọn mua giống. Tình hình nuôi nghêu ổn định, các sân nuôi tiếp tục thu hoạch và thả nuôi nghêu trở lại, ngành chức năng tăng cường thực hiện quan trắc môi trường tại vùng nuôi nghêu tập trung. Sản lượng thủy sản trong tháng 9 đạt 26.515 tấn, giảm 3,5% so với cùng kỳ; trong quý III/2021 sản lượng thủy sản đạt 93.566 tấn, tăng 0,7% so cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2021, sản lượng thủy sản đạt 235.109 tấn, đạt 80,1% kế hoạch, tăng 1,9% so với cùng kỳ; gồm có sản lượng thu hoạch từ nuôi thu hoạch 9 tháng đầu năm 2021 đạt 120.884 tấn, tăng 1,1% so với cùng kỳ, do những diện tích thả nuôi đã đến kỳ thu hoạch. Tiền Giang đa dạng hóa mô hình và đối tượng nuôi thủy sản, chú ý các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao, phù hợp với đặc thù hệ sinh thái vùng sông nước hạ lưu sông Tiền như: Nuôi tôm sú và tôm thẻ ở ven biển, nuôi cá tra thương phẩm trên các cù lao trên sông Tiền thuộc các huyện Cai Lậy và Cái Bè phía thượng lưu, nuôi và sản xuất cá giống nước ngọt ở vùng ven Đồng Tháp Mười, nuôi cá lồng bè trên sông Tiền, nuôi cá lồng ghép trong các mô hình kinh tế tổng hợp; khai thác thủy sản 9 tháng năm 2021 đạt 114.225 tấn, tăng 2,7% so cùng kỳ, do thời tiết thuận lợi cho hoạt động khai thác biển nên đa số các tàu có công suất lớn, nhất là các phương tiện đánh bắt biển xa, nghề lưới đều trúng mùa, sản lượng tăng khá, ngư dân phấn khởi. Hiện nay, các phương tiện không còn đánh bắt nhỏ lẻ như trước đây mà đã tự nguyện gia nhập vào các tổ hợp tác hoặc hợp tác xã để thuận lợi hơn trong đánh bắt hải sản nhất là khi khai thác xa bờ dễ dàng tương trợ, phối hợp cùng nhau để đạt hiệu quả được cao hơn và an toàn hơn, nên ngư dân khai thác trúng mùa, đạt sản lượng. 6. Sản xuất công nghiệp: Đợt dịch Covid-19 bùng phát lần thứ 4 với biến chủng Delta, ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp vốn đã bị tổn thương lại càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Các nguồn lực dự trữ đang cạn dần trong khi thị trường chưa có dấu hiệu phục hồi hoặc đang phục hồi rất chậm. Đặc biệt, dịch đã xâm nhập và tác động tiêu cực tới các khu công nghiệp, nơi tập trung một lượng lớn người lao động dẫn đến nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng, chuỗi lao động, sản xuất quy mô lớn, ảnh hưởng lớn đến kinh tế. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2021 tăng 19,1% so tháng 8/2021 và giảm 12,1% so cùng kỳ, trong đó: Công nghiệp chế biến chế tạo giảm 13,7%; sản xuất thiết bị điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 2,4% và cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,1%. Chỉ số sản xuất công nghiệp quý III/2021 giảm 13,5% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 14,6% (tập trung ở một số ngành chủ yếu sau: Sản xuất thiết bị điện giảm 71,6%; Sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 58,4%, dệt giảm 63,5%...); Ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 7,3%; Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,5%. Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm 2021 giảm 1,7% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 1,9% (tập trung ở một số ngành chủ yếu sau: sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 50,12%, sản xuất kim loại giảm 0,5%, sản xuất thiết bị điện giảm 18,1%, dệt giảm 27,8%...); ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 1,1%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,8%. Giá trị sản xuất công nghiệp địa phương 9 tháng đầu năm 2021 theo giá so sánh 2010 thực hiện 61.793 tỷ đồng, giảm 1,7% so cùng kỳ. Trong đó: Khu vực kinh tế nhà nước 782 tỷ đồng, giảm 5,8%; Khu vực kinh tế ngoài nhà nước 23.734 tỷ đồng, giảm 4,4%; Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 37.277 tỷ đồng, tăng 0,2%. Phân theo ngành công nghiệp: chế biến, chế tạo thực hiện 60.911 tỷ đồng, giảm 1,7%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí thực hiện 489 tỷ đồng, tăng 1%; cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải thực hiện 392 tỷ đồng, giảm 1,8% so cùng kỳ. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 9/2021 so với tháng trước tăng 0,5%, (trong đó: doanh nghiệp nhà nước giảm 0,1%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 1,8%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,2%) và so với cùng kỳ giảm 27,7%, (trong đó: doanh nghiệp nhà nước giảm 2,2%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 35,6%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 26,6%). Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 9 năm 2021 giảm 12,9%, (trong đó: doanh nghiệp nhà nước giảm 1,6%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 11,4%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 13,7%). Chia theo ngành công nghiệp: Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 9 năm 2021 giảm 12,9%, trong đó ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 13,2%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 0,4%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải giảm 2,5%. Sản phẩm sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2021: có 13/43 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Bộ com lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 47,5%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 22%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng bột/cốm tăng 18,9%; Bia đóng chai tăng 16,5%; Bia đóng lon tăng 12,3%; Túi xách tăng 10,8%; Phanh và trợ lực phanh tăng 8,7%; Giày, dép thể thao có đế ngoài và mũ giày bằng cao su và plastic tăng 4,6%; Dịch vụ thu gom rác thải không độc hại có thể tái chế tăng 2,2%; Ống và ống dẫn bằng đồng tăng 2%;... Có 30/43 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Đồ chơi hình con vật hoặc sinh vật không phải hình người giảm 49,2%; Dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu, thuyền giảm 48,4%; Dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 43,1%; Các bộ phận của bi, bánh răng, hộp số, các bộ phận điều khiển và truyền chuyển động khác giảm 42,7%; Giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài giảm 33,4%; Áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc giảm 29,4% … 7. Thương mại, dịch vụ: a. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng: Chín tháng đầu năm 2021, do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 doanh thu của các ngành dịch vụ giảm mạnh do tỉnh thực hiện biện pháp phong tỏa và giãn cách xã hội. Ngoài một số loại hàng hóa như lương thực thực phẩm, thuốc và các loại thiết yếu khác tăng, hầu hết các nhóm hàng hóa, hoạt động dịch vụ đều giảm. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng quý III/2021 thực hiện 11.415 tỷ đồng, giảm 34,1% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 11.043 tỷ đồng, giảm 20,8%; lưu trú, ăn uống 2,5 tỷ đồng, giảm 73,2%; dịch vụ tiêu dùng khác 366 tỷ đồng, giảm 78,9% so cùng kỳ. Chín tháng đầu năm 2021, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 44.609 tỷ đồng, đạt 63,5% kế hoạch, giảm 3,2% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 37.863 tỷ đồng, tăng 1,3%; lưu trú, ăn uống 2.901 tỷ đồng, giảm 30,7%; du lịch lữ hành 6 tỷ đồng, giảm 77,9%; dịch vụ tiêu dùng 3.839 tỷ đồng, giảm 14,5% so cùng kỳ, do một số ngành nghề, hoạt động liên quan tạm ngưng một thời gian dài để thực hiện phòng chống Covid. Nếu loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ 9 tháng đầu năm 2021 dự kiến giảm 5,8% so cùng kỳ. b. Xuất - Nhập khẩu: * Xuất khẩu: Do ảnh hưởng của Covid-19, đã ảnh hưởng đến hoạt động giao dịch, trao đổi giữa doanh nghiệp và đối tác, đặc biệt đối với các giao dịch cần có sự trao đổi trực tiếp; hoạt động thông quan hàng hóa gặp khó khăn làm tăng thêm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhờ tốc độ tăng trưởng cao 6 tháng đầu năm nên tính chung 9 tháng đầu năm 2021 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong 9 tháng đầu năm 2021 ước đạt 2.373 triệu USD, đạt 73% kế hoạch, tăng 7,3% so cùng kỳ; bao gồm: kinh tế nhà nước 30 triệu USD, giảm 10,1%; kinh tế ngoài nhà nước 404 triệu USD, giảm 12,2%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.940 triệu USD, tăng 12,9% so cùng kỳ. Kết quả có được như trên là do thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) Tiền Giang những năm qua cao nhờ vào lợi thế gần TP. Hồ Chí Minh và có hạ tầng khu công nghiệp, giao thông kết nối khá tốt. Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của tỉnh như sau: - Thủy sản: ước tính 9 tháng xuất 65.656 tấn, giảm 23,6% so cùng kỳ; trị giá xuất 144,3 triệu USD, đạt 45,1% kế hoạch, giảm 29% so cùng kỳ. - Gạo: ước tính 9 tháng xuất 150.449 tấn, giảm 17,9% so cùng kỳ; trị giá xuất 80 triệu USD, đạt 57,1% kế hoạch, giảm 15,8% so cùng kỳ. - Hàng dệt, may: ước tính 9 tháng xuất 107.644 ngàn sản phẩm, giảm 43,8% so cùng kỳ; trị giá xuất 375,3 triệu USD, đạt 62,6% kế hoạch, giảm 15% so cùng kỳ. - Kim loại thường và sản phẩm (kể cả đồng): ước tính 9 tháng xuất 58.675 tấn, giảm 16% so cùng kỳ; trị giá xuất 547 triệu USD, tăng 16,9% so cùng kỳ. Ngoài các mặt hàng chủ yếu, trị giá xuất khẩu một số mặt hàng trong 8 tháng năm 2021 như: túi xách, vali, mũ và ô dù 194,5 triệu USD, tăng 1%; giày dép các loại 390 triệu USD, tăng 17,8%; xơ, sợi dệt các loại 91 triệu USD, tăng 54,1%... so cùng kỳ. b. Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 9 tháng đầu năm 2021 thực hiện 1.337,5 triệu USD, đạt 74,3% kế hoạch, tăng 18,4% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 82,7 triệu USD, tăng 10,2%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.254,8 triệu USD, tăng 18,9% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu 9 tháng chủ yếu các mặt hàng như: kim loại thường khác 508,4 triệu USD, tăng 15,7%; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 246,7 triệu USD, tăng 44,5%; vải các loại 148 triệu USD, giảm 4,6%... so cùng kỳ. c. Vận tải: Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải quý III/2021 thực hiện 246 tỷ đồng, giảm 49,4% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 21 tỷ đồng, giảm 84,6% so cùng kỳ; vận tải hàng hóa thực hiện 191 tỷ đồng, giảm 35,7% so cùng kỳ. Vận tải đường bộ thực hiện 63 tỷ đồng, giảm 47,4%; vận tải đường thủy thực hiện 128 tỷ đồng, giảm 28%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 33 tỷ đồng, giảm 30,9% so cùng kỳ. Chín tháng đầu năm 2021, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải thực hiện 1.219 tỷ đồng, giảm 18,2% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 295 tỷ đồng, giảm 30,2% so cùng kỳ; vận tải hàng hóa thực hiện 790 tỷ đồng, giảm 13,4% so cùng kỳ. Vận tải đường bộ thực hiện 311 tỷ đồng, giảm 13,7%; vận tải đường thủy thực hiện 479 tỷ đồng, giảm 13,3%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 134 tỷ đồng, giảm 13,1% so cùng kỳ. Vận chuyển hành khách quý III/2021 đạt 2.022 ngàn hành khách, giảm 77,7% và luân chuyển 12.310 ngàn hành khách.km, giảm 92% so cùng kỳ; trong đó: vận chuyển đường bộ 820 ngàn hành khách, giảm 78,3% và luân chuyển 10.633 ngàn hành khách.km, giảm 92,8% so cùng kỳ; vận chuyển đường thủy 1.202 ngàn hành khách, giảm 77,2% và luân chuyển 1.677 ngàn hành khách.km, giảm 72,2% so cùng kỳ. Chín tháng đầu năm 2021, vận chuyển hành khách đạt 17.612 ngàn hành khách, giảm 31,6% và luân chuyển 309.453 ngàn hành khách.km, giảm 30,7% so cùng kỳ, do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 xảy ra trên diện rộng, thời gian thực hiện giãn cách xã hội kéo dài, gây ảnh hưởng đến quá trình sản xuất hàng hoá và dịch vụ của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, trong đó có hoạt động vận tải, kho bãi. Trong đó: vận chuyển đường bộ 8.283 ngàn hành khách, giảm 24,3% và luân chuyển 296.547 ngàn hành khách.km, giảm 30,2% so cùng kỳ; vận chuyển đường thủy 9.329 ngàn hành khách, giảm 37% và luân chuyển 12.906 ngàn hành khách.km, giảm 40,2% so cùng kỳ. Vận tải hàng hóa quý III/2021 đạt 1.924 ngàn tấn, giảm 31,1% và luân chuyển được 263.862 ngàn tấn.km, giảm 27.2% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ thực hiện 364 ngàn tấn, giảm 42,3% và luân chuyển được 41.818 ngàn tấn.km, giảm 43,2% so cùng kỳ; vận tải đường thủy thực hiện 1.560 ngàn tấn, giảm 27,8% và luân chuyển được 222.044 ngàn tấn.km, giảm 23,1% so cùng kỳ. Chín tháng đầu năm 2021, vận tải hàng hóa đạt 7.580 ngàn tấn, giảm 11,4% và luân chuyển 980.649 ngàn tấn.km, giảm 11,7% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ thực hiện 1.777 ngàn tấn, giảm 5,2% và luân chuyển được 189.041 ngàn tấn.km, giảm 17,3% so cùng kỳ; vận tải đường thủy thực hiện 5.803 ngàn tấn, giảm 13,1% và luân chuyển 791.608 ngàn tấn.km, giảm 10,2% so cùng kỳ. * Phương tiện giao thông: trong tháng đăng ký mới 11 xe ô tô, và 01 chiếc xe khác. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.355.009 chiếc, trong đó mô tô xe máy: 1.312.967 chiếc, 41.251 xe ô tô, 152 xe ba bánh, 192 xe đạp điện và 447 xe khác. d. Du lịch: Trong tháng 9, dịch vụ lưu trú và du lịch lữ hành tiếp tục bị ảnh hưởng mạnh bởi dịch Covid-19, đợt dịch lần 4 này người dân và du khách e dè hơn trong việc tổ chức đi tham quan du lịch. Khách du lịch đến tỉnh trong quý III/2021 ước tính 325 lượt, bằng 0,2% so cùng kỳ. Doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 5.380 tỷ đồng, bằng 0,3% so cùng kỳ; chủ yếu là doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống. Chín tháng đầu năm 2021, lượng khách du lịch đến tỉnh 263,6 ngàn lượt, đạt 24% kế hoạch, giảm 56,4% so cùng kỳ; trong đó khách quốc tế 3,8 ngàn lượt, bằng 3,9%. Doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 2.907 tỷ đồng, giảm 31% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm 99,8%. e. Bưu chính - Viễn thông: Doanh thu tháng 9 đạt 265 tỷ đồng, tăng 3,9% so tháng trước; trong đó: doanh thu bưu chính 25 tỷ đồng, tăng 2,1% và viễn thông 239 tỷ đồng, tăng 4,1%. Cộng dồn 9 tháng doanh thu 2.372 tỷ đồng, đạt 76,5% so kế hoạch và tăng 4% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính 214 tỷ đồng, tăng 12,4% so cùng kỳ và đạt 98,9% so kế hoạch, doanh thu viễn thông 2.158 tỷ đồng, tăng 3,2% so cùng kỳ và đạt 74,8% so kế hoạch. Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng ước tính đến cuối tháng 9 năm 2021 là 97.655 thuê bao, mật độ bình quân đạt 5,5 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây từ đầu năm 2021 đến nay tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa và giá cước điện thoại ngày càng giảm cho nên khách hàng dần chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Số thuê bao điện thoại di động có sử dụng internet (3G, 4G) đến cuối tháng 8 năm 2021 là 1621.013 thuê bao. Chín tháng đầu năm 2021 số thuê bao internet phát triển 46.082 thuê bao. Tổng số thuê bao internet trên mạng ước tính đến tháng 9 năm 2021 là 282.127 thuê bao, mật độ internet bình quân ước đạt 15,9 thuê bao/100 dân. Tỉnh hiện có 15 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, chuyển phát Có 206 điểm phục vụ bưu chính, trong đó có 44 điểm bưu cục, 111 điểm Bưu điện Văn hóa xã và 51 đại lý bưu điện và thùng thư công cộng. Các dịch vụ truyền thống giảm do sự phát triển mạnh của viễn thông, Internet. Doanh nghiệp bưu chính tiếp tục tăng cường, củng cố các dịch vụ hiện có, quan tâm phát triển các dịch vụ có doanh thu cao và dịch vụ mới, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng nghiệp vụ. II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Lao động, giải quyết việc làm: Chín tháng đầu năm 2021, tư vấn cho 18.799 lượt lao động, giảm 26% so với cùng kỳ năm 2020, đạt 94% kế hoạch năm, trong đó tư vấn nghề cho 4.288 lượt lao động, tư vấn việc làm 2.277 lượt lao động, tư vấn việc làm cho 11.394 lượt lao động thất nghiệp, tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác cho 889 lượt lao động; giới thiệu việc làm cho 2.012 lượt lao động, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2020, đạt 50,3% kế hoạch năm; đã giới thiệu cho 754 lao động có được việc làm ổn định, giảm 17,8% so với cùng kỳ năm 2020; Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, bao gồm tư vấn cho 562 lượt lao động có nguyện vọng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm 2020 (23 lượt lao động đăng ký tham gia, giảm 20,7% so với cùng kỳ); 143 lao động xuất cảnh, giảm 4% so với cùng kỳ năm 2020, đạt 47,7% so với kế hoạch năm, trong đó xuất cảnh qua Nhật Bản 110 lao động, Đài Loan 30 lao động và thị trường khác 03 lao động. Chín tháng đầu năm, tiếp nhận được 11.411 người hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 40,8% so với cùng kỳ năm 2020, 12.424 trường hợp được hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 29,9% so với cùng kỳ năm 2020, với tổng số tiền chi trả trên 187 tỷ đồng; thực hiện tư vấn, giới thiệu việc làm và tư vấn học nghề cho 61.744 lượt lao động thất nghiệp, 23 người lao động thất nghiệp đã đăng ký học nghề. Trong quý III năm 2021 tình hình dịch bệnh Covid-19 xảy ra tại tỉnh Tiền Giang đã ảnh hưởng đến khoảng 96% các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tạm dừng hoạt động để phòng, chống dịch. Do đó, số lao động ngừng việc rất lớn, chiếm khoảng 94% tổng số lao động tại các doanh nghiệp. Theo tổng hợp sơ bộ Điều tra lao động việc làm quý III năm 2021, dân số từ 15 tuổi trở lên là 2.219 người (nữ chiếm 51,6%). Trong đó lực lượng lao động là 1.542 lao động, chiếm 69,5% dân số từ 15 tuổi trở lên của quý III năm 2021. Theo kết quả điều tra mẫu lao động việc làm quý III/2021 tỷ trọng lực lượng lao động khu vực thành thị là 30%. Tỷ trọng của lực lượng lao động hiện nay vẫn tập trung chủ yếu là ở khu vực nông thôn (chiếm 70%). Số người từ 15 tuổi trở lên có việc làm của tỉnh quý III năm 2021 là 1.319 người, chiếm 59,4% so với tổng số người từ 15 tuổi trở lên. Trong tổng số lao động có việc làm của toàn tỉnh, lao động khu vực nông thôn chiếm 71,4% và khu vực thành thị chiếm 28,6%. Theo kết quả sơ bộ điều tra mẫu lao động việc làm quý III/2021 cho thấy, trong tổng số 1.319 lao động đang làm việc của tỉnh đã có 214 lao động thiếu việc làm chiếm 16,2%, tăng 12,2 điểm phần trăm so quý II/2021 và tăng 7,2 điểm phần trăm so cùng kỳ năm 2020 (từ 9,1% năm 2020 tăng lên 16,2% năm 2021), đã làm cho tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị tăng 12,7 điểm phần trăm so quý II và tăng 6,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2020 (từ 12,4% năm 2020 lên 18,8%). Đối với khu vực nông thôn tỷ lệ thiếu việc làm quý III tăng 12,2 điểm phần trăm so quý II và tăng 7,6% điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2020 (từ 7,6% năm 2020 lên 15,2%). Tình trạng số lao động thiếu việc làm trong quý III năm 2021 chủ yếu là ở khu vực nông thôn (chiếm 66,8% trong tổng số số lao động thiếu việc làm của toàn tỉnh). Theo kết quả điều tra mẫu lao động việc làm quý III/2021 tỷ lệ thất nghiệp tăng 13,1 điểm phần trăm so quý II năm 2021 và tăng 12,1 điểm phần trăm so cùng kỳ năm 2020 (từ 2,4% năm 2020 lên 14,5% năm 2021). Trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị quý III tăng 16,3 điểm phần trăm so quý II và tăng 15,8 điểm phần trăm so cùng kỳ năm 2020 (từ 2,8% lên 18,6%). Vì vậy, đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn tăng 11,8 điểm phần trăm so quý II và tăng 10,5 điểm phần trăm so cùng kỳ năm 2020 (từ 2,2% năm 2020 lên 12,7% năm 2021). Cũng chính vì vậy, đã làm cho tỷ trọng thất nghiệp ở khu vực thành thị chiếm 38,6% so với tổng số lao động thất nghiệp của toàn tỉnh và tỷ trọng số lao động thất nghiệp khu vực thành thị trong quý III năm 2021 tăng 2,7 điểm phần trăm so cùng kỳ năm 2020. Trong 9 tháng đầu năm 2021, tỷ lệ lao động thất nghiệp của tỉnh tăng 3,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2020 (từ 2,0% lên 5,6%) và tỷ lệ lao động thất nghiệp khu vực thành thị tăng 5,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ từ 2,0% năm 2020 lên 7,3% năm 2021 đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn tăng 2,8 điểm phần trăm (từ 2,0% năm 2020 lên 4,8% năm 2021). Tỷ lệ lao động thiếu việc làm 9 tháng đầu năm 2021 tương tự 9 tháng đầu năm 2020 là 7,4%. Nhìn chung tỷ lệ thất nghiệp chung của toàn tỉnh, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và nông thôn cũng như tỷ lệ số lao động thiếu việc làm trong quý III và 9 tháng đầu năm 2021 nhìn chung đều tăng so cùng kỳ năm 2020, là do trong quý III/2021 tỉnh Tiền Giang chịu sự tác động nặng nề của đại dịch Covid-19. Đã ảnh hưởng tiêu cực đến các mặt đời sống, xã hội, các hoạt động dịch vụ du lịch, giao thông vận tải, sản xuất, kinh doanh, các hoạt động vui chơi, giải trí... nên số lao động thất nghiệp của quý III và 9 tháng năm 2021 tăng cao hơn quý III và 9 tháng năm 2020. Riêng số lao động thiếu việc làm trong quý III năm 2021 tăng cao hơn quý III năm 2020 và số lao động thiếu việc làm 9 tháng năm 2021 tương đương cùng kỳ. 2. Đời sống dân cư và an sinh xã hội: Từ đầu năm đến nay, đã trình Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, ban hành quyết định phê duyệt danh sách và kinh phí hỗ trợ cho 3.715/3.855 người lao động, với tổng số tiền hỗ trợ trên 3,8 tỷ đồng. Trong đó, mức hỗ trợ 1.800.000 triệu đồng/người cho 136 người lao động với tổng số tiền 244,8 triệu đồng, mức hỗ trợ 1.000.000 đồng/người cho 3.579 người lao động với tổng số tiền gần 3,6 tỷ đồng. Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành 04 quyết định phê duyệt danh sách và kinh phí hỗ trợ cho 3.715/3.715 người lao động, với tổng số tiền hỗ trợ trên 3,8 tỷ đồng. Chính phủ phê duyệt hỗ trợ tỉnh Tiền Giang 200.415 người, với trên 3.006 tấn gạo. Đến nay, tỉnh đã nhận được trên 1.490 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia và đã tổ chức cấp phát cho 99.253 người dân, số lượng gạo tỉnh chưa được cấp từ Tổng cục Dự trữ nhà nước so với số lượng đã được Trung ương phê duyệt là gần 1.516 tấn gạo; sẽ cấp cho 101.062 người. Đồng thời, UBND tỉnh xem xét tiếp tục đề nghị Trung ương hỗ trợ đợt 2 cho 163.262 người dân, người lao động gặp khó khăn do dịch Covid-19, với số lượng gạo gần 2.449 tấn. Quỹ đền ơn đáp nghĩa trong 9 tháng năm 2021 đã vận động được 5,9 tỷ đồng, xây dựng được 35 căn nhà tình nghĩa với tổng số tiền 1,4 tỷ đồng; sửa chữa 51 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí trên 1 tỷ đồng. Các chính sách bảo trợ xã hội được thực hiện đồng bộ, các đối tượng xã hội đã được tạo điều kiện để tiếp cận tốt các chính sách và các nguồn hỗ trợ từ nhà nước, cộng đồng. Tổng số đối tượng hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội tại cộng đồng 72.709 người với tổng kinh phí thực hiện trên 169,4 tỷ đồng. 3. Hoạt động giáo dục: Trong 9 tháng đầu năm 2021, ngành giáo dục Tiền Giang đã tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2020-2021 từ ngày 25/12/2020 đến ngày 27/12/2020 tại trường THPT Chuyên Tiền Giang với 54 thí sinh dự thi ở 09 môn Ngữ văn, Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Lịch sử, Địa lý, Tin học, Tiếng Anh. Cử đoàn cán bộ, giáo viên tham gia coi thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2020-2021 tại tỉnh Quảng Ngãi, Kon Tum. Kết quả đạt 06 giải/54 học sinh dự thi, trong đó có 01 giải nhì (Tiếng Anh), 05 giải khuyến khích (Sinh học, Toán, Ngữ văn, Vật lý) đều là học sinh trường THPT Chuyên. Xếp hạng 61/69 đơn vị dự thi toàn quốc; xếp hạng 9/13 tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long. Phát hành bản chính bằng tốt nghiệp THPT năm 2020, công khai thông tin cấp phát văn bằng tốt nghiệp năm học 2020-2021 trên Website Sở GDĐT để phục vụ tra cứu, xác minh. Phát hành Giấy chứng nhận nghề phổ thông năm 2020 cho các đơn vị dự thi và thực hiện tổng hợp chỉnh sửa các trường hợp sai sót. Tổ chức kỳ thi tuyển sinh lớp 10 năm học 2021-2022 vào các ngày 04, 05, 06/6/2021. Kỳ thi tốt nghiệp THPT diễn ra thành công vào ngày 07, 08/7/2021 (đợt 1) và 06, 07/8/2021 (đợt 2). Kết quả tổng số thí sinh đỗ tốt nghiệp cả 02 đợt là 15.895/16.015 thí sinh dự thi (tỉ lệ 99,25%, không bao gồm thí sinh tự do). Năm học 2021-2022: Thực hiện Quyết định 2259/QĐ-UBND ngày 25/8/2021 về kế hoạch năm học 2021 - 2022 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên, toàn tỉnh sẽ khai giảng năm học mới bằng hình thức trực tuyến vào ngày 5/9/2021. Đối với bậc giáo dục mầm non chỉ tổ chức dạy và học tập trung khi tình hình dịch Covid-19 được kiểm soát và đảm bảo an toàn cho giáo viên và trẻ. Đối với bậc tiểu học sẽ bắt đầu dạy và học trực tuyến từ ngày 13/9/2021, bậc THCS và THPT (khối lớp 9, lớp 12) sẽ bắt đầu dạy học trực tuyến từ ngày 6/9/2021, các khối lớp còn lại và hệ Giáo dục thường xuyên sẽ bắt đầu dạy học trực tuyến từ ngày 13/9/2021. 4. Hoạt động y tế: Theo báo cáo Sở Y tế, kể từ khi có ca nhiễm đầu tiên ngoài cộng đồng (ngày 05/6/2021) đến ngày 15/9/2021, Tiền Giang ghi nhận 12.561 ca mắc, 9.320 người đã khỏi bệnh (74,2%) và 314 ca tử vong (2,5%); trong đó Thành phố Mỹ Tho có 5.940 ca (41,6%), Châu Thành có 1.211 ca (8,5%), Chợ Gạo có 603 ca (4,2%). Các cơ sở điều trị (tầng 1 và 2) hoạt động với khoảng 60% công suất, còn trống hơn 3.000 giường bệnh để thu dung điều trị. Các sơ sở điều trị tầng 3 (điều trị bệnh nhân nặng, bệnh nhân có bệnh nền kèm theo) hoạt động với 90% công suất. Trung tâm Hồi sức Covid-19 hoạt động gần 100% công suất, trong đó có nhiều trường hợp bệnh nhân điều trị giảm được đưa xuống tầng điều trị hoặc cho ra viện trong ngày. Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang đã ban hành kế hoạch Tiêm vaccine phòng COVID-19 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2021-2022 số lượng vaccine là 1.371.674 liều. Tính đến cuối ngày 14/9/2021 toàn tỉnh đã tiêm được 294.809 liều vắc xin, trong đó mũi 1 là 269.308 (18,1%), mũi 2 là 25.501 (1,7%). Trong 9 tháng năm 2021 ghi nhận 14/44 bệnh truyền nhiễm. So với cùng kỳ có 03 bệnh tăng: tay chân miệng (+800 ca), viêm não do vi rút (+4 ca), Covid-19 (+12.561 ca); 14 bệnh giảm: liên cầu lợn ở người (-2 ca), ho gà, lao phổi (-265 ca), lỵ a míp (-2 ca), Quai bị (-30 ca), sởi (-33 ca), Sốt xuất huyết (-379 ca), thương hàn (-6 ca), thủy đậu (-74 ca), tiêu chảy (-461 ca), uốn ván khác (-2 ca), viêm gan siêu vi A (-2 ca), viêm gan siêu vi B (-6 ca), viêm gan siêu vi C(-3 ca); 27 bệnh tương đương và hoặc không xảy ra ca mắc; Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết 9 tháng đầu năm ghi nhận 1.729 ca mắc SXHD, giảm 11,7% so với cùng kỳ, 01 trường hợp tử vong do SXHD; Phòng chống HIV/AIDS cộng dồn đến tháng 9, toàn tỉnh có 5.945 người nhiễm HIV, 1.805 người chuyển sang AIDS, 999 người tử vong do AIDS; Xảy ra 05 vụ ngộ độc thực phẩm, 01 trường hợp tử vong do ngộ độc thực phẩm. Tình hình khám chữa bệnh tại các tuyến do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 một số cơ sở tạm ngưng tiếp nhận bệnh nhân hoặc phải chuyển đổi công năng để tập trung điều trị bệnh nhân Covid-19 cũng như phải cách ly phong tỏa để phòng chống dịch bệnh ảnh hưởng đến công tác khám, chữa bệnh trên địa bàn, số lượng bệnh đến khám ngoại trú và điều trị nội trú đều giảm nhiều giảm so với cùng kỳ năm 2020: tổng số lần khám bệnh 2.978.889 lần giảm 13,5% so cùng kỳ; tổng số người điều trị nội trú 138.529 người, giảm 4,4% so cùng kỳ. Công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong 9 tháng đạt 52,2%. 5. Hoạt động văn hóa - thể thao: Trong 9 tháng năm 2021, hoạt động văn hóa trên địa bàn tỉnh có những điểm nổi bật như sau: tổ chức họp mặt các giới Mừng Đảng Mừng Xuân Tân Sửu năm 2021; tổ chức chương trình nghệ thuật chào giao thừa tại Trung tâm Đào tạo, Huấn luyện và Thi đấu Thể dục Thể thao; tổ chức lễ truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; lễ phát động trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” và triển khai thực hiện đề án “Trồng một tỷ cây xanh giai đoạn 2021-2025” trên địa bàn tỉnh Tiền Giang; tổ chức các hoạt động phục vụ nhân dân dịp Tết Nguyên Đán Tân Sửu trong điều kiện phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Tập trung công tác tuyên truyền mừng Đảng, mừng xuân; chào mừng thành công Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tiền Giang lần thứ XI, nhiệm kỳ 2021-2025, chào mừng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; chào mừng cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Toàn tỉnh hiện có 424.893/459.435 hộ đạt 3 tiêu chuẩn Gia đình văn hóa, đạt 92,8%; 998/1005 ấp, khu phố văn hóa, đạt tỷ lệ 99,3%; 152/172 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị; 59 chợ văn hóa; 17 công viên văn hóa; 729 con đường văn hóa, 537 cơ sở thờ tự văn hóa. Trong 9 tháng đầu năm 2021, hệ thống thư viện tỉnh đã phục vụ được 36.023 lượt bạn đọc tăng 132,6% so cùng kỳ năm trước, với 165.347 lượt sách báo được lưu hành tăng 200,3% so với cùng kỳ năm trước. Hệ thống thư viện huyện và các phòng đọc cơ sở đã tiếp được 55.848 lượt bạn đọc, với 132.691 lượt sách báo lưu hành. Bảo tàng tỉnh và các di tích quốc gia trên địa bàn tỉnh đã đón hơn 20 nghìn lượt khách tham quan, giảm 52,3% so với cùng kỳ năm 2020, bán được 2.049 vé, sưu tầm được 30 hiện vật. Trong 9 tháng năm 2021, tổ chức 06 giải thể thao: giải Bóng đá hạng Nhì Quốc gia, giải Bóng bàn tỉnh Tiền Giang mở rộng lần VII – Tranh Cúp Sài Gòn Pingpong, giải Bóng chuyền hơi nữ CĐVC tỉnh Tiền Giang, giải Bóng đá mini trẻ tỉnh Tiền Giang, giải Bóng đá vô địch tỉnh Tiền Giang, giải thể thao kỷ niệm 75 năm ngày Thể thao Việt Nam. Tham dự 11 giải Quốc gia và khu vực, đạt 33 huy chương các loại (12 HCV, 8 HCB, 13 HCĐ). Triển khai xây dựng khu thể thao dưới nước tại Trung tâm Đào tạo, Huấn luyện và Thi đấu Thể dục Thể thao tỉnh. Các đội vận động viên tỉnh được trở về gia đình tiếp tục tự tập luyện online theo giáo án 2021. 6. Trật tự an toàn giao thông: (Theo báo cáo của ngành Công an). Giao thông đường bộ: Tai nạn giao thông trong tháng xảy ra 09 vụ, giảm 27 vụ so tháng trước và giảm 22 vụ so cùng kỳ, làm chết 06 người, giảm 13 người so tháng trước và giảm 20 người so cùng kỳ, bị thương 07 người, giảm 14 người so tháng trước và giảm 03 người so cùng kỳ. Nguyên nhân gây ra tai nạn: vi phạm tốc độ 02 vụ; sai làn đường, phần đường 02 vụ; không nhường đường 01 vụ; thiết bị không đảm bảo an toàn 01 vụ; nguyên nhân khác 03 vụ. Nâng tổng số vụ từ đầu năm đến nay 418 vụ tăng 153 vụ so cùng kỳ, làm chết 202 người, tăng 32 người so cùng kỳ, bị thương 278 người, tăng 145 người so cùng kỳ. Giao thông đường thủy: Trong tháng không phát sinh, tổng số vụ tai nạn từ đầu năm đến nay là 03 vụ, giảm 02 vụ so cùng kỳ (không phát sinh số người chết và bị thương). Tình hình TTATGT trong 04 ngày nghỉ lễ Quốc khánh 02/9/2021 (từ 07 giờ ngày 02/9 đến 07 giờ ngày 05/9/2021): không xảy ra, tình hình dich bệnh COVID-19 đang diễn biến phức tạp, toàn tỉnh đang áp dụng Chỉ thị số 15/CT-TTg và Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ nên lưu lượng phương tiện trên các tuyến giao thông giảm, chủ yếu phương tiện vận chuyển hàng hóa thiết yếu, không xảy ra ùn tắc giao thông. 7. Tình hình an ninh trật tự an toàn xã hội: theo báo cáo ngành Công an Trong 9 tháng năm 2021, tội phạm về trật tự xã hội xảy ra 935 vụ, giảm 5,5% so cùng kỳ; điều tra khám phá 498 vụ, bắt xử lý 686 đối tượng, thu hồi tài sản trị giá 1,5 tỷ đồng, phát hiện, triệt xóa 314 tụ điểm, xử lý 2.140 đối tượng liên quan cờ bạc; 180 vụ, 211 đối tượng tàng trữ, mua bán vận chuyển trái phép chất mà túy và xử lý hành chính 1.257 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; 38 vụ tội phạm về kinh tế, tham nhũng, xử lý 44 đối tượng và xử lý vi phạm hành chính, 39 trường hợp vi phạm pháp luật trên lĩnh vực kinh tế, 134 trường hợp vi phạm pháp luật về môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm và khai thác cát trái phép. 8. Tình hình cháy nổ, môi trường: Tình hình cháy nổ trong tháng xảy ra 03 vụ, trong đó có 01 vụ cháy nhà dân, 01 vụ cháy chợ ở thành phố Mỹ Tho và 01 vụ cháy khác ở huyện Gò Công Đông; nguyên nhân cháy do sự cố điện; uớc giá trị thiệt hại tài sản là 70 triệu đồng. Nâng tổng số vụ cháy, nổ trên địa bàn tỉnh từ đầu năm đến nay là 28 vụ cháy, nổ; ước tính thiệt hại tài sản gần 5,5 tỷ đồng. Chín tháng năm 2021, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 16 cơn lốc xoáy ở các huyện: Cái Bè, Cai Lậy, thị xã Cai Lậy, Tân Phước, Châu Thành, Thành phố Mỹ Tho, Chợ Gạo, thị xã Gò Công, Gò Công Đông và Tân Phú Đông đã gây thiệt hại về nhà: 249 căn nhà (sập 7 căn, tốc mái 242 căn), 1,7 ha cây bắp thiệt hại 100%, 120 ha lúa bị ngã đỗ và 765 cây thiệt hại, ước tính thiệt hại khoảng trên 6,7 tỷ. Lĩnh vực môi trường trong tháng 9 đã phát hiện vi phạm và xử lý 1 vụ, 03 quyết định xử phạt vi phạm hành chính (với 03 tổ chức); tiền xử phạt vi phạm là 160 triệu đồng; vi phạm đánh giá tác động môi trường và các yêu cầu trong Quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; không báo cáo kết quả giám sát chất thải định kỳ (một năm một lần trước ngày 31 tháng 01 hàng năm) cho cơ quan đã phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường thuộc thẩm quyền phê duyệt của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định. Nâng tổng số vụ vi phạm về lĩnh vực môi trường trong 9 tháng năm 2021 là 37 vụ; tổng số tiền xử phạt gần 762 triệu đồng.
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang tháng 8 năm 2021
- 18/06/2024 16:08
Tình hình dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh diễn biến phức tạp ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của nhân dân. Được sự quan tâm lãnh - chỉ đạo kịp thời của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế, Lãnh đạo tỉnh đã tập trung chỉ đạo, đề ra các giải pháp kịp thời giảm tác động của dịch bệnh Covid-19, vượt qua khó khăn, thách thức; đồng thời đề ra các giải pháp để tận dụng thời cơ thuận lợi sớm phục hồi, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Kết quả thực hiện trên các lĩnh vực như sau: I. SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN 1. Nông nghiệp Cây lương thực có hạt: Trong tháng diện tích gieo trồng trên địa bàn tỉnh đạt 254 ha, sản lượng thu hoạch đạt 63.470 tấn. Ước tính 8 tháng năm 2021, diện tích gieo trồng đạt 128.526 ha, đạt 96% so với kế hoạch, giảm 5,9% so cùng kỳ năm 2020; sản lượng lương thực có hạt đạt 589.529 tấn, đạt 73,4%, tăng 11,4%, trong đó cây lúa gieo sạ đạt 126.375 ha, diện tích thu hoạch đạt 88.375 ha, tăng 9,3% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch đạt 582.421 tấn, tăng 12,2% so cùng kỳ. - Cây lúa: Vụ Hè Thu (Xuân Hè + Hè Thu chính vụ), tổng diện tích gieo trồng chính thức đạt 74.728 ha, đạt 97,5% kế hoạch, giảm 1,5% so cùng kỳ năm trước; diên tích thu hoạch đạt 36.728 ha, đạt 47,9% kế hoạch, tăng 51,9% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch đạt 215.232 tấn, đạt 50,5% kế hoạch, tăng 48,4% so cùng kỳ. Nguyên nhân: Vụ Hè Thu gieo trồng sớm hơn cùng kỳ năm 2020, nên diện tích thu hoạch tăng. - Cây ngô: Trong tháng gieo trồng 254 ha, thu hoạch 266 ha, sản lượng thu hoạch đạt 953 tấn. Ước tính 8 tháng năm 2021, diện tích gieo trồng 2.151 đạt 61,5% kế hoạch, giảm 32,7% so cùng kỳ năm 2020; diện tích thu hoạch 1.991 ha, đạt 56,9%, giảm 31%; sản lượng thu hoạch 7.108 tấn, đạt 56%, giảm 30,9%, năng suất đạt 35,7 tạ/ha, đạt 98,4% kế hoạch, tăng 1,7% so cùng kỳ. Cây rau đậu các loại: Trong tháng gieo trồng đạt 4.515 ha, diện tích thu hoạch đạt 3.432 ha, sản lượng thu hoạch đạt 65.474 tấn. Ước tính 8 tháng năm 2021, diện tích gieo trồng trên địa bàn đạt 51.761 ha, đạt 82,9% kế hoạch, tăng 6,6% so cùng kỳ năm 2020; diện tích thu hoạch đạt 42.529 ha, đạt 68,1%, tăng 0,9%; sản lượng thu hoạch đạt 839.078 tấn, đạt 69,4%, tăng 3%; năng suất đạt 197,3 tạ/ha, đạt 101,9% kế hoạch, tăng 0,1% so cùng kỳ. Chăn nuôi: Trước diễn biến tình hình phức tạp của dịch bệnh Covid-19, từ ngày 12/7/2021 toàn tỉnh Tiền Giang đã thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ (huyện Tân Phú Đông từ ngày 19/7/2021). Dịch vụ vận tải hàng hóa bị hạn chế hoạt động, vì vậy ảnh hưởng tiêu cực đến việc tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi. Kết quả ước tính thời điểm 01/07/2021: đàn bò đạt 120,8 ngàn con, tăng 2,4% so với cùng kỳ; đàn lợn đạt 276,8 ngàn con, tăng 11,9%; đàn gia cầm đạt 16,9 triệu con, tăng 1,2% so cùng kỳ. 2. Lâm nghiệp Trong tháng Tám, tổng diện tích rừng hiện có trên địa bàn tỉnh là 1.925,1 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng), bao gồm rừng phòng hộ đạt 1.337,4 ha; rừng sản xuất đạt 587,8 ha; thực hiện trồng mới 460,1 ngàn cây phân tán. Tnh chung cho 8 tháng năm 2021 tổng số cây phân tán đạt 819,6 ngàn cây các loại, giảm 57,9% so cùng kỳ. 3. Thủy hải sản Sản lượng thủy sản tháng Tám ước tính đạt 28.643 tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2020, bao gồm: cá 23.406 tấn, tăng 4,1%; tôm 1.241 tấn, giảm 3,8%; thủy sản khác 3.996 tấn, giảm 4,7%. Cụ thể như sau: Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 10.745 tấn, giảm 9,5% so cùng kỳ năm 2020, trong đó cá 9.567 tấn, giảm 8,1%; tôm 875 tấn, giảm 5,3%; thủy sản khác 303 tấn, giảm 44,1%. Thời gian gần đây, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, nhiều thương lái chuyên thu mua cá bè tạm ngưng hoạt động do các chợ đầu mối ở TP.HCM và các cảng cá, chợ cá, chợ truyền thống tại tỉnh Tiền Giang bị đóng cửa. Trong khi đó, nhiều lồng bè cá của người dân ở tỉnh Tiền Giang đã tới giai đoạn thu hoạch, người nuôi cá bè điêu đứng. Việc tồn đọng cá bè chưa thể thu hoạch được gây khó khăn cho người dân, nhất là nợ vay của ngân hàng đến thời điểm phải hoàn vốn. Ngoài ra, giá thức ăn ở mức cao làm chi phí đầu tư tăng, khi kéo dài thời gian thu hoạch tỉ lệ cá hao hụt lớn, cá quá lứa sẽ rất khó tiêu thụ. Chỉ riêng tại cồn Tân Long và cồn Thới Sơn, thành phố Mỹ Tho hiện nay, có hàng trăm tấn cá bè cần thu hoạch để ngư dân giảm bớt khó khăn. Sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 17.898 tấn, tăng 11,3% so cùng kỳ năm 2020, trong đó cá 13.839 tấn, tăng 14,7%; tôm 366 tấn, tăng 0,2%; thủy sản khác 3.693 tấn, tăng 1,1%. Tính chung 8 tháng năm 2021, sản lượng thủy sản ước tính đạt 210.622 tấn, giảm 3,3% so cùng kỳ năm 2020, bao gồm cá 146.797 tấn, giảm 6,2%; tôm 24.665 tấn, tăng 2%; thủy sản khác 39.160 tấn, tăng 5,3%. II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP Sản xuất công nghiệp giảm mạnh so cùng kỳ do ảnh hưởng dịch Covid-19. Toàn tỉnh có 72/186 doanh nghiệp đang áp dụng phương án “3 tại chỗ”, tuy nhiên việc thực hiện chưa đạt yêu cầu, vì nhiều doanh nghiệp không thực hiện đúng cam kết, còn chủ quan, thiếu kiểm tra, kiểm soát để xảy ra các ổ dịch lớn trong doanh nghiệp. Một số ngành sản xuất giảm như: sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm, thủy sản….Ngoài ra thị trường tiêu thu trong nước và xuất khẩu còn nhiều khó khăn với lượng đặt hàng mới không nhiều, lượng hàng tồn kho cao cùng, giá xuất khẩu thấp,... Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8/2021 giảm 43,2% so với tháng trước, chỉ số sản xuất công nghiệp giảm sâu do thực hiện phương án ba tại chỗ để phòng chống dịch Covid-19; (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 47,37%, sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 3,24%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 4,73%)và giảm 27,05% so cùng kỳ. Các ngành chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh có chỉ số giảm so cùng kỳ, như: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 23,6%, sản xuất kim loại giảm 30%, sản xuất thiết bị điện giảm 75%... (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 30,5%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 0,2%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,9%). Chỉ số sản xuất công nghiệp 8 tháng đầu năm 2021 giảm 0,47% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,69%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 4,2%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 2,9%. Chỉ số sản xuất sản phẩm trong 8 tháng so cùng kỳ như sau: - Có 13/42 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Bộ com lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 53%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo tăng 38,3%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 36,5%; Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng bột/cốm tăng 21,4%; Dịch vụ thu gom rác thải không độc hại có thể tái chế tăng 4,9%; Điện thương phẩm tăng 4,2%;…. - Có 29/42 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Đồ chơi hình con vật hoặc sinh vật không phải hình người giảm 48,3%; Dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu, thuyền giảm 41,5%; Dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 30%; Giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài giảm 23,3%; Phi lê đông lạnh giảm 23,1%; Các bộ phận của bi, bánh răng, hộp số, các bộ phận điều khiển và truyền chuyển động khác giảm 23%; Áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc giảm 17,8%; Phân vi sinh giảm 15,8%; Cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép giảm 13,7%; Bao và túi (kể cả loại hình nón) từ plastic khác giảm 13,3%; Thức ăn cho thủy sản giảm 12,8%; … Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 8/2021 so với tháng trước giảm 5,74%, trong đó doanh nghiệp nhà nước giảm 0,75%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 16,42%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 2,55%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 8/2021 so với cùng kỳ giảm 7,45%, trong đó doanh nghiệp nhà nước giảm 2,06%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 4,02%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 8,54%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 8 năm 2021 giảm 8,54%, trong đó doanh nghiệp nhà nước giảm 1,55%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 5,13%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 9,72%. Chia theo ngành công nghiệp: Công nghiệp chế biến chế tạo giảm 8,72%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 0,32%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải giảm 2,73%. * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: - Chỉ số tiêu thụ tháng 8/2021 so với tháng trước giảm 48,2% và giảm 52,02% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 8 năm 2021 giảm 12,95%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ là: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 20,51%, trong đó chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản giảm 35,13%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 20,84%; Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 19,04%; Sản xuất sản phẩm cao su và plastic giảm 18,09%; Sản xuất kim loại giảm 15,86%;… Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng hơn so cùng kỳ: Sản xuất đồ uống tăng 9,51%, trong đó sản xuất bia tăng 9,51%; Dệt tăng 2,25%, trong đó sản xuất hàng may sẳn tăng 43,05%; Sản xuất trang phục tăng 1,71%; Sản xuất da tăng 5,14%, trong đó sản xuất va li, túi xách tăng 20,3%; Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 15,83%; Sản xuất thiết bị điện tăng 1,67%, trong đó sản xuất mô tơ tăng 15,53%; - Chỉ số tồn kho tháng 8/2021 so với tháng trước giảm 0,46% và so với cùng kỳ tăng 6,42%. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ là: Sản xuất trang phục giảm 4,69%; Chế biến gỗ giảm 37,98%; Chế biến, chế tạo khác giảm 49,31%, trong đó sản xuất đồ chơi, trò chơi giảm 49,3%;… Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 26,64%, trong đó sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 58,74%; Sản xuất đồ uống tăng 17,29%, trong đó sản xuất bia tăng 17,29%; Dệt tăng 6,56%, trong đó sản xuất hàng may sẳn tăng 34,66%;… * Tình hình thu hút đầu tư và phát triển các khu - cụm công nghiệp: - Khu công nghiệp: đến nay tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương quy hoạch 7 khu công nghiệp với tổng diện tích 2.083,5 ha; trong đó có 4 khu công nghiệp đi vào hoạt động. Trong tháng, Ban Quản lý các khu công nghiệp không cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới. Điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư cho 15 dự án tại các khu, cụm công nghiệp; trong đó có 05 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn, tổng vốn đầu tư tăng thêm là 178,9 USD. Đến cuối tháng 8/2021, tổng số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp là 107 dự án, trong đó: có 78 dự án đầu tư nước ngoài; tổng vốn đầu tư là 2,5 tỷ USD và 4.575,86 tỷ đồng; diện tích đất thuê là 571,09 ha/770,14 ha chiếm tỷ lệ 74,13% diện tích đất công nghiệp cho thuê. - Cụm công nghiệp: trên địa bàn tỉnh có 27 cụm công nghiệp được quy hoạch; trong đó có 8 cụm công nghiệp đang hoạt động. Trong tháng không thu hút dự án đầu tư mới. Tổng số dự án đầu tư tại các cụm công nghiệp hiện nay là 79 dự án (trong đó: có 06 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư là 0,2 tỷ USD và 2.306,2 tỷ đồng, diện tích thuê đất là 89,78 ha/120,56 ha, đạt 74,47% diện tích đất công nghiệp cho thuê. III. ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện trong tháng là 245 tỷ đồng, giảm 61,7% so cùng kỳ. Tám tháng đầu năm 2021 thực hiện 1.971 tỷ đồng, đạt 53,8% kế hoạch, giảm 27,4% so cùng kỳ. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý giảm do các ngành các cấp tập trung cho công tác phòng, chống dịch Covid-19, tuy nhiên để đảm bảo các nhiệm vụ phát triển kinh tế, UBND tỉnh thường xuyên kiểm tra giám sát nhằm tháo gỡ khó khăn tạo điều kiện thuận lơi đẩy mạnh đầu tư công. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh thực hiện 1.499 tỷ đồng, đạt 50,4% kế hoạch, giảm 25,9% so cùng kỳ, chiếm 76% tổng số; trong đó: vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 281 tỷ đồng, giảm 27,1%, vốn xổ số kiến thiết thực hiện 782 tỷ đồng, giảm 15,6% so cùng kỳ... Các ngành các cấp yêu cầu các ban quản lý chủ đầu tư tập trung điều kiện đẩy nhanh tiến độ, đồng thời thực hiện các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 để không ảnh hưởng đến tiến độ thi công. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện 353 tỷ đồng, đạt 90,1% kế hoạch, giảm 30,9% so cùng kỳ, chiếm 18% tổng số; trong đó: vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 178 tỷ đồng, giảm 24,4% so cùng kỳ... Các Ban quản lý dự án cấp huyện tập trung điều kiện đẩy nhanh công tác bồi thường, tiến độ thi công, hỗ trợ tái định cư cho hộ dân một số công trình, dự án đang triển khai trên địa bàn huyện. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp xã thực hiện 120 tỷ đồng, đạt 39,5% kế hoạch, giảm 33,1% so cùng kỳ, chiếm 6% tổng số; trong đó: vốn huyện hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 82 tỷ đồng,giảm 35,4% so cùng kỳ... Các xã tập trung điều kiện đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình xây dựng nông thôn mới năm 2021 nhằm phục vụ đi lại và vận chuyển hàng hóa của người dân đồng thời hoàn thành tiêu chí để ra mắt xã nông thôn mới. IV. THƯƠNG MẠI - GIÁ CẢ - DỊCH VỤ 1. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng: Toàn tỉnh Tiền Giang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ, các biện pháp tăng cường kiểm tra tình hình dịch bệnh được các ngành các cấp áp dụng chặt chẽ và nghiêm ngặt. Nhìn chung tình hình thị trường lưu chuyển hàng hóa trong tháng tương đối lắng đọng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong thời gian phòng chống dịch. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong tháng thực hiện 3.822 tỷ đồng, giảm 3,2% so tháng trước và giảm 35,5% so cùng kỳ. Cụ thể các nhóm hàng có tỉ trọng cao giảm như: Lương thực thực phẩm giảm 3,51%, đồ dùng gia đình giảm 2,83%, gỗ và vật liệu xây dựng giảm 15,42%, phân bón và thuốc trừ sâu giảm 9,93%, xăng dầu giảm 0,86%, hàng hóa khác giảm 1,14%... Tám tháng đầu năm 2021, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thực hiện 40.471 tỷ đồng, đạt 57,6% kế hoạch, tăng 1,2% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 34.103 tỷ đồng, tăng 5,1%; lưu trú 16 tỷ đồng, giảm 55,9%; ăn uống 2.635 tỷ đồng, giảm 26,7%; du lịch lữ hành 6 tỷ đồng, giảm 76,8%; dịch vụ tiêu dùng khác 3.711 tỷ đồng, giảm 4,7% so cùng kỳ. Tình hình xúc tiến thương mại trên địa bàn tỉnh, đã tổ chức các hoạt động như: Tổ chức điểm bán hàng hóa thiết yếu phục vụ người dân trong thời gian cách ly (theo tinh thần Chỉ thị 16/CT-TTg) tại xã Phước Trung, huyện Gò Công Đông (2 đợt) và xã Phú Tân, huyện Tân Phú Đông. Riêng trên địa bàn xã Thạnh Mỹ huyện Tân Phước do tình hình dịch bệnh, hỗ trợ cung cấp hàng hóa (theo nhu cầu đăng ký của người dân) cho Ủy ban nhân dân xã Thạnh Mỹ và Phòng Kinh tế và Hạ tầng huyện Tân Phước phân phối đến người dân, đồng thời thu và thanh toán tiền hàng trực tiếp với đơn vị cung ứng. Nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân tiêu thụ nông sản của tỉnh, các ngành liên quan đã giới thiệu và được các đơn vị thu mua ở thành phố Hồ Chí Minh tiêu thụ (vận chuyển bằng tàu cao tốc) khoảng 50 tấn gồm dưa hấu, thanh long, dưa lưới, khóm và rau củ các loại. Tình hình hoạt động các chợ và trung tâm thương mại: Theo số liệu của Sở Công thương tỉnh tính đến ngày 11/8/2021 tình hình các chợ, siêu thị, cửa hàng tạm ngưng hoạt động trên địa bàn tỉnh là: 53/175 chợ, 13/79 cửa hàng Bách hóa Xanh, Co.op Mart Gò Công, 17/640 cửa hàng bán lẻ xăng dầu, 6/6 cửa hàng bán lẻ của Hợp tác xã Thương mại dịch vụ Phường 1, thành phố Mỹ Tho. 2. Xuất - Nhập khẩu: a. Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng thực hiện 226 triệu USD; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 33 triệu USD, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 192 triệu USD. Tám tháng xuất khẩu 2.199 triệu USD, đạt 67,7% kế hoạch, tăng 14,4% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 28 triệu USD, tăng 3,1%; kinh tế ngoài nhà nước 334 triệu USD, giảm 18,6%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.836 triệu USD,tăng 23,7% so cùng kỳ. Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của tỉnh như sau: - Thủy sản: ước tính tháng 8/2021 xuất 4.401 tấn, về trị giá đạt 7 triệu USD. Tám tháng xuất 56.815 tấn, giảm 23,2%; về trị giá đạt 121 triệu USD, giảm 32% so cùng kỳ.Theo Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, các thị trường chính của Việt Nam đã có những sự hồi phục trong thời gian vừa qua. Mỹ, EU hay Nhật Bản đều không còn chịu quá nhiều sự tác động từ dịch bệnh Covid-19 do đó nhu cầu tiêu thụ tại các thị trường này tăng lên. Tuy nhiên. trong thời gian qua, hoạt động sản xuất của nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh nói chung và trong ngành thủy sản nói riêng gặp khó khăn do thực hiện theo chỉ thị 16/TTg và phương án “3 tại chỗ”. - Gạo: ước tính tháng 8/2021 xuất 7.688 tấn, về giá trị đạt 5 triệu USD. Tám tháng xuất 120.570 tấn, giảm 27,7%, về trị giá đạt 67 triệu USD, giảm 22,5% so cùng kỳ.Sau một thời gian dài duy trì ở mức cách biệt khá lớn, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam hiện đã giảm sâu và được đưa về tiệm cận với mức giá của các đối thủ cạnh tranh, nhất là với Thái Lan. Theo Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA), trong vòng khoảng hơn 5 tháng qua (từ giữa tháng 2-2021 đến nay), giá gạo xuất khẩu loại 5% tấm của Việt Nam đã “rớt” trên 110 USD/tấn, đây là mức giá giảm mạnh nhất nếu so với các đối thủ cạnh tranh trong mối tương quan cùng chủng loại và thời gian. Theo đó, thời điểm giữa tháng 5-2021, gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán với giá 513 - 517 USD/tấn, thì cũng phân khúc này được Ấn Độ chào bán với 398 - 402 USD/tấn và của Pakistan là 448 - 452 USD/tấn, trong khi đó, mức giá chào bán của Thái Lan là 480 - 484 USD/tấn. Ở thời điểm hiện tại, gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán với giá 400 - 404 USD/tấn, trong khi của Ấn Độ và Pakistan chào bán cùng mức giá là 383 - 387 USD/tấn và của Thái Lan là 390 - 394 USD/tấn. Như vậy, sau khoảng 5 tháng, giá chào xuất khẩu gạo của Việt Nam đối với chủng loại 5% tấm đã giảm 113 USD/tấn, trong khi đó, giá chào của Ấn Độ giảm 15 USD/tấn, của Pakistan giảm 65 USD/tấn và của Thái Lan giảm 90 USD/tấn. Rõ ràng, khi so sánh với các đối thủ cạnh tranh trong cùng phân khúc và khoảng thời gian, thì gạo Việt Nam có mức giá giảm mạnh nhất. Giá lúa gạo tại đồng bằng sông Cửu Long nhìn chung đang thấp hơn so với cùng kỳ năm trước khoảng 500 - 1.000 đồng/kg. Theo Bộ Công Thương, giá lúa gạo tại đồng bằng sông Cửu Long trong tuần từ 2/8 đến ngày 6/8 ổn định vào đầu tuần; giữa tuần giá lúa giảm từ 50 - 300 đồng kg sau đó cuối tuần tăng nhẹ. Cụ thể, giá lúa IR50404 dao động trong khoảng 4.400 đồng/kg, giảm so với cùng kỳ năm trước từ 900-1.300 đồng/kg; lúa OM9577 và OM9582 trong khoảng 5.600-5.800 đồng/kg, thấp hơn 1.000 đồng/kg. Khó khăn mà doanh nghiệp đang gặp phải là không đủ khả năng duy trì hoạt động sản xuất theo “3 tại chỗ” do tỷ lệ tiêm vacine còn hạn chế; nhiều các cơ sở sấy và xay sát lúa cũng phải dừng hoạt động do không đáp ứng việc test nhanh COVID-19. Ngoài ra, lượng hàng còn tồn kho trong doanh nghiệp cũng ảnh hưởng lớn đến tổ chức ký kết mới các hợp đồng thu mua lúa gạo cho nông dân do chưa mua cho hợp đồng xuất khâu mới. Tình hình bốc xếp, vận chuyển, lưu thông hàng hóa, từ ngoài đồng, đến nhà máy, đến giao ra cảng và lên tàu cho khách hàng, gặp nhiều khó khăn. Thực tế hiện nay, nhiều tỉnh áp dụng giãn cách rất chặt nên việc lưu thông ngay nội địa cũng phức tạp hơn. Hiện nay, giá lúa đang giảm, để tránh xảy ra tình trạng giá lúa giảm sâu, tồn động trong dân, ngành Nông nghiệp và địa phương đã và đang kết nối với thương lái, doanh nghiệp để tổ chức thu mua lúa cho người dân... - Hàng dệt, may: ước tính tháng 8/2021 xuất 4.682 ngàn sản phẩm, về giá trị xuất đạt 43,4 triệu USD. Tám tháng kim ngạch xuất khẩu đạt 345,5 triệu USD, giảm 7,1% so cùng kỳ. Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, khả năng nếu dịch bệnh còn tiếp tục thì hàng dệt, may của chúng ta không còn có khả năng để giữ khách hàng tại Việt Nam, nhãn hàng tại thị trường Việt Nam không ổn định, họ sẽ chuyển đi nơi khác sẽ gây ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh trung hạn, đặt ra thách thức cực kỳ lớn cho ngành. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp cũng đối mặt với thách thức lớn khi người lao động ở các địa phương về quê tránh dịch rồi tìm được việc làm phù hợp, khi doanh nghiệp sản xuất trở lại thì người lao động quay lại thì dự kiến số lao động chỉ đạt được 70 - 75%, nên nguy cơ thiếu nguồn lực là một thách thức trong tháng 9-2021 và quý 4 năm nay. Ngoài các mặt hàng chủ yếu, trị giá xuất khẩu một số mặt hàng trong 8 tháng năm 2021có giá trị xuất khẩu tăng cao như: Sắt thép 52 triệu USD tăng 82,4%; Sản phẩm mây, tre, cói, thảm xuất 7 triệu USD, tăng 30,4%; Sản phẩm từ chất dẻo 211 triệu USD, tăng 57,1%; Giày dép các loại 372 triệu USD, tăng 27,9%; Kim loại thường và SP (kể cả đồng) 555 triệu USD, tăng 38,1% ... so cùng kỳ. b. Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng 8/2021 đạt 127 triệu USD, chủ yếu ở thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tám tháng, kim ngạch nhập khẩu 1.261 triệu USD, đạt 70,1% kế hoạch, tăng 25,6% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước nhập 77,9 triệu USD, tăng 13,4%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập 1.182,9 triệu USD, tăng 26,5% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu 8 tháng chủ yếu các mặt hàng như: Chất dẻo (plastic) nguyên liệu tăng 71,1%; Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 235 triệu USD, tăng 59,1%; Kim loại thường khác 503 triệu USD, tăng 29,7%... so cùng kỳ. 3. Chỉ số giá tháng 7: Trên địa bàn tỉnh Tiền Giang tình hình dịch Covid- 19 diễn biến phức tạp, toàn tỉnh Tiền Giang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ từ ngày 12/7/2021 cho đến nay, từ ngày 18/8 thành phố Mỹ Tho cách ly và phong tỏa 10 ngày, cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ không thiết yếu tạm dừng hoạt động để phục vụ công tác phòng, chống dịch. Ngoài các điểm chợ truyền thống bị phong tỏa phục vụ công tác phòng, chống dịch, thì các siêu thị, cửa hàng tiện ích, bách hóa xanh trên địa bàn của tỉnh vẫn còn hoạt động bình thường, nhưng sức mua hàng hóa của người dân trong tháng giảm hơn so với tháng trước. Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ nhằm giảm bớt khó khăn cho người dân tác động chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8/2021 giảm 0,42% so tháng 7/2021 (thành thị giảm 0,21%, nông thôn giảm 0,47%); so cùng kỳ tăng 3,48%. Bình quân tám tháng đầu năm 2021, CPI tăng 2,83% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng 7/2021, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 5 nhóm giảm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,16%; Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,02%; Giao thông giảm 0,2%; Bưu chính viễn thông giảm 0,12% và Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,13%. Có 04 nhóm tăng: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,02%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,08%; Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%; Hàng hóa dịch vụ khác tăng 0,15%. Có 2 nhóm: đồ uống, thuốc lá và Giáo dục chỉ số giá ổn định. Một số mặt hàng có chỉ số giá tiêu dùng tháng 8/2021 giảm so tháng 7/2021: - Giá thịt lợn giảm 5,68% do bệnh dịch tả Lợn Châu Phi tại địa phương được kiểm soát tốt, tổng đàn đang dần phục hồi trở lại; mặc khác do thực hiện nghiêm giãn cách xã hội, sức mua giảm, dẫn đến giá giảm. Cùng với đó, giá thịt bò giảm 0,32%, nội tạng động vật giảm 4,8%, mỡ lợn giảm 8,28%. - Giá thịt gia cầm giảm 4,72%, hiện nay đang vào giai đoạn gia cầm xuất chuồng, sản lượng thịt hơi dồi dào, trong khi đó khâu lưu thông tiêu thụ bị hạn chế vì thực hiện giãn cách xã hội, dẫn đến sức mua giảm. Cùng với đó giá rau tươi, khô và chế biến giảm 0,34%, quả tươi khô và chế biến giảm 15,97%. - Giá điện giảm 1,33%, nước sinh hoạt giảm 0,17%, do thực hiện chỉ đạo của Thủ trướng Chính phủ hỗ trợ giảm giá điện, nước sinh hoạt cho các khách hàng sử dụng bị ảnh hưởng của dịch Covid-19; mặc khác, tại Tiền Giang thời tiết mưa nhiều, người dân sử dụng điện, nước sinh hoạt giảm. - Giá xăng dầu giảm 0,4% so với tháng trước là do nhà nước giảm giá (ngày 11/8/2021) để hỗ trợ chia sẻ với người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh và hỗ trợ các lực lượng trên các tuyến phòng chống dịch. Bên cạnh đó, một số mặt hàng có chỉ số giá tăng như: - Giá lương thực tăng 0,4%, trong đó giá gạo tẻ tăng 0,32%, giá lương thực chế biến như: bánh mì, mì tôm, miếng, bột ngũ cốc ăn liền…tăng 2,07%. Ngoài ra người dân lo sợ dịch kéo dài hàng hóa khan hiếm, giãn cách xã hội còn tiếp tục nên thu mua hàng hoá tích trữ để dành tiêu dùng, dẫn đến giá bán lẻ tăng nhẹ. Cùng với đó, giá thịt chế biến (thịt quay, giò, chả, thịt hộp) tăng 0,56%; trứng gia cầm các loại tăng 7,04%, cá khô và chế biến tăng 4,87%. - Giá gas tăng 3,39% (tăng 12.000 đồng/bình 12kg) vào ngày 01/8/2021, tác động đến nhóm gas và các loại chất đốt khác tăng 3,12% so tháng trước. Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 8/2021 giảm 0,23% so tháng trước, giá bình quân tháng 8/2021 là 5.181 ngàn đồng/chỉ, giảm 336 ngàn đồng/chỉ so cùng kỳ. Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 8/2021 giảm 0,42% so tháng trước, giá bình quân 23.013 đồng/USD, giảm 257 đồng/USD so cùng kỳ. Ước chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2021 tăng từ 0,05% đến 0,15% so tháng 8/2021 do Giá gạo tiếp tục tăng (nhu cầu xuất khẩu cuối năm tăng, mặc khác do dịch bệnh kéo dài người dân mua gạo tích trữ); Nhóm hàng giáo dục như sách, vở giá sẽ tăng nhẹ (các cấp học chuẩn bị bước vào năm học mới). 4. Du lịch: Trong tháng thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg trên phạm vi toàn tỉnh, nên hoạt động lưu trú ăn uống du lịch trên địa bàn tỉnh không phát sinh doanh thu. Tính chung tám tháng đầu năm 2021, lượt khách du lịch đến Tiền Giang là 239,3 ngàn lượt khách, đạt 21,8% kế hoạch và giảm 57,2% so cùng kỳ; trong đó: khách quốc tế 3,8 ngàn lượt khách, đạt 0,8% kế hoạch, giảm 96,1% so cùng kỳ. Tổng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác đạt 6.368 tỷ đồng, giảm 15,7% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ ăn uống chiếm tỷ trọng 41,6%, ước đạt 2.651 tỷ đồng, giảm 27%; lưu trú đạt 16 tỷ đồng, giảm 55,9% so cùng kỳ... 5. Vận tải: Sở Giao thông Vận tải tỉnh Tiền Giang ban hành các văn bản và triển khai hướng dẫn về tổ chức hoạt động vận tải trên địa bàn tỉnh trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 trên phương tiện như: Công văn số 1739/SGTVT-VTPTNL ngày 03/8/2021 yêu cầu các đơn vị vận tải thực hiện nghiêm công tác phòng, chống dịch Covid-19 đối với người trên phương tiện vận chuyển hàng hóa; Công văn số 1799/SGTVT-VTPTNL ngày 9/8/2021 về việc hướng dẫn hoạt động vận chuyển của doanh nghiệp bưu chính, vận tải hàng hóa thiết yếu của Công ty Cổ phần Dịch vụ giao hàng nhanh; Công văn 1788/SGTVT-VTPTNL ngày 8/8/2021 triển khai một số nội dung hướng dẫn nhằm tạo thuận lợi cho người và phương tiện tham gia vận chuyển hàng hóa phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản, thu hoạch, thu mua, vận chuyển tiêu thụ nông sản, thủy hải sản, cung ứng vật tư cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản trong điều kiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số16/CT-TTg. Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải trong tháng thực hiện 83 tỷ đồng, tăng 1,3% so tháng trước và giảm 48,4% so cùng kỳ. Tám tháng thực hiện 1.138 tỷ đồng, giảm 14,3% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 282 tỷ đồng, giảm 25,3%; doanh thu vận tải hàng hóa thực hiện 736 tỷ đồng, giảm 9,5% so cùng kỳ. Doanh thu vận tải đường bộ thực hiện 537 tỷ đồng, giảm 15,8%; doanh thu vận tải đường thủy thực hiện 480 tỷ đồng, giảm 13,1%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 121 tỷ đồng, giảm 12,1% so cùng kỳ. Vận tải hành khách trong tháng đạt 458 ngàn hành khách, giảm 18,4% so tháng trước; luân chuyển 2.238 ngàn hành khách.km, giảm 13,8% so tháng trước. Tám tháng, vận chuyển 16.610 ngàn hành khách, giảm 27,6% so cùng kỳ; luân chuyển 301.976 ngàn hành khách.km, giảm 23,8% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 7.785 ngàn hành khách, giảm 20,1% và luân chuyển 289.999 ngàn hành khách.km, giảm 23% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 8.825 ngàn hành khách, giảm 33,1% và luân chuyển 11.977 ngàn hành khách.km, giảm 38,9% so cùng kỳ. Vận tải hàng hóa trong tháng đạt 689 ngàn tấn, tăng 2,3% so tháng trước và giảm 24,5% so cùng kỳ; luân chuyển 96.763 ngàn tấn.km, tăng 2,5% so tháng trước và giảm 8,3% so cùng kỳ. Tám tháng, vận tải 7.036 ngàn tấn hàng hóa, giảm 7,7% so cùng kỳ; luân chuyển 907.918 ngàn tấn.km, giảm 8,3% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 1.665 ngàn tấn, tăng 0,3% và luân chuyển 176.241 ngàn tấn.km, giảm 13,3% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 5.371 ngàn tấn, giảm 9,9% và luân chuyển 731.677 ngàn tấn.km, giảm 7% so cùng kỳ. Doanh thu, sản lượng vận chuyển, luân chuyển hàng hoá và hành khách ước tính tháng 8/2021 so với tháng trước giảm, do ảnh hưởng đợt bùng phát đại dịch bệnh COVID-19 lần thứ 4 kéo dài, gây ảnh hưởng nặng nề đến tình hình sản xuất, kinh doanh của 19 tỉnh, thành phía Nam, trong đó có tỉnh Tiền Giang, dẫn đến kết quả hoạt động vận tải, kho bãi trong tháng giảm mạnh. * Công tác quản lý phương tiện giao thông: Trong tháng đăng ký mới 52 chiếc ô tô. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.350.328 chiếc, trong đó mô tô xe máy: 1.308.634 chiếc, xe ô tô 40.925 chiếc, xe ba bánh 152 chiếc, xe đạp điện 183 chiếc và 434 xe khác. 6. Bưu chính viễn thông: Doanh thu trong tháng 8/2021 đạt 273 tỷ đồng, tăng 1,3% so tháng trước và tăng 3,7% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt25 tỷ đồng, tăng 0,6% và viễn thông 249 tỷ đồng, tăng 1,4% so tháng trước. Tám tháng doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 2.124 tỷ đồng, tăng 5,1% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 188 tỷ đồng, tăng 13,8% và viễn thông 1.936 tỷ đồng, tăng 4,4% so cùng kỳ. Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 8/2021 là 98.182 thuê bao, mật độ bình quân đạt 5,6 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Thuê bao internet có trên mạng cuối tháng 8/2021 là 279.952 thuê bao, mật độ internet bình quân đạt 15,9 thuê bao/100 dân. Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa dẫn đến khách hàng dần chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 8 năm 2021 là 98.182 thuê bao. Thuê bao điện thoại bình quân đạt 5,57 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Số thuê bao điện thoại di động có sử dụng internet (3G, 4G) đến cuối tháng 7/2021 là 1.366.583 thuê bao. V.TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG 1. Tài chính: Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn trong tháng thực hiện 405 tỷ đồng; trong đó: thu nội địa 385 tỷ đồng. Tám tháng, thu 6.409 tỷ đồng, đạt 60,4% kế hoạch, giảm 6,4% so cùng kỳ; trong đó: thu nội địa thực hiện 6.122,4 tỷ đồng, đạt 59,2% dự toán và giảm 8,6% so cùng kỳ; (trong thu nội địa: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.027,7 tỷ đồng, đạt 58,8% dự toán, giảm 9,9% so cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 694,8 tỷ đồng, đạt 49,6% dự toán, giảm 10,7% so cùng kỳ...). Tổng chi ngân sách nhà nước trong tháng 935 tỷ đồng; trong đó: chi đầu tư phát triển 300 tỷ đồng. Tám tháng, chi 7.378 tỷ đồng, đạt 60,2% dự toán, giảm 38,8% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 2.076,8 tỷ đồng, đạt 56,1% dự toán, giảm 42,9% so cùng kỳ; chi hành chính sự nghiệp 3.627,6 tỷ đồng, đạt 52,8% dự toán và giảm 21,9% so cùng kỳ. 2. Ngân hàng: Các tổ chức tính dụng chấp hành nghiêm mức trần lãi suất theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh, đến cuối tháng 7/2021, lãi suất cho vay phổ biến ở mức trên 4,5% - 9%/năm đối với ngắn hạn và trên 11% -13%/năm đối với trung dài hạn. Đến cuối tháng 7/2021, vốn huy động đạt 77.225 tỷ đồng, tăng 1,85% so với cuối năm 2020, tăng bình quân 0,27%/tháng; tổng dư nợ toàn tỉnh đạt 70.499 tỷ đồng, tăng 9,64% so với cuối năm 2020, tăng bình quân 1,33%/tháng. Ước đến cuối tháng 8/2021, nguồn vốn huy động đạt 77.373 tỷ đồng, tăng 2,01%; tổng dư nợ đạt 70.520 tỷ đồng, tăng 9,67% so với cuối năm 2020. Nợ xấu: ước đến cuối tháng 8/2021, nợ xấu là 762 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,08%, giảm 0,02% so với cuối năm 2020, tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp, nằm trong sự kiểm soát, có chuyển biến tích cực theo chiều hướng giảm. VI. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Trong tháng, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành quyết định công nhận kết quả thực hiện 01 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh và gia hạn 01 nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở. - Ban hành quyết định phê duyệt danh mục nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp cơ sở triển khai năm 2021-2022. - Ban hành thông báo chuẩn bị hồ sơ đăng ký tham gia giao trực tiếp nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp cơ sở triển khai năm 2021 - 2022. Đến tháng 8/2021, thẩm định nội dung 13 nhiệm vụ ( 06 cấp tỉnh, 07 cấp cơ sở); nghiệm thu kết thúc 08 nhiệm vụ (07 cấp tỉnh , 01 cấp cơ sở); nghiệm thu giai đoạn 14 nhiệm vụ (07 cấp tỉnh, 07 cấp cơ sở); Quyết định triển khai 16 nhiệm vụ (09 cấp tỉnh, 07 cấp cơ sở); Quyết định công nhận 13 nhiệm vụ (10 cấp tỉnh, 03 cấp cơ sở); Gia hạn 05 nhiệm vụ KH&CN (03 cấp tỉnh, 02 cấp cơ sở). VII. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Lao động việc làm: Tình dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp và khó lường, Tiền Giang đã và đang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg, gần như toàn bộ các doanh nghiệp đã tạm dừng hoạt động hoặc tạm dừng hoạt động một số bộ phận, ảnh hưởng tiêu cực đến đại đa số người lao động trên địa bàn tỉnh. Trong tháng, tư vấn việc làm cho 510 lượt lao động, giảm 89,4% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó: tư vấn nghề cho 01 lượt lao động, tư vấn việc làm 01 lượt lao động, tư vấn việc làm cho 508 lượt lao động thất nghiệp; giới thiệu việc làm cho lao động không phát sinh, giảm 442 lượt lao động. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng: tư vấn cho 02 lao động có nguyện vọng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, giảm 97,2% so với cùng kỳ năm 2020, có 02 lao động đăng ký tham gia, tăng 50%; lao động xuất cảnh không phát sinh. Giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp: tiếp nhận được 508 người đăng ký thất nghiệp, giảm 81,7% so với cùng kỳ năm 2020, cơ quan chức năng đã ban hành 1.294 quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 53,1%, với tổng số tiền chi trả tương đương 23 tỷ đồng, giảm gần 25,2 tỷ đồng, tương đương giảm 52,2%; thực hiện tư vấn, giới thiệu việc làm và tư vấn học nghề cho 432 lượt lao động thất nghiệp. Ngoài ra, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành 05 quyết định phê duyệt danh sách và kinh phí hỗ trợ cho 237 người lao động không có giao kết hợp đồng lao động (lao động tự do) bị mất việc làm của huyện Gò Công Tây với tổng số tiền gần 356 triệu đồng (mức hỗ trợ 1.500.000 đồng/người); 3.634 người bán lẻ xổ số lưu động của huyện Gò Công Tây (1.270 người), Chợ Gạo (1.467 người) và thị xã Cai Lậy (897 người) với tổng số tiền 5.451 triệu đồng (mức hỗ trợ 1.500.000 đồng/người). Riêng Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã tiếp nhận hồ sơ và đang phối hợp, đề nghị các ngành liên quan xem xét, có ý kiến hỗ trợ 16 người lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động của 01 doanh nghiệp với tổng số tiền đề nghị hỗ trợ gần 64,4 triệu đồng (mức hỗ trợ 3.710.000 đồng/người, và có 05 người được hỗ trợ thêm nuôi con nhỏ chưa đủ 6 tuổi là 1.000.000 đồng/bé). 2. Chính sách xã hội: Trong tháng, quỹ đền ơn đáp nghĩa vận động được gần 288,7 triệu đồng, lũy kế từ đầu năm vận động được 4,3 tỷ đồng đạt 43%, giảm 30% so với cùng kỳ năm 2020, xây dựng 05 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 200 triệu đồng đạt 12% kế hoạch năm, lũy kế từ đầu năm xây dựng được 20 căn nhà tình nghĩa với tổng số tiền 800 triệu đồng đạt 16% kế hoạch năm, giảm 55% so với cùng kỳ năm 2020; sửa chữa 20 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 400 triệu đồng, lũy kế từ đầu năm xây dựng 36 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 720 triệu đồng đạt 72% kế hoạch năm, giảm 22% so với cùng kỳ năm 2020. Ngoài ra, cơ quan chức năng đã tặng quà và trợ cấp cho gia đình chính sách nhân kỷ niệm 74 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7, bao gồm quà của Chủ tịch Nước 36.531 người với số tiền hơn 11,1 tỷ đồng; trợ cấp của địa phương 51.938 người, với số tiền gần 8,3 tỷ đồng. 3. Hoạt động y tế: Theo báo cáo Sở Y tế, tính đến ngày 15/8/2021 toàn tỉnh có 149 ổ dịch với tổng số 5.955 bệnh nhân, 3.326 F1, 5.642 F2 (trong đó có 3.241 bệnh nhân được Bộ Y tế công bố mã số, các bệnh nhân còn lại đang chờ Bộ Y tế cấp mã số); điều trị khỏi 2.698 bệnh nhân; đã tử vong 141 bệnh nhân. Trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19, Tiền Giang tiếp tục thực hiện cách ly toàn xã hội toàn tỉnh theo Chỉ thị 16/CT-TTg trong tháng 8 và phong tỏa Thành phố Mỹ Tho với 3 khu vực dự kiến trong vòng 10 ngày, khu vực I gồm Phường 2, Phường 3, Phường 8, Ấp Mỹ An – xã Mỹ Phong với 10.378 hộ, 34.550 nhân khẩu, kể từ 0h ngày 18/08/2021; khu vực II gồm Phường 1, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7 với 17.922 hộ, 72.697 nhân khẩu, kể từ 0h ngày 19/08/2021; khu vực III gồm các địa bàn còn lại với các khu nguy cơ rất cao hoặc xuất hiện F0 qua tầm soát, kể từ 0h ngày 20/08/2021. Thành lập 06 Bệnh viện Dã chiến để điều trị bệnh nhân Covid-19 (12 cơ sở) quy mô 2.760 giường, khả năng mở rộng tối đa đến 3.150 giường. Đang triển khai Bệnh viện dã chiến số 07 (Trường Đại học Tiền Giang) với quy mô 3.000 giường để điều trị bệnh nhân nhiễm Covid-19 không triệu chứng, không bệnh nền. Để điều trị các bệnh nhân COVID-19 nặng, nguy kịch, tỉnh đã triển khai Trung tâm Hồi sức (ICU) COVID-19 quy mô 60 giường (khả năng mở rộng đến 100 giường). Tại các Bệnh viện tuyến tỉnh (03 bệnh viện) có 60 giường điều trị bệnh nhân COVID-19 (mỗi đơn vị 20 giường); 11 Trung tâm Y tế (13 cơ sở) có 130 giường điều trị bệnh nhân COVID-19 (mỗi đơn vị 10 giường), chủ yếu thu dung điều trị các trường hợp không triệu chứng, nhẹ, trung bình để giảm tải cho các Bệnh viện Dã chiến. Tiêm ngừa vắc xin COVID-19: Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang đã ban hành Kế hoạch Tiêm vaccine phòng COVID-19 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2021-2022: ước tính số lượng vaccine cần cho giai đoạn 2021-2022 là 1.371.674 liều; từ tháng 04 /2021 đến tháng 7/2021, tỉnh đã nhận 04 đợt phân bố vaccine phòng COVID-19 từ Bộ Y tế (loại AstraZeneca) với 83.220 liều, đã tổ chức tiêm đạt 99,1%; số lượng vaccine nhận từ đầu tháng 8/2021: 166.410 liều, số người đã được tiêm vaccine đến 12/8/2021: 77.679 người, tỷ lệ 46,7%; theo Công văn số 5946/BYT-DP ngày 24/7/2021 của Bộ Y tế, từ tháng 8/2021 đến tháng 12/2021 số vaccine phòng COVID-19 dự kiến phân bố cho Tiền Giang là 2.219.628 liều. Cũng trong tháng Tám, có 07/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận. So với cộng dồn cùng kỳ năm trước có 04 bệnh tăng (tay chân miệng, viêm gan siêu vi B, viêm não do vi rút, Covid-19); 13 bệnh giảm (liên cầu lợn ở người, ho gà, lao phổi, lỵ a míp, quai bị, sởi, sốt xuất huyết, thương hàn, thủy đậu, tiêu chảy, uốn ván khác, viêm gan siêu vi A, viêm gan siêu vi C); 27 bệnh tương đương và hoặc không xảy ra ca mắc; Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết trong tháng ghi nhận 159 ca mắc SXHD, từ đầu năm đến nay ghi nhận 1.658 ca, giảm 1,7% so với cùng kỳ, Không ghi nhận ca tử vong do SXHD; Phòng chống HIV/AIDS: Tính đến thời điểm hiện tại toàn tỉnh có 5.935 người nhiễm HIV; 1.805 người chuyển sang AIDS; tử vong do AIDS: 997 người; Tình hình khám chữa bệnh tại các tuyến do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 một số cơ sở tạm ngưng tiếp nhận bệnh nhân do chuyển đổi công năng để tập trung điều trị bệnh nhân Covid-19 cũng như phải cách ly phong tỏa để phòng chống dịch bệnh ảnh hưởng đến công tác khám, chữa bệnh trên địa bàn, số lượng bệnh đến khám bệnh đều giảm nhiều giảm so với cùng kỳ năm 2020: Tổng số lần khám bệnh trong tháng đạt 162.298 lần, giảm 62,9%; Tổng số người điều trị nội trú đạt 9.323 người, giảm 57,8%. Công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong tháng đạt 38,97%. 4. Hoạt động giáo dục: Ngành Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức thi tốt nghiệp THPT năm 2021 đợt 2 vào các ngày 06, 07 tháng 8 (đợt 1 vào ngày 07, 08 tháng 7), chấm thi đợt 2 tốt nghiệp THPT năm 2021 từ ngày 07/8/2021 đến ngày 10/8/2021 và phúc khảo bài thi Kỳ thi Tốt nghiệp THPT năm 2021 từ ngày 12/8/2021. Hướng dẫn thí sinh điều chỉnh nguyện vọng xét tuyển vào đại học, cao đẳng năm 2021. Hoàn thành việc tải dữ liệu thông tin văn bằng tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2018, 2019, 2020 lên hệ thống tra cứu văn bằng của Bộ GDĐT theo quy định. 5. Hoạt động văn hóa - thể thao: Trong tháng 8/2021, do tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp nên các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao đông người của tiếp tục tạm dừng để tập trung công tác tuyên truyền như: Đài Phát thanh huyện và cấp xã truyền thanh để Nhân dân được biết (mỗi ngày ít nhất 3 lượt), tổ chức 132 lượt xe loa tuyên truyền (bao gồm xe chuyên dụng và xe máy gắn loa di động). 6. Tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội: (Theo báo cáo ngành công an) Tội phạm về trật tự xã hội trong tháng ghi nhận 69 vụ (giảm 49 vụ so với liền kề, giảm 67 vụ so với cùng kỳ), bị thương 08 người, tài sản thiệt hại khoảng 1,9 tỷ đồng; đa số các loại tội phạm đều giảm, xảy ra chủ yếu là hành vi cố ý gây thương tích, trộm cắp và hủy hoại tài sản,... Điều tra khám phá bước đầu đạt tỷ lệ 75,4% (52 vụ), bắt xử lý 75 đối tượng, thu hồi tài sản khoảng 200 triệu đồng. Phát hiện, xử lý 19 tụ điểm cờ bạc, 76 đối tượng liên quan (tiến hành khởi tố 04 vụ, 15 bị can về hành vi đánh bạc và tổ chức đánh bạc); 29 vụ, 32 đối tượng phạm tội về ma túy và xử lý vi phạm hành chính 114 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; 03 vụ, 04 đối tượng có hành vi buôn bán, buôn bán hàng cấm, thu giữ 13.240 bao thuốc lá điếu nhập lậu (khởi tố vụ án 01 vụ, 01 bị can) và xử lý hành chính 03 trường hợp vi phạm pháp luật trật tự quản lý kinh tế. 7. Trật tự an toàn giao thông: (Theo báo cáo ngành công an) Giao thông đường bộ: Trong tháng, trên địa bàn tỉnh xảy ra 36 vụ tai nạn giao thông, làm chết 19 người, bị thương 21 người; So với tháng trước, tai nạn giao thông (-13 vụ), chết (-08 người), bị thương (-02 người); So cùng kỳ năm trước, tai nạn giao thông tương đương, chết (-02 người), bị thương (+01 người). Tổng số vụ tai nạn giao thông đường bộ từ đầu năm 2021 đến nay là 409 vụ, làm 196 người chết, làm 271 người bị thương; So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông đường bộ về số vụ (+175 vụ), chết (+52 người), bị thương (+148 người). Giao thông đường thủy: Trong tháng không xảy ra vụ tai nạn, tương đương so tháng trước và cùng kỳ. Tính từ đầu năm đến nay xảy ra 03 vụ, giảm 02 vụ so cùng kỳ, số người chết và bị thương không phát sinh, tương đương so cùng kỳ. 8. Tình hình cháy nổ, môi trường: Trong tháng, tình hình cháy nổ trên địa bàn đã xảy ra 04 vụ, trong đó có 01 vụ nổ, 03 vụ cháy nhà dân, làm chết 01 người, ước giá trị thiệt hại tài sản là 56 triệu đồng, nguyên nhân 01 vụ do chập điện, 01 vụ do đốt, 02 vụ đang điều tra. Về lĩnh vực môi trường, cơ quan chức năng đã ban hành 19 quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền gần 215 triệu đồng, lỗi vi phạm: khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường không giấy phép. Thiên tai xả ra trong tháng Tám là 03 vụ lốc xoáy với 33 căn nhà bị tốc mái và 34 điểm đê bị sạt lở, ngã đổ và gãy cành 175 cây, gãy 01 trụ điện và 01 trụ phát thanh xã. Ước tổng giá trị thiệt hại trên 36,1 tỷ đồng.
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang 7 tháng đầu năm 2021
- 18/06/2024 16:10
Trong tháng 7, trên địa bàn tỉnh dịch Covid -19 tiếp tục diễn biến phức tạp, số ca nhiễm hiện nay tăng, đã đặt ra không ít thách thức trong công tác quản lý, điều hành để phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Với sự lãnh đạo toàn diện, trọng tâm của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã đề ra các giải pháp kịp thời nhằm giảm thiểu tác động của dịch bệnh Covid-19, vượt qua khó khăn, tận dụng thời cơ để sớm phục hồi, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Kết quả thực hiện trên các lĩnh vực như sau: I. SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN 1. Nông nghiệp Cây lương thực có hạt: trong tháng gieo trồng 15.136 ha, thu hoạch 378 ha với sản lượng 1.367 tấn; ước tính đến cuối tháng 7/2021, gieo trồng được 128.273 ha, đạt 95,8% kế hoạch, giảm 5,8% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch 526.059 tấn; trong đó: cây lúa gieo sạ 126.375 ha, thu hoạch 76.552 ha, sản lượng 519.904 tấn. - Cây lúa: Vụ Hè Thu (gồm Xuân Hè và Hè Thu): trong tháng gieo trồng 14.872 ha, nâng diện tích gieo trồng 74.728 ha, diện tích thu hoạch chủ yếu là lúa vụ Xuân Hè 24.905 ha tăng 8,7% so cùng kỳ, năng suất ước đạt 61,3 tạ/ha, giảm 1,1% so cùng kỳ; sản lượng 152.715 tấn, tăng 7,5% so cùng kỳ, do diện tích thu hoạch tăng. - Cây ngô: trong tháng gieo trồng 264 ha, thu hoạch 378 ha với sản lượng 1.367 tấn. Đến nay gieo trồng được 1.898 ha, đạt 54,2% kế hoạch, giảm 35,8% so cùng kỳ, thu hoạch 1.725 ha, năng suất quy thóc 35,7 tạ/ha với sản lượng quy thóc 6.155 tấn, đạt 48,5% kế hoạch, giảm 31% so cùng kỳ do chịu ảnh hưởng một phần hạn mặn kéo dài và chuyển đổi sang trồng cây thanh long và một số cây ăn quả khác. Cây rau đậu các loại: trong tháng gieo trồng 5.366 ha, thu hoạch 3.879 ha với sản lượng 78.558 tấn. Đến nay gieo trồng được 47.246 ha, đạt 75,7% kế hoạch, tăng 11,4% so cùng kỳ, thu hoạch 39.097 ha với sản lượng 773.604 tấn, đạt 64% kế hoạch, tăng 5,4% so cùng kỳ (trong đó: rau các loại 47.033 ha, thu hoạch 38.950 ha với sản lượng 773.148 tấn) so cùng kỳ, do nông dân tăng cường ứng dụng khoa học- kỹ thuật trong sản xuất, mở rộng quy mô trồng rau trong nhà lưới kiểm soát được sâu bệnh, nhiều loại giống mới được đưa vào sản xuất. Đồng thời nông dân Tiền Giang đang phát triển nhiều mô hình trồng rau màu: chuyên canh, luân canh trên nền đất lúa, xen canh lúa và màu… Chăn nuôi: ước thời điểm 01/07/2021 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 121,2 ngàn con, tăng 2,4%; đàn lợn 279,4 ngàn con, giảm 4,9%; đàn gia cầm (không kể chim cút) 17,8 triệu con, tăng 8,6% so cùng kỳ. Chăn nuôi lợn giảm so cùng kỳ do dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang diễn biến phức tạp, dịch vụ vận tải đã ngừng hoạt động, vì vậy khâu tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi gặp rất nhiều khó khăn bên cạch đó, giá thức ăn tăng cao, giá thịt lợn hơi thường xuyên liên tục biến động, người chăn nuôi không dự đoán được thị trường nên rất lo lắng khi tái đàn. 2. Lâm nghiệp: Tổng diện tích rừng hiện có trên địa bàn tỉnh Tiền Giang là 1.928,2 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng), cụ thể: 1.337,4 ha rừng phòng hộ và 590,8 ha rừng sản xuất.Ước đến hết tháng 7/2021 toàn tỉnh thực hiện trồng mới được 290,4 ngàn cây phân tán, nâng tổng số cây trồng 359,5 ngàn cây, so với cùng kỳ giảm 4,2%. Những cây trồng mới chủ yếu là cây xà cừ, bạch đàn, tràm bông vàng lấy bóng mát để chắn gió, bụi cặp theo các tuyến đường đi, tuyến kênh, đê ở huyện Tân Phước, Chợ Gạo và Gò Công Đông. 3. Thủy hải sản: Diện tích nuôi thủy sản các loại trong tháng 307 ha tăng 1% so cùng kỳ; ước đến tháng 7/2021 toàn tỉnh thả nuôi được 13.520 ha, đạt 89% kế hoạch và tăng 0,5% so cùng kỳ; Nuôi thủy sản nước ngọt trong 7 tháng đầu năm tỉnh thả nuôi được 4.078 ha, so cùng kỳ tăng 0,3%, nguyên nhân tăng là do ít bị ảnh hưởng hạn mặn kết hợp với mực nước nội đồng đủ nước nên các hộ tiến hành thả nuôi; Nuôi thủy sản mặn, lợ ước tính đến tháng 7 toàn tỉnh nuôi được 9.442 ha, tăng 0,5% so cùng kỳ, diện tích tăng chủ yếu là nuôi tôm sú nuôi quảng canh và nuôi tôm thẻ chân trắng do độ mặn và thời tiết thích hợp thả giống, các hộ nuôi tôm thâm canh và quảng canh cải tiến rất thận trọng trong việc chọn mua giống. Sản lượng thủy sản trong tháng ước tính thu hoạch 38.782 tấn, tăng 1,6% so cùng kỳ. Bảy tháng đầu năm thu hoạch 183.454 tấn, đạt 62,5% kế hoạch, tăng 2,8% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 97.161 tấn, đạt 59,7% kế hoạch, tăng 2,1% so cùng kỳ; sản lượng khai thác 86.293 tấn, đạt 66% kế hoạch, tăng 3,6% so cùng kỳ. II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7/2021 giảm 0,4% so với tháng trước (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,04%, sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 5,6%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,6%) và tăng 3,3% so cùng kỳ. Các ngành chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh sản xuất tăng hơn so cùng kỳ, trong đó: Sản xuất đồ uống tăng 19,6%; Sản xuất trang phục tăng 39,5; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 36,9%... Chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng đầu năm 2021 tăng 3,1% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,1%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 5,6%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 3,2%. * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: - Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 7/2021 so với tháng trước giảm 0,04% và giảm 10,1% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 7 năm 2021 giảm 7,3%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất đồ uống tăng 10,1%, trong đó sản xuất bia tăng 10,1%; Dệt tăng 9,2%, trong đó sản xuất hàng may sẳn tăng 40,3%; Sản xuất trang phục tăng 10,3%; Sản xuất da tăng 13,3%, trong đó sản xuất giày dép tăng 2,1%;… Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 15,5%, trong đó chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản giảm 29,4%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 10,4%; Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 5,6%; Sản xuất sản phẩm cao su và plastic giảm 11,85%;… - Chỉ số tồn kho tháng 7/2021 so với tháng trước tăng 5,2% và so với cùng kỳ giảm 3,4%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 11,4%, trong đó sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 50,6%; Sản xuất đồ uống tăng 3,3%, trong đó sản xuất bia tăng 3,3%; Sản xuất da tăng 28,1%, trong đó sản xuất va li, túi xách tăng 50,4%; Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 32,2%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 41,3%; ... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ: Dệt giảm 0,9%, trong đó sản xuất sợi giảm 61,4%; Sản xuất trang phục giảm 2,7%; Sản xuất kim loại giảm 39,9%; Sản xuất thiết bị điện giảm 36,3%, trong đó sản xuất mô tơ điện giảm 38,3%; … * Tình hình thu hút đầu tư và phát triển các khu - cụm công nghiệp: - Khu công nghiệp: đến nay tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương quy hoạch 7 khu công nghiệp với tổng diện tích 2.083,5 ha; trong đó có 4 khu công nghiệp đi vào hoạt động. Trong tháng, Ban Quản lý các khu công nghiệp không cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới. Điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 04 lượt dự án tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, trong đó có 02 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn đầu tư với tổng vốn đầu tư tăng là 5,8 triệu USD.Đến cuối tháng 7/2021, tổng số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp là 107 dự án, trong đó: có 78 dự án đầu tư nước ngoài; tổng vốn đầu tư là 2,5 tỷ USD và 4.575,8 tỷ đồng. Diện tích cho thuê của các doanh nghiệp đạt 571 ha/770 ha, chiếm tỷ lệ 74,1% diện tích các khu công nghiệp đang cho thuê. - Cụm công nghiệp: trên địa bàn tỉnh có 27 cụm công nghiệp được quy hoạch; trong đó có 4 cụm công nghiệp đang hoạt động. Trong tháng không thu hút dự án đầu tư mới. Tổng số dự án đầu tư tại các cụm công nghiệp hiện nay là 79 dự án (trong đó: có 6 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 0,2 tỷ USD và 2.306 tỷ đồng, diện tích thuê đất là 89,7/120,6 ha, tỷ lệ lắp đầy đạt 74,5%. III. ĐẦU TƯ - XÂY DỰNG Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện trong tháng là 291 tỷ đồng, giảm 44,4% so cùng kỳ. Bảy tháng đầu năm 2021 thực hiện 1.716 tỷ đồng, đạt 46,8% kế hoạch, giảm 17,2% so cùng kỳ. Ngay từ đầu năm Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các sở, ngành, UBND các huyện, thành phố, thị xã như: Tuyên truyền rộng rãi về việc triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ các nhóm đối tượng gặp khó khăn do dịch Covid-19, đẩy nhanh tiến độ đầu tư công, nhất là các công trình sạt lở; hỗ trợ nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ, sớm hoàn thành, đưa dự án vào sử dụng. Từ đầu năm các Ban quản lý dự án, chủ đầu tư tập trung triển khai các công trình chuyển tiếp, đồng thời hoàn chỉnh hồ sơ, đấu thầu đưa vào khởi công các công trình mới theo Nghị quyết 39/NQ-HĐND ngày 10/12/2020 của Hội Đồng Nhân Dân tỉnh. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh thực hiện 1.304 tỷ đồng, giảm 16,8% so cùng kỳ, chiếm 76% tổng số; trong đó: vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 243 tỷ đồng, giảm 16%, vốn xổ số kiến thiết thực hiện 673 tỷ đồng, giảm 9,4% so cùng kỳ... Các ngành các cấp yêu cầu các Ban quản lý dự án, Chủ đầu tư tập trung với cường độ cao hơn trong tổ chức thực hiện sau thời điểm giãn cách xã hội, đồng thời ưu tiên đẩy nhanh tiến độ đầu tư công, kể cả tiến độ giải ngân nhằm phát triển kinh tế - xã hội do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện 313 tỷ đồng, giảm 17,5% so cùng kỳ, chiếm 18,3% tổng số; trong đó: vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 158 tỷ đồng, giảm 12,7% so cùng kỳ... Hiện nay nguồn vốn đầu tư của huyện, thành phố, thị xã thực hiện chủ yếu nguồn vốn phân cấp, tập trung cho các công trình, dự án giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới nên khối lượng thực hiện không nhiều. Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp xã thực hiện 99 tỷ đồng, giảm 22,1% so cùng kỳ, chiếm 5,7% tổng số; trong đó: vốn huyện hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 67 tỷ đồng, giảm 25% so cùng kỳ... Đối với các công trình do Ban quản lý công trình xã làm chủ đầu tư thực hiện chủ yếu từ nguồn vốn phân cấp để thực hiện các công trình giao thông nông thôn, thủy lợi nội đồng phục vụ địa phương. Ngoài ra các ngành các cấp đẩy nhanh tiến độ thẩm định hồ sơ xây dựng cơ bản của các xã nông thôn mới từ nguồn vốn thủy lợi phí, vốn phân cấp... để tiến hành giải ngân. IV. THƯƠNG MẠI - GIÁ CẢ - DỊCH VỤ 1. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng: Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong tháng thực hiện 4.230 tỷ đồng, giảm 13,5% so tháng trước và giảm 20,8% so cùng kỳ. Bảy tháng đầu năm 2021, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thực hiện 37.425 tỷ đồng, đạt 53,3% kế hoạch, tăng 9,2% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 30.690 tỷ đồng, tăng 10,3%; lưu trú 18 tỷ đồng, giảm 46,9%; ăn uống 3.061 tỷ đồng, tương đương cùng kỳ; du lịch lữ hành 5,7 tỷ đồng, giảm 75,6%; dịch vụ tiêu dùng khác 3.649 tỷ đồng, tăng 10,5% so cùng kỳ.Hiện nay, tình hình Covid-19 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang tiếp tục diễn biến phức tạp, số lượng ca dương tính với Covid-19 liên tục được phát hiện, có 10/11 huyện thành thị có ca dương tính, gây tâm lý hoang mang cho người tiêu dùng. Có 10/11 huyện, thành, thị thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ từ ngày 12/7/2021, đến ngày 19/7 có 11/11 huyện thực hiện CT16/TTg các biện pháp tăng cường kiểm tra tình hình dịch bệnh được các ngành các cấp áp dụng chặt chẽ và nghiêm ngặt. Người dân được yêu cầu ở tại nhà, chỉ ra ngoài khi thật sự cần thiết, khi đi ra đường phải mang theo các loại giấy tờ tùy thân và giấy tờ khác để chứng minh ra khỏi nhà trong trường hợp thật sự cần thiết. 2. Xuất - Nhập khẩu: a. Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng thực hiện 260 triệu USD; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 28,4 triệu USD, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 231 triệu USD. Bảy tháng xuất khẩu 1.976,7 triệu USD, đạt 60,8% kế hoạch, tăng 21% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 4,2 triệu USD, giảm 79,9%; kinh tế ngoài nhà nước 288,7 triệu USD, giảm 16,7%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.683,8 triệu USD, tăng 32,9% so cùng kỳ. Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của tỉnh như sau: - Thủy sản: ước tính tháng 7/2021 xuất 3.153 tấn, với trị giá 6,7 triệu USD. Bảy tháng xuất 51.617 tấn, giảm 18,8%; giá trị xuất 113,2 triệu USD, đạt 35,4% kế hoạch, giảm 26,7% so cùng kỳ. - Gạo: ước tính tháng 7/2021 xuất 11.216 tấn, với giá trị 6,9 triệu USD. Bảy tháng xuất 78.382 tấn, giảm 46,1%; giá trị xuất 44,9 triệu USD, đạt 32,1% kế hoạch, giảm 39,9% so cùng kỳ. Philippines - thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất từ Việt Nam đang chậm lại do gạo Việt Nam đang chịu áp lực cạnh tranh từ gạo giá rẻ của Ấn Độ và việc doanh nghiệp Việt Nam nhập gạo giá rẻ từ Ấn Độ, họ cho rằng sẽ gây tác động đến xuất khẩu gạo Việt Nam, bởi tâm lý của bên nhập khẩu họ băn khoăn tại sao Việt Nam nhập gạo Ấn Độ, từ đó, người ta cũng không muốn mua gạo Việt Nam. Điều này có những tác động đáng kể lên thị trường lúa gạo nội địa trong thời điểm hiện nay. - Hàng dệt, may: ước tính tháng 7/2021 xuất 8.634 ngàn sản phẩm, với giá trị 43,8 triệu USD. Bảy tháng xuất 90.707 ngàn sản phẩm, giảm 37,2%; giá trị xuất 305,5 triệu USD, đạt 51% kế hoạch, tương đương so cùng kỳ. - Kim loại thường và sản phẩm (kể cả đồng): ước tính tháng 7/2021 xuất 7.050 tấn, với giá trị 74,2 triệu USD. Bảy tháng xuất 54.094 tấn, tăng 2,8%; giá trị xuất 502 triệu USD, tăng 46,4% so cùng kỳ. Nếu tình hình dịch bệnh Covid-19 được khống chế tốt thì ngành sản xuất kim loại sẽ tăng mạnh trong thời gian tới do Công ty Trách nhiệm hữu hạn gia công Đồng Hải Lượng là doanh nghiệp xuất nhập khẩu ống đồng và linh kiện lớn, hợp tác kinh doanh lâu dài với hơn 800 khách hàng ở trên toàn thế giới và với 188 quốc gia. Ngoài các mặt hàng chủ yếu, trị giá xuất khẩu một số mặt hàng trong 7 tháng đầu năm 2021 có giá trị xuất khẩu tăng cao như: Giày dép các loại 356,5 triệu USD, tăng 39,8%; Kim loại thường và sp (kể cả đồng) 502 triệu USD tăng 46,4%; Xơ, sợi dệt các loại 61 triệu USD, tăng 64,4%... so cùng kỳ. b. Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng 7/2021 đạt 132,9 triệu USD. Bảy tháng, kim ngạch nhập khẩu 1.136,8 triệu USD, đạt 63,2% kế hoạch, tăng 35,1% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước nhập khẩu 59,1 triệu USD, tăng 13,1%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập 1.077,6 triệu USD, tăng 36,5% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu 7 tháng chủ yếu các mặt hàng như kim loại thường khác 425,6 triệu USD, tăng 31,2%; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 228,6 triệu USD, tăng 69,6%; vải các loại 134,7 triệu USD, tăng 22,8%... so cùng kỳ. 3. Chỉ số giá: Tình hình dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh diễn biến phức tạp, đến ngày 26/7/2021 có 11/11 huyện có ca dương tính trong cộng đồng đã gây tâm lý hoang mang cho người tiêu dùng. Toàn tỉnh thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ từ ngày 12/7/2021. Các cơ sở kinh doanh ăn uống, giải khát mang về, nhà nghỉ, khách sạn, các loại hàng hóa, dịch vụ không thiết yếu tạm dừng hoạt động từ ngày 12/7/2021. Đến ngày 14/7/2021 có 25 chợ bị phong tỏa phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19; Ngoài một số chợ truyền thống, các siêu thị, cửa hàng tiện ích hoạt động bình thường và bán hàng bằng các hình thức như: Bán hàng qua điện thoại; Giao hàng tận nơi cho khách hàng... được đẩy mạnh, vì vậy sức mua hàng qua điện thoại, online tăng 30 - 40% là cho giá tăng, sức mua tại các chợ truyền thống giảm từ 20 - 30% so với những ngày bình thường. Mặc khác do giá dầu thế giới luôn biến động tăng tác động làm chỉ số giá tháng 7 tăng. Từ những nguyên nhân trên, tác động đến (CPI) tháng 7/2021 tăng 0,97% so tháng 6/2021(thành thị tăng 0,85%, nông thôn tăng 1%); so cùng kỳ tăng 4,08%. CPI bình quân bảy tháng đầu năm 2021 so cùng kỳ tăng 2,73%. So với tháng 6/2021, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 6 nhóm tăng: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,48% (trong đó lương thực tăng 0,85%, thực phẩm tăng 2,21% và ăn uống ngoài gia đình tăng 0,01%); Đồ uống và thuốc lá tăng 0,32%; May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,11%; Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,78%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,03%; Giao thông tăng 3,2%. Có 3 nhóm giảm: Bưu chính viễn thông giảm 0,12%; Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,03%; và nhóm hàng hoá và dịch vụ khác giảm 0,01%. Nhóm Thuốc, dịch vụ y tế tăng và nhóm Giáo dục có chỉ số giá ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2021 tăng so tháng 6/2021 do: - Giá lương thực tăng 0,85%, thực phẩm tăng 2,21% do tâm lý của người dân thu mua hàng hoá tích trữ tiêu dùng trong mùa dịch bệnh vừa qua, dẫn đến sức mua tăng, giá bán lẻ tăng theo, tác động đến nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng 1,75% so với tháng trước, đóng góp vào mức tăng CPI chung tháng này khoảng 0,52%. - Giá xăng dầu tăng 6,8% so với tháng trước, do sự phục hồi kinh tế thế giới sau các đợt dịch bệnh Covid, nên nhu cầu sử dụng nhiên liệu sản xuất tăng, tác động giá xăng dầu trong nước tăng theo (ngày 26/6 và ngày 12/7/2021), tính chung: xăng A95 tăng 7,06%, xăng sinh học E5 tăng 7,26%, dầu Diezen 0,05S tăng 7,09%, đóng góp vào mức tăng CPI chung khoảng 0,3%. - Giá gas ngày 01/7/2021 tăng 9,24% tương ứng tăng 30.000 đồng/bình 12kg so tháng trước; giá dầu hoả tăng 7,33% tương ứng tăng 1.090 đồng/lít vào 26/6 và ngày 12/7/2021. Tác động nhóm gas và chất đốt tăng 8,62%, đóng góp vào mức tăng CPI chung khoảng 0,12%. - Giá điện sinh hoạt tăng 1,07% do vào mùa hè, nắng nóng; mặc khác do người dân ở nhà nên nhu cầu sử dụng điện nhiều hơn tháng trước (do thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ), dẫn đến giá điện sinh hoạt bình quân trong tháng 7/2021 tăng lên. - Một số mặt hàng thuốc hút giá tăng 0,76% do thực hiện giãn cách xã hội, dẫn đến giao thương hàng hoá khó khăn, giá bán lẻ cho người tiêu dùng tăng nhẹ Bên cạnh đó, một số mặt hàng lương thực thực phẩm có chỉ số giá giảm sâu làm kềm hãm tốc độ tăng trong tháng 7/2021. - Giá thịt lợn giảm 0,12% so với tháng trước, do nguồn cung được phục hồi sau các đợt bệnh dịch tả lợn Châu Phi, mặc khác do nhu cầu tiêu dùng trong nước có giới hạn, dẫn đến giá giảm nhẹ. - Giá sắt thép các loại dùng trong xây dựng giảm bình quân từ 2% -3%, tương ứng giảm từ 300- 500 đồng/kg so với tháng trước, nguyên nhân do dịch bệnh bùng phát, thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16, kinh tế khó khăn, nhu cầu xây dựng giảm so với tháng trước. - Khi xã hội bùng phát dịch bệnh, kinh tế khó khăn, người dân chi tiêu tiết kiệm hơn, dẫn đến giá xe ô tô đã qua sử dụng giảm 0,76%, cùng với đó, điện thoại di động thông minh giảm 0,66%, hoa cây cảnh giảm 1,2%, du lịch trọn gói giảm 0,21% so tháng trước. Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm bình quân trong tháng giảm 1,55%. Hiện nay giá vàng bình quân duy trì ở mức 5.193.000 đồng/chỉ, tăng 231.000 đồng/chỉ so cùng kỳ. Chỉ số giá đô la Mỹ trong nước bình quân trong tháng giảm 0,01%. Hiện nay giá bình quân Đô la Mỹ duy trì ở mức 23.111 đồng/USD, giảm 176 đồng/USD so cùng kỳ. 4. Du lịch: Tính chung bảy tháng đầu năm 2021, lượt khách du lịch đến Tiền Giang là 265,2 ngàn lượt khách, đạt 24,1% kế hoạch và bằng 51,7% so cùng kỳ; trong đó: khách quốc tế 3,8 ngàn lượt khách, giảm 96,1% so cùng kỳ. Tổng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ lữ hành, hoạt động hỗ trợ du lịch dịch vụ tiêu dùng đạt 6.734,3 tỷ đồng, tăng 4,8% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ ăn uống chiếm tỷ trọng 45,5%, ước đạt 3.061 tỷ đồng, tương đương so cùng kỳ; lưu trú đạt 18 tỷ đồng, giảm 46,9% so cùng kỳ...,Trước tình hình dịch Covid-19 tiếp tục có những diễn biến phức tạp trên địa bàn tỉnh đã tác động tiêu cực đến ngành du lịch. Lượng khách du lịch tiếp tục giảm so cùng kỳ, nguyên nhân khách du lịch quốc tế hiện nay chưa được cấp phép nhập cảnh. 5. Vận tải: Doanh thu, sản lượng vận chuyển, luân chuyển hàng hoá và hành khách 07 tháng đầu năm 2021 đều giảm so với cùng kỳ, nguyên nhân do ảnh hưởng dịch Covid -19. Ở đợt thứ 04 bị ảnh hưởng nặng nề nhất, dẫn đến đa số các doanh nghiệp vận tải, cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh gặp rất nhiều khó khăn, hoạt động cầm chừng ảnh hưởng đến các đơn hàng xuất khẩu đã ký kết ngay đầu năm... Vì vậy, để duy trì hoạt động sản xuất buộc các doanh nghiệp phải thu hẹp lại quy mô sản xuất, cắt giảm chi phí, giảm số lượng lao động..., trong đó có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động của ngành vận tải. Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải trong tháng thực hiện 116 tỷ đồng, giảm 12,5% so tháng trước và giảm 28,7% so cùng kỳ. Bảy tháng thực hiện 1.089 tỷ đồng, giảm 6,6% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 293 tỷ đồng, giảm 11,4%; doanh thu vận tải hàng hóa thực hiện 680,7 tỷ đồng, giảm 4,7% so cùng kỳ. Doanh thu vận tải đường bộ thực hiện 532,2 tỷ đồng, giảm 4,6%; doanh thu vận tải đường thủy thực hiện 441,4 tỷ đồng, giảm 9,5%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 115,8 tỷ đồng, giảm 4,9% so cùng kỳ. Nguyên nhân doanh thu vận tải giảm là do diễn biến phức tạp dịch bệnh Covid-19, tỉnh Tiền Giang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 15 và 16 của Thủ tướng Chính phủ ảnh hưởng đến doanh thu vận tải.Vận tải hành khách trong tháng đạt 1.251 ngàn hành khách, giảm 31,4% so tháng trước và giảm 60,8% so cùng kỳ; luân chuyển 18.008 ngàn hành khách.km, giảm 43,1% so tháng trước và giảm 56,6% so cùng kỳ. Bảy tháng, vận chuyển 16.840 ngàn hành khách, giảm 15,4% so cùng kỳ; luân chuyển 315.151 ngàn hành khách.km, giảm 8,6% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 8.094 ngàn hành khách, giảm 4,5% và luân chuyển 303.103 ngàn hành khách.km, giảm 7,4% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 8.746 ngàn hành khách, giảm 23,4% và luân chuyển 12.048 ngàn hành khách.km, giảm 31,8% so cùng kỳ. Vận tải hàng hóa trong tháng đạt 795 ngàn tấn, giảm 4,8% so tháng trước và giảm 15% so cùng kỳ; luân chuyển 105.841 ngàn tấn.km, giảm 3,5% so tháng trước và giảm 12,7% so cùng kỳ. Bảy tháng, vận tải 6.451 ngàn tấn hàng hóa, giảm 3,7% so cùng kỳ; luân chuyển 822.627 ngàn tấn.km, giảm 5,4% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 1.580 ngàn tấn, tăng 9,3% và luân chuyển 165.207 ngàn tấn.km, giảm 7,7% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 4.871 ngàn tấn, giảm 7,3% và luân chuyển 657.420 ngàn tấn.km, giảm 4,8% so cùng kỳ. * Công tác quản lý phương tiện giao thông: Trong tháng đăng ký mới 4.137 chiếc xe mô tô xe máy, 307 chiếc xe ô tô, 11 xe đạp điện và 18 xe khác. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.354.947 chiếc, trong đó mô tô xe máy 1.312.971 chiếc, xe ô tô 41.186 chiếc, 152 xe ba bánh, 192 xe đạp điện và 446 xe khác. 6. Bưu chính viễn thông: Doanh thu trong tháng 7/2021 đạt 262 tỷ đồng, tăng 0,1% so tháng trước; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 25 tỷ đồng, tăng 1% và viễn thông 245 tỷ đồng, tương đương so tháng trước. Bảy tháng doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 1.851 tỷ đồng, tăng 7,1% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 163 tỷ đồng, tăng 42,6% và viễn thông 1.688 tỷ đồng, tăng 4,6% so cùng kỳ. Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 7/2021 là 98.525 thuê bao, mật độ bình quân đạt 6 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Thuê bao internet có trên mạng cuối tháng 7/2020 là 278.280 thuê bao, mật độ internet bình quân đạt 15,8 thuê bao/100 dân. Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa dẫn đến khách hàng dần chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Số thuê bao điện thoại di động có sử dụng internet (3G, 4G) đến cuối tháng 6 năm 2021 là 1.366.583 thuê bao. V. TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG 1. Tài chính: Tổng thu ngân sách nhà nước trong tháng thực hiện 854,5 tỷ đồng; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn 670 tỷ đồng, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 200 tỷ đồng. Bảy tháng, thu 12.596 tỷ đồng, đạt 93,8% kế hoạch, giảm 9,8% so cùng kỳ; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 5.956 tỷ đồng, đạt 56,1% dự toán và giảm 2,3% so cùng kỳ; thu nội địa 5.781 tỷ đồng, đạt 55,9% dự toán, giảm 3% so cùng kỳ (trong thu ngân sách trên địa bàn: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.877 tỷ đồng, đạt 54,4% dự toán, giảm 7,3% so cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 651 tỷ đồng, đạt 46,5% dự toán, giảm 8,2% so cùng kỳ...). Tổng chi ngân sách nhà nước trong tháng 931 tỷ đồng; trong đó: chi đầu tư phát triển 300 tỷ đồng. Bảy tháng, chi 7.374 tỷ đồng, đạt 60,2% dự toán, giảm 31,8% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 2.077 tỷ đồng, đạt 56,1% dự toán, gảm 31,2% so cùng kỳ; chi hành chính sự nghiệp 3.628 tỷ đồng, đạt 52,8% dự toán và giảm 11,2% so cùng kỳ. 2. Ngân hàng: Đến cuối tháng 6/2021, vốn huy động đạt 77.831 tỷ, tăng 2,6% so với cuối năm 2020, bình quân mỗi tháng tăng 0,44%/tháng. Huy động vốn chủ yếu ở khu vực dân cư, chiếm tỷ trọng 88,9% tổng nguồn.Tổng dư nợ toàn tỉnh đến cuối tháng 6/2021 đạt 71.016 tỷ đồng, tăng 10,44% so với cuối năm 2020, bình quân tăng 1,7%/tháng. Tăng trưởng dư nợ cao hơn 5,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, dư nợ khối Ngân hàng Thương mại nhà nước và cổ phần nhà nước chiếm 62,9%. Có thể thấy, trong 6 tháng đầu năm, mặc dù trước tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp nhưng dư nợ đạt mức tăng cao, điều này hỗ trợ rất lớn trong việc cung ứng vốn phục vụ sản xuất của nền kinh tế. Cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tích cực tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh nhất là lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ. Kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tăng cường quản lý rủi ro đối với cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, tín dụng tiêu dùng. Ước đến cuối tháng 7/2021, nguồn vốn huy động đạt 77.889 tỷ đồng, tăng 2,7%; tổng dư nợ đạt 71.163 tỷ đồng, tăng 10,7% so với cuối năm 2020. *Nợ xấu: đến cuối tháng 6/2021 là 739,60 tỷ đồng, tỷ lệ 1,04%, giảm 0,21% so với cuối năm 2020. Trong đó khối NHTM nhà nước là 1,01%; khối còn lại là 1,10%.Tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp, nằm trong sự kiểm soát, có chuyển biến tích cực theo chiều hướng giảm. Trong đó, nợ nhóm 3 chiếm 17,15%, nhóm 4 chiếm 27,89%, nhóm 5 chiếm 54,30%. Ước đến cuối tháng 7/2021, nợ xấu là 745 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,1%, tăng 0,01% so với cuối năm 2020. VI. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Đến cuối tháng 7/2021, thẩm định nội dung 13 nhiệm vụ ( 06 cấp tỉnh, 07 cấp cơ sở); nghiệm thu kết thúc 08 nhiệm vụ; nghiệm thu giai đoạn 12 nhiệm vụ; Quyết định triển khai 16 nhiệm vụ; Quyết định công nhận 12 nhiệm vụ và Gia hạn 04 nhiệm vụ KH&CN. VII. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Lao động việc làm: Tính đến tháng 7/2021, tư vấn cho 18.076 lượt lao động, tăng 8,6% so với cùng kỳ, đạt 90,4% kế hoạch năm; tư vấn nghề cho 4.287 lượt lao động, tư vấn việc làm 2.220 lượt lao động, tư vấn việc làm cho 10.680 lượt lao động thất nghiệp, tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác cho 889 lượt lao động; giới thiệu việc làm cho 1.969 lượt lao động, tăng 72% so với cùng kỳ, đạt 49,2% kế hoạch năm; đã giới thiệu cho 539 lao động có được việc làm ổn định, giảm 9,1% so với cùng kỳ. Trong tháng 7, tư vấn cho 155 lượt lao động có nguyện vọng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, giảm 1,9% so với cùng kỳ, có 01 lượt lao động đăng ký tham gia, tương đương so với cùng kỳ. Xuất cảnh 14 lao động, tăng 133,3% so với cùng kỳ, trong đó xuất cảnh qua Nhật Bản là 07 lao động, Đài Loan là 05 lao động và thị trường khác là 02 lao động. Tiếp nhận 4.474 người đăng ký thất nghiệp, giảm 12,6% so với cùng kỳ, giải quyết cho 5.532 trường hợp hưởng cấp thất nghiệp, tăng 44,7% so với cùng kỳ, với tổng số tiền chi trả hơn 59 đồng, tăng hơn 2 tỷ đồng, tương đương tăng 5,1% so với cùng kỳ. 2. Chính sách xã hội: Quỹ đền ơn đáp nghĩa vận động được 252 triệu đồng, lũy kế từ đầu năm vận động được 4 tỷ đồng đạt 40% kế hoạch năm tương đương cùng kỳ năm 2020, xây dựng 15 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 600 triệu đồng đạt 12% kế hoạch năm giảm 25% so với cùng kỳ; sửa chữa 16 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 320 triệu đồng đạt 32% kế hoạch năm giảm 22% so với cùng kỳ.Quỹ Bảo trợ trẻ em vận động tiền mặt được hơn 30 triệu đồng; lũy kế từ đầu năm vận động được hơn 1,9 đồng, trong đó tiền mặt là gần 1,7 tỷ đồng; hàng hóa là hơn 230 triệu đồng đạt 54,9% kế hoạch năm, hỗ trợ cho khoảng 157 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn thông qua các hoạt động thăm và trao tặng quà; tặng “Mái ấm Khuyến học”, “Tiếp sức đến trường”. 3. Hoạt động y tế: Theo báo cáo của Sở Y tế tỉnh Tiền Giang: kể từ ngày 05/6/2021, khi có trường hợp mắc COVID-19 đầu tiên ngoài cộng đồng, đến ngày 25/07/2021 đã có 119 ổ dịch với 1.988 bệnh nhân (914 bệnh nhân đã được Bộ Y tế công bố mã số, số bệnh nhân còn lại đang chờ cấp mã số), 168 bệnh nhân được điều trị khỏi và 31 ca tử vong. UBND tỉnh thành lập 03 bệnh viện Dã chiến điều trị Covid-19 với 5 cơ sở điều trị. Quy mô 1.060 giường bệnh (Bệnh viện dã chiến số 1 là 350 giường (2 cơ sở); Bệnh viện dã chiến số 3 là 650 giường (3 cơ sở); Bệnh viện Dã chiến số 2 là bệnh viện tuyến cuối của tỉnh chuyên về điều trị Covid-19 với quy mô 60 giường bệnh), đồng thời phối hợp với Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh tham mưu thành lập bệnh viện Dã chiến trực thuộc Bộ Quốc phòng (bệnh viện Dã chiến số 6) với quy mô 500 giường bệnh. Ngoài ra, Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định thực hiện cách ly xã hội toàn tỉnh trong vòng 14 ngày, kể từ 00 giờ ngày 19/7/2021, theo tinh thần Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ, trước đó ngày 12/7/2021 tỉnh đã thực hiện cách ly toàn xã hội 10/11 huyện, thành, thị theo Chỉ thị số 16/CT-TTg. Trong tháng 7 có 09/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận. Cộng dồn so với cùng kỳ có 08 bệnh tăng (Sốt xuất huyết +7,6%, tay chân miệng +220,5%, tiêu chảy +5,1%, uốn ván khác +11,1%, viêm gan siêu vi A +100%, viêm gan siêu vi B +25%, viêm não do vi rút +100, Covid-19 +100%); 09 bệnh giảm (liên cầu lợn ở người -100%, ho gà -100%, lao phổi -11,3%, lỵ a míp -100%, quai bị -65,1%, sởi -55,4%, thương hàn -16,7%, thủy đậu -29,7%, viêm gan siêu vi C -50%); 27 bệnh tương đương và hoặc không xảy ra ca mắc. Phòng chống HIV/AIDS bảy tháng đầu năm toàn tỉnh có 5,920 người nhiễm HIV; 1,805 người chuyển sang AIDS; tử vong do AIDS: 997 người.Số lượng bệnh đến khám ngoại trú và điều trị nội trú đều giảm nhiều giảm so với cùng kỳ năm 2020: tổng số lần khám bệnh trong tháng 265.853 lượt người, giảm 37,1%; tổng số người điều trị nội trú 12.510 lượt người, giảm 34,6%. Công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong tháng đạt 52,5%. 4. Hoạt động giáo dục: Ngành Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức thi tốt nghiệp THPT năm 2021 vào các ngày 07 và 08/7/2021 với hơn 16.000 thí sinh dự thi, chấm thi tốt nghiệp THPT năm 2021 từ ngày 09/7/2021 đến 26/7/2021. Hướng dẫn thí sinh điều chỉnh nguyện vọng xét tuyển vào đại học, cao đẳng năm 2021. Thành lập Hội đồng xét tuyển và công bố điểm chuẩn tuyển sinh vào lớp 10 năm học 2021-2022. 5. Hoạt động văn hóa – thể thao: Trong tháng 7/2021, do tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trên địa bàn tỉnh Tiền Giang tổ chức tuyên truyền phòng chống dịch bệnh Covid-19 trên Đài Phát thanh huyện và cấp xã để Nhân dân được biết (mỗi ngày ít nhất 3 lượt) và trên 225 lượt xe loa tuyên truyền (bao gồm xe chuyên dụng và xe máy gắn loa di động); các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao đông người đã tạm dừng; Tạm ngưng phục vụ tại Bảo tàng, Thư viện tỉnh, các di tích trực thuộc, Trung tâm Văn hóa – Nghệ thuật, Trung tâm Phát triển Du lịch, Trung tâm Đào tạo, Huấn luyện và Thi đấu thể dục thể thao để thực hiện phòng, chống dịch Covid-19 kể từ ngày 12/7/2021; Tổ chức huấn luyện, ăn ở khép kín cho vận động viên tại Trung tâm Đào tạo, Huấn luyện và Thi đấu Thể dục Thể thao tỉnh; các vận dộng viên được về nhà thì tổ chức huấn luyện qua hình thức online. 6. Tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội: (Theo báo cáo của ngành công an) Tội phạm về trật tự xã hội xảy ra 118 vụ (tăng 42 vụ so với liền kề, giảm 05 vụ so với cùng kỳ), bị thương 14 người, tài sản thiệt hại trị giá khoảng 4,9 tỷ đồng. Điều tra khám phá bước đầu đạt tỷ lệ 52,5% (62 vụ), bắt xử lý 116 đối tượng, thu hồi tài sản trị giá khoảng 272 triệu đồng. Phát hiện, xử lý 32 tụ điểm cờ bạc, 196 đối tượng liên quan (khởi tố 13 vụ, 53 bị can về hành vi đánh bạc và tổ chức đánh bạc); 27 vụ, 35 đối tượng phạm tội về ma túy và xử lý hành chính 209 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; 02 vụ - 02 đối tượng có hành vi buôn bán, vận chuyển hàng cấm, thu giữ 6.940 bao thuốc lá điếu nhập lậu (khởi tố vụ án, khởi tố bị can) và xử lý phạt tiền 04 trường hợp vi phạm pháp luật về môi trường, khai thác cát trái phép. 7. Trật tự an toàn giao thông: (Theo báo cáo ngành công an tỉnh) Giao thông đường bộ: Tai nạn giao thông trong tháng xảy ra 49 vụ, giảm 08 vụ so tháng trước và tăng 12 vụ so cùng kỳ, làm chết 27 người, giảm 03 người so tháng trước và tăng 02 người so cùng kỳ, bị thương 23 người, giảm 11 người so tháng trước và tăng 06 người so cùng kỳ. Nâng tổng số vụ từ đầu năm đến nay 373 vụ, tăng 175 vụ so cùng kỳ, làm chết 177 người, tăng 54 người so cùng kỳ, bị thương 250 người tăng 147 người so cùng kỳ. Vi phạm trật tự an toàn gia o thông đường bộ trong tháng xảy ra 2.671 vụ giảm 857 vụ so tháng trước và giảm 6.314 vụ so cùng kỳ. Đã xử lý tạm giữ giấy tờ và phương tiện 2.286 vụ, tước giấy phép lái xe 199 vụ, phạt tiền 385 vụ với số tiền phạt 3.049 triệu đồng. Nâng tổng số vụ vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ từ đầu năm đến nay 21.188 vụ, giảm 20.219 vụ so cùng kỳ. Đã xử lý tạm giữ giấy tờ và phương tiện 17.162 vụ, tước giấy phép lái xe 1.215 vụ, phạt tiền 4.026 vụ với số tiền phạt 18.848 triệu đồng. Giao thông đường thủy: Trong tháng không xảy ra. Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 vụ tai nạn, so cùng kỳ giảm 02 vụ, số người chết và bị thương không phát sinh, tương đương so với cùng kỳ.Vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy trong tháng xảy ra 3.690 vụ, tăng 1.840 vụ so tháng trước và tăng 1.831 vụ so cùng kỳ. Đã xử lý vi phạm lập biên bản tạm giữ giấy tờ 696 vụ và phạt tiền tại chỗ 2.994 vụ với số tiền phạt: 572,7 triệu đồng. Nâng tổng số vụ vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy từ đầu năm đến nay 9.671 vụ tăng 16 vụ so cùng kỳ. Đã xử lý vi phạm lập biên bản tạm giữ giấy tờ 1.659 vụ và phạt tiền 8.012 vụ với số tiền phạt: 2.638 triệu đồng. 8. Tình hình cháy nổ, môi trường Tình hình cháy nổ, thiên tai trên địa bàn tỉnh Tiền Giang trong tháng 7/2021 đã xảy ra 1 vụ cháy do chập điện, chưa xác định thiệt hại tài sản; 3 vụ lốc xoáy và 3 điểm sạt lỡ, với 44 căn nhà tốc mái, 2 căn nhà bị sập, gãy 1 trụ điện và gãy đổ 1,7 ha bắp ( ngô), ước tính thiệt hại gần 1.009 triệu đồng. Tính từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 08 cơn lốc xoáy với 100 căn nhà (sập 5 căn, tốc mái 95 căn), 1,7 ha cây bắp thiệt hại 100% và 179 cây thiệt hại 100%. Ước tính thiệt hại trên 1.595 triệu đồng. Phát hiện 02 tổ chức vi phạm lĩnh vực môi trường như: không báo cáo kết quả giám sát chất thải định kỳ (một năm một lần trước ngày 31 tháng 01 hàng năm) cho cơ quan đã phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường thuộc thẩm quyền phê duyệt của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định; khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường không giấy phép. Quyết định xử phạt hành chính về lĩnh vực môi trường đối với 2 tổ chức với số tiền là 100 triệu đồng.
Tổng sản phầm trên địa bàn tỉnh Tiền Giang 6 tháng đầu năm 2021 tăng 3,31% so cùng kỳ
- 18/06/2024 16:14
Kinh tế của tỉnh sáu tháng đầu năm 2021, đang trên đà phục hồi và tăng trưởng tích cực, thời tiết những tháng đầu năm tương đối thuận lợi, dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát tốt là những điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, dịch Covid-19 bùng phát, lần đầu tiên trên địa bàn tỉnh có ca mắc trong cộng đồng đã đặt ra không ít khó khăn, thách thức trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Trước những thuận lợi và khó khăn đan xen, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh ngay từ đầu năm đã chỉ đạo các các sở, ngành tỉnh, các huyện, thành, thị thực hiện đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe nhân dân, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2021. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu năm 2021 ước đạt 28.956 tỷ đồng, (giá so sánh năm 2010) tăng 3,31% so với cùng kỳ, khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,25%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,22% và khu vực dịch vụ tăng 4,56 % (bao gồm thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); Nếu tách riêng thuế sản phẩm thì khu vực dịch vụ giảm 5,20 % và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 1,70% so cùng kỳ. Trong 3,31% tăng trưởng khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 25,40%, công nghiệp xây dựng đóng góp 27,57%, dịch vụ đóng góp 43,81% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đóng góp 3,22%. Tuy tốc độ tăng trưởng còn thấp so với kế hoạch cả năm, nhưng đạt được kết quả trên là quyết tâm rất lớn của lãnh đạo địa phương, các ngành, các cấp trong chỉ đạo điều hành, cộng với sự đồng lòng, phấn đấu vượt qua khó khăn của các cơ sở kinh tế và nhân dân trong tỉnh. GRDP nếu tính theo giá hiện hành đạt 49.197 tỷ đồng. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: 6 tháng đầu năm 2021 tăng 2,25% so với 6 tháng đầu năm 2020; trong đó nông nghiệp tăng 2,13% (cùng kỳ giảm 6,10%). Trồng trọt có nhiều thuận lợi hơn 6 tháng đầu năm 2020, công tác phòng chống hạn mặn được triển khai sớm, diện tích bị thiệt hại không nhiều. Trà lúa Đông Xuân năm nay phát triển tốt, năng suất bình quân 71,1 tạ/ha, tăng 7,8% so cùng kỳ tương ứng tăng 5,1 tạ/ha; Giá lúa bình quân cao hơn so cùng kỳ nên bà con nông dân có lãi (cao hơn từ 1.900 đồng đến 2.500 đồng/kg tùy loại). Tuy nhiên có một số khu vực do chịu tác động của hạn mặn năm 2020 nên sản xuất còn khó khăn, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm. Các vườn cây ăn trái ở các huyện phía Tây được nông dân chăm sóc, từng bước được phục hồi, nhưng cây còn yếu, nông dân chưa dám xử lý cho ra hoa trái vụ. Trong lĩnh vực chăn nuôi, dịch tả lợn châu Phi tuy được kiểm soát tốt nhưng còn xảy ra ở một số địa phương, người dân chưa mạnh dạn tái đàn do còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, giá thức ăn tăng, giá bán sản phẩm chăn nuôi thấp so cùng kỳ … Ước tính đến thời điểm 01/6/2021 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 121 ngàn con, tăng 2,3%; đàn lợn 295,8 ngàn con, giảm 15,9%; đàn gia cầm (không kể chim cút) 18 triệu con, giảm 3% so cùng kỳ. Giá cả các sản phẩm nông nghiệp trong kỳ lên xuống thất thường, có những thời điểm khó tiêu thụ sản phẩm, các loại cây ăn quả có giá bình quân thấp so cùng kỳ, nhất là xoài, bưởi, mít, thanh long ... Ngành thủy sản tăng 3,15% so cùng kỳ, sản lượng nuôi trồng và khai thác đều tăng. Do tác động của dịch Covid 19, một số mặt hàng thủy sản tiêu thụ chậm . Khu vực công nghiệp - xây dựng: tăng 3,22% so với 6 tháng đầu năm 2020; trong đó công nghiệp tăng 2,42%. Do tác động của dịch bệnh, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, nguyên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất … nhất là các doanh nghiệp chế biến thủy sản, chế biến thức ăn gia súc. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực may mặc, sản xuất giày da từng bước được phục hồi, ổn định sản xuất. Các ngành chức năng thường xuyên theo dõi nắm tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, kịp thời tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp yên tâm sản xuất. Tính đến thời điểm hiện tại các Khu công nghiệp của tỉnh thu hút được 107 dự án, diện tích đất thuê là 570,29 ha/769,34 ha chiếm tỷ lệ 74,13% diện tích đất công nghiệp cho thuê; Các cụm công nghiệp thu hút 79 dự án, diện tích thuê đất là 89,78 ha/120,56 ha, đạt 74,47% diện tích đất công nghiệp cho thuê. Ngành xây dựng tăng 8,54%, trong kỳ chủ yếu thực hiện các công trình chuyển tiếp từ năm 2020 chuyển sang và các công trình chống hạn, mặn. Trên địa bàn tỉnh có nhiều công trình trọng điểm của địa phương và trung ương; Trong đó có dự án cao tốc Trung lương – Mỹ Thuận, cầu Mỹ Thuận 2, bệnh viện Đa khoa tỉnh Tiền Giang, Điện gió Tân Phú Đông ... Giá sắt thép, vật liệu xây dựng, nhiên liệu trong 6 tháng đầu năm tăng cao, ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng của các công trình. Khu vực dịch vụ: tăng 5,20 % so cùng kỳ. Hầu hết các ngành trong khu vực này điều tăng so cùng kỳ. Tuy nhiên cũng có một số ngành gặp nhiều khó khăn như: vận tải kho bãi, du lịch, ... Số khách du lịch đến địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm đạt 270.255 lượt khách, chỉ bằng 60,6% so cùng kỳ. Ngày 5/6/2021 lần đầu tiên trên địa bàn Tiền Giang có ca mắc Covid 19 trong cộng đồng, Tỉnh đã chủ động, kiểm soát được tình hình nhưng đến thời điểm hiện tại còn diễn biến rất phức tạp, toàn tỉnh thực hiện giản cách xã hội theo Chỉ thị 15/CT-TTg ngày 27/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ. Một số ngành trong khu vực này tạm dừng hoạt động, nếu dịch bệnh kéo dài sẽ ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng trong những tháng cuối năm. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 6 tháng đầu năm tăng 1,70% so cùng kỳ. Cơ cấu kinh tế: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 39,3% (cùng kỳ 39,4%); khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 26,2% (cùng kỳ 26,3%); khu vực dịch vụ chiếm 28,4% (cùng kỳ 28,1%); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,1% (cùng kỳ 6,2%). NV.Tròn
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang 6 tháng đầu năm 2021
- 18/06/2024 16:12
I. TÌNH HÌNH CHUNG Sáu tháng đầu năm 2021, triển vọng kinh tế toàn cầu đã được cải thiện rõ rệt sau khi các quốc gia triển khai vắc-xin hiệu quả và đối phó tốt hơn với dịch COVID-19. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa tỷ lệ tiêm chủng của các nền kinh tế phát triển với các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi đã làm kinh tế thế giới phục hồi không đồng đều và mong manh. Ngân hàng Thế giới và Liên minh châu Âu đều dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2021 đạt 5,6%, tốc độ tăng mạnh nhất sau suy thoái. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế dự báo GDP toàn cầu tăng 5,8% trong năm 2021. Theo Fitch Ratings, dự báo GDP toàn cầu sẽ tăng 6,3% trong năm 2021, cao hơn mức dự báo trong tháng 3/2021 (6,1%). Liên hợp quốc nhận định sau khi giảm 3,6% trong năm 2020, nền kinh tế toàn cầu dự báo tăng trưởng 5,4% năm 2021, tăng 0,7 điểm phần trăm so với mức dự báo 4,7% đưa ra trong báo cáo phát hành vào tháng 1/2021. Ngân hàng Thế giới nhận định GDP của Hoa Kỳ, khu vực đồng Euro, Nhật Bản và Trung Quốc trong năm 2021 tăng lần lượt là 6,8%, 4,2%, 2,9% và 8,5%. Đối với khu vực Đông Nam Á, Ngân hàng Thế giới dự báo Việt Nam và Ma-lai-xi-a là động lực tăng trưởng của khu vực khi đạt mức tăng trưởng lần lượt là 6,6% và 6,0% trong năm 2021. Phi-li-pin, Thái Lan và In-đô-nê-xi-a được dự báo tăng trưởng tương ứng là 4,7%, 2,2% và 4,4% trong năm 2021. Theo Báo cáo Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 6/2021, WB nhận định đợt bùng phát dịch COVID-19 thứ tư bắt đầu từ cuối tháng 4/2021 đã làm số ca nhiễm tăng mạnh. Hoạt động sản xuất công nghiệp trong tháng 5 cho thấy khả năng chống chịu cao với tốc độ tăng trưởng 1,6% (so với tháng trước), nhưng doanh số bán lẻ giảm 3,1% do tác động của giãn cách xã hội. Vị thế kinh tế đối ngoại của Việt Nam giảm nhẹ trong tháng 5 do kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và cam kết vốn FDI giảm lần lượt 6,7% và 20% so với tháng 4. Giá cả trong nước tăng 0,3% (so với tháng trước) do giá hàng hóa toàn cầu tăng. Trong thời gian tới, cần đặc biệt quan tâm đến sự phát triển của sản xuất công nghiệp và bán lẻ vì cả hai ngành này đều có thể tiếp tục bị ảnh hưởng bởi đợt bùng phát dịch COVID-19 thứ tư. II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã tổ chức thành công cuộc bầu cử Quốc Hội và Hội Đồng Nhân Dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2016 trong điều kiện dịch Covid-19 bùng phát mạnh. Đầu tháng 6 trên địa bàn tinh có ca mắc Covid-19 trong công đồng. Lãnh đạo địa phương cùng các cấp, các ngành của tỉnh tập trung thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh. Quán triệt quan điểm “chống dịch như chống giặc” và phương châm “4 tại chỗ”, không lơ là, mất cảnh giác, đồng thời không hoang mang, lúng túng, bị động, quyết tâm, quyết liệt trong công tác phòng, chống dịch, huy động mạnh mẽ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và mọi người dân, đề cao kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm của người đứng đầu; quyết tâm giữ vững thành quả chống dịch của địa phương. Với tinh thần vượt qua khó khăn, thách thức, để phấn đấu đạt mục tiêu kép sáu tháng đầu năm kết quả đạt được trên các lĩnh vực như sau: 1. Tăng trưởng kinh tế (GRDP): Kinh tế của tỉnh sáu tháng đầu năm 2021, đang trên đà phục hồi và tăng trưởng tích cực, thời tiết những tháng đầu năm tương đối thuận lợi, dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát tốt là những điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, dịch Covid - 19 bùng phát, trên địa bàn tỉnh có ca mắc trong cộng đồng đã đặt ra không ít khó khăn, thách thức trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Trước những thuận lợi và khó khăn đan xen, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh ngay từ đầu năm đã chỉ đạo các các sở, ngành tỉnh, các huyện, thành, thị thực hiện đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe nhân dân, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2021. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu năm 2021 ước đạt 28.956 tỷ đồng, (giá so sánh năm 2010) tăng 3,31% so với cùng kỳ, khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,25%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,22% và khu vực dịch vụ tăng 4,56% (bao gồm thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); Nếu tách riêng thuế sản phẩm thì khu vực dịch vụ giảm 5,20% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 1,70% so cùng kỳ. Trong 3,31% tăng trưởng khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 25,40%, công nghiệp xây dựng đóng góp 27,57%, dịch vụ đóng góp 43,81% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đóng góp 3,22%. GRDP tính theo giá hiện hành đạt 49.197 tỷ đồng. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: 6 tháng đầu năm 2021 tăng 2,25% so với 6 tháng đầu năm 2020; trong đó nông nghiệp tăng 2,13% (cùng kỳ giảm 6,10%). Trồng trọt có nhiều thuận lợi hơn 6 tháng đầu năm 2020, công tác phòng chống hạn mặn được triển khai sớm, diện tích bị thiệt hại không nhiều. Trà lúa Đông Xuân năm nay phát triển tốt, năng suất bình quân 71,1 tạ/ha, tăng 7,8% so cùng kỳ tương ứng tăng 5,1 tạ/ha; Giá lúa bình quân cao hơn so cùng kỳ nên bà con nông dân có lãi (cao hơn từ 1.900 đồng đến 2.500 đồng/kg tùy loại). Tuy nhiên có một số khu vực do chịu tác động của hạn mặn năm 2020 nên sản xuất còn khó khăn, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm. Các vườn cây ăn trái ở các huyện phía Tây được nông dân chăm sóc, từng bước được phục hồi, đưỡng cây là chủ yếu, nông dân chưa đồng loạt xử lý cho ra hoa trái vụ. Trong lĩnh vực chăn nuôi, dịch tả lợn châu Phi tuy được kiểm soát tốt nhưng còn xảy ra ở một số địa phương, người dân chưa mạnh dạn tái đàn do còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, giá thức ăn tăng, giá bán sản phẩm chăn nuôi thấp so cùng kỳ … Giá cả các sản phẩm nông nghiệp trong kỳ lên xuống thất thường, có những thời điểm khó tiêu thụ sản phẩm, các loại cây ăn quả có giá bình quân thấp so cùng kỳ, nhất là xoài, bưởi, mít, thanh long ... Ngành thủy sản tăng 3,15% so cùng kỳ, sản lượng nuôi trồng và khai thác đều tăng. Do tác động của dịch Covid - 19, một số mặt hàng thủy sản tiêu thụ chậm. Khu vực công nghiệp - xây dựng: tăng 3,22% so với 6 tháng đầu năm 2020; trong đó công nghiệp tăng 2,42%. Do tác động của dịch bệnh, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, nguyên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất … nhất là các doanh nghiệp chế biến thủy sản, chế biến thức ăn gia súc. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực may mặc, sản xuất giày da từng bước được phục hồi, ổn định sản xuất. Các ngành chức năng thường xuyên theo dõi nắm tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, kịp thời tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp yên tâm sản xuất. Ngành xây dựng tăng 8,54%, trong kỳ chủ yếu thực hiện các công trình chuyển tiếp từ năm 2020 chuyển sang và các công trình chống hạn, mặn. Trên địa bàn tỉnh có nhiều công trình trọng điểm của địa phương và trung ương; trong đó có dự án cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận, cầu Mỹ Thuận 2, bệnh viện Đa khoa tỉnh Tiền Giang ...tuy nhiên, vật liệu xây dựng, nhiên liệu trong 6 tháng đầu năm tăng cao, ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng của các công trình. Khu vực dịch vụ: tăng 5,20% so cùng kỳ. Hầu hết các ngành trong khu vực này điều tăng so cùng kỳ. Tuy nhiên cũng có một số ngành gặp nhiều khó khăn như: vận tải kho bãi, du lịch, ... Số khách du lịch đến địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm đạt 270.255 lượt khách, chỉ bằng 60,6% so cùng kỳ. Trong tháng 6/2021 lần đầu tiên trên địa bàn Tiền Giang có ca mắc Covid -19 trong cộng đồng, Tỉnh đã chủ động, kiểm soát được tình hình nhưng đến thời điểm hiện tại còn diễn biến rất phức tạp, toàn tỉnh thực hiện giản cách xã hội theo Chỉ thị 15/CT-TTg ngày 27/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ từ ngày 12/6 đến ngày 13/6/2021 huyện Cái Bè, Thị xã Cai Lậy và một số xã huyện Cai Lậy cách ly theo Chỉ thị 16/CT-TTG. Một số ngành trong khu vực này tạm dừng hoạt động nếu dịch bệnh kéo dài sẽ ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng trong những tháng cuối năm. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 6 tháng đầu năm tăng 1,70% so cùng kỳ. Cơ cấu kinh tế: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 39,3% (cùng kỳ 39,4%); khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 26,2% (cùng kỳ 26,3%); khu vực dịch vụ chiếm 28,4% (cùng kỳ 28,1%); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,1% (cùng kỳ 6,2%). 2. Sản xuất nông - thủy sản: 2.1. Nông nghiệp: * Trồng trọt: Cây lương thực có hạt: 6 tháng đầu năm 2021, gieo trồng được 113.138 ha, đạt 84,5% kế hoạch, giảm 8,7% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch 524.692 tấn, tăng 0,2 so cùng kỳ; trong đó: cây lúa gieo sạ 111.504 ha, thu hoạch 76.552 ha, sản lượng 519.904 tấn, đạt 65,7% kế hoạch. - Cây lúa: + Vụ Đông Xuân 2020-2021: chính thức xuống giống 51.647 ha, đạt 100% kế hoạch gieo trồng của vụ, giảm 10,3% so cùng kỳ. Nguyên nhân giảm thực hiện đề án cắt vụ để tránh hạn, mặn. + Vụ Hè Thu: Diện tích gieo trồng trong tháng đạt 26.364 ha lũy kế 6 tháng đầu năm diện tích gieo trồng là 59.857 ha, đạt 78,1% kế hoạch gieo trồng. Diện tích thu hoạch chủ yếu là vụ lúa Xuân hè 24.905 ha (ở các huyện phía tây: thị xã Cai Lậy, Tân Phước, Cái Bè, Cai Lậy và Châu Thành), năng suất đạt 61,3 tạ/ha, giảm 1,1% so cùng kỳ; sản lượng đạt 152.715 tấn, tăng 7,5% so cùng kỳ. Cây ngô: trong tháng gieo trồng 172 ha, thu hoạch 62 ha với sản lượng 203 tấn. Đến nay gieo trồng được 1.634 ha, đạt 46,7% kế hoạch, giảm 37,7% so cùng kỳ, thu hoạch 1.384 ha, năng suất quy thóc 35,5 tạ/ha với sản lượng quy thóc 4.788 tấn, đạt 37,7% kế hoạch, giảm 37,1% so cùng kỳ do chịu ảnh hưởng một phần hạn mặn kéo dài nên người dân chuyển đổi sang trồng cây thanh long và một số cây ăn quả khác. Cây rau đậu các loại: Đến nay gieo trồng được 41.881 ha, đạt 67,1% kế hoạch, tăng 10% so cùng kỳ, thu hoạch 35.217 ha với sản lượng 695.044 tấn, đạt 57,5% kế hoạch, tăng 4,9% so cùng kỳ (trong đó: rau các loại 41.678 ha, thu hoạch 35.086 ha với sản lượng 694.639 tấn). * Chăn nuôi: ước thời điểm 01/06/2021 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 121,6 ngàn con, tăng 2,3%; đàn lợn 295,8 ngàn con, giảm 15,9%; đàn gia cầm (không kể chim cút) 18 triệu con, giảm 3% so cùng kỳ. Chăn nuôi gia cầm giảm so cùng kỳ là do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 dẫn đến việc tiêu thụ giảm, chăn nuôi lợn giảm so cùng kỳ do dịch bệnh còn nhiều nguy cơ tiềm ẩn, dịch tả lợn châu phi còn xảy ra trên địa bàn tỉnh, giá thức ăn tăng cao trong khi giá lợn hơi giảm từ 0,8 đến 1 triệu đồng/ tạ so đầu năm người nuôi lo sợ khi tái đàn; một số hộ chuyển sang nuôi vật nuôi khác; giá cả thịt lợn hơi thường xuyên liên tục biến động, người chăn nuôi không dự đoán được thị trường nên rất lo lắng khi tái đàn; giá thức ăn chăn nuôi từ đầu năm đến nay liên tục tăng mạnh (giá hiện nay tăng khoảng 30% so đầu năm). Tình hình dịch bệnh trên vật nuôi 6 tháng đầu năm 2021: Dịch bệnh trên gia cầm: Ghi nhận 03 trường hợp/03 xã/03 huyện có gà bệnh cúm với tổng đàn 15.437 con; trong đó, gà bệnh và chết được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 3.830 con. Tình hình dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP): Từ ngày 15/12/2020, đến nay trên địa bàn toàn tỉnh ghi nhận 16 hộ có heo mắc bệnh DTLCP với tổng đàn 374 con tại 10 xã/06 huyện (Châu Thành: 01 xã; Gò Công Tây: 03 xã; Gò Công Đông: 03 xã; Tân Phú Đông: 01 xã; Cái Bè: 01 xã; Chợ Gạo: 01 xã). Tổng số heo được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 317 con, khối lượng 7.720 kg trên 16 hộ. Ngoài ra, địa phương tiêu hủy heo bệnh chết tại 02 hộ cũ (năm 2020), với số lượng 105 con/2.973 kg. Tình hình dịch bệnh lở mồm long móng (LMLM): Ghi nhận 01 trường hợp heo mắc bệnh LMLM tại huyện Cái Bè, tổng đàn 35 con. Chính quyền địa phương tổ chức tiêu hủy 35 con heo bệnh với khối lượng 3,917 tấn; đồng thời triển khai thực hiện công tác tiêu độc khử trùng tại cơ sở thu gom heo và vùng bị uy hiếp. 2.2. Thủy hải sản: Sáu tháng đầu năm 2021 toàn tỉnh thả nuôi được 13.213 ha, đạt 87% kế hoạch, tăng 3,7% so cùng kỳ, trong đó: + Nuôi thủy sản nước ngọt: Trong sáu tháng đầu năm tỉnh thả nuôi được 3.859 ha, so cùng kỳ tăng 12,4%. Nguyên nhân ít bị ảnh hưởng hạn mặn kết hợp với mực nước nội đồng đủ nước nên các hộ tiến hành thả nuôi. Ngoài việc nuôi theo truyền thống ở hộ gia đình thì phong trào nuôi cá da trơn dọc bờ sông Tiền với hình thức nuôi công nghiệp cũng duy trì. + Nuôi thủy sản mặn, lợ: Trong sáu tháng đầu năm toàn tỉnh nuôi được 9.354 ha, tăng 0,5% so cùng kỳ, diện tích tăng chủ yếu là nuôi tôm sú nuôi quảng canh và nuôi tôm thẻ chân trắng do độ mặn và thời tiết thích hợp, các hộ nuôi tôm thâm canh và quảng canh cải tiến rất thận trọng trong việc chọn mua giống. Tình hình nuôi nghêu ổn định, các sân nuôi tiếp tục thu hoạch và thả nuôi nghêu trở lại, ngành chức năng tăng cường thực hiện quan trắc môi trường tại vùng nuôi nghêu tập trung. Sản lượng thu hoạch 146.237 tấn, đạt 49,8% kế hoạch, tăng 2,6% so cùng kỳ; trong đó: trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 73.593 tấn, tăng 1,7% so cùng kỳ; sản lượng khai thác 72.644 tấn, tăng 3,6% so cùng kỳ, chủ yếu là khai thác biển được đầu tư đóng mới, nâng cấp năng lực khai thác biển. Thời tiết thuận lợi cho hoạt động đánh bắt, hiện nay các phương tiện không còn đánh bắt nhỏ lẻ như trước đây mà ngư dân đã tự nguyện gia nhập vào các tổ hợp tác hoặc hợp tác xã để thuận lợi hơn trong đánh bắt hải sản nhất là khi khai thác xa bờ dễ dàng tương trợ, phối hợp cùng nhau để đạt hiệu quả được cao hơn và an toàn hơn, nên ngư dân khai thác trúng mùa đạt sản lượng. Tỉnh tiếp tục theo dõi tình hình triển khai thực hiện Chỉ thị 45/CT-TTg ngày 13/12/2017 về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách để khắc phục cảnh báo của Ủy ban Châu Âu về chống khai thác hải sản bất hợp pháp và vi phạm lãnh hải, theo quy định không báo cáo đồng thời thiết thực triển khai công điện 732 của Thủ tướng Chính phủ về việc ngăn chặn, chấm dứt tình trạng ngư dân, tàu cá Việt Nam đánh bắt trên lãnh hải nước bạn. 3. Sản xuất công nghiệp: Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 6 tháng đầu năm 2021 tăng 3,1% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,1%; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 5,3%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 3,4%. Sản phẩm sản xuất công nghiệp 6 tháng năm 2021: Có 19/39 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Bộ com lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 57,1%; Cáp đồng trục và dây dẫn điện đồng trục tăng 51%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo tăng 45,9%;... Có 20/39 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Phi lê đông lạnh giảm 24,1%; Giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài giảm 14,1%; Áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc giảm 13,9%; … 4. Chỉ số giá tiêu dùng: Trước tình diễn biến phức tạp của Covid-19, toàn tỉnh cách ly theo Chỉ thi 15/CT-TTg, huyện Cái Bè và Cai Lậy thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ kể từ ngày16/6/2021; Ngày 28/5/2021, Sở Giao thông vận tải tỉnh Tiền Giang ban hành Thông báo số 992/TB-SGTVT về việc tạm dừng hoạt động vận tải hành khách đến tỉnh Long An và Thành phố Hồ Chí Minh, đến ngày 3/6/2021 dừng toàn bộ hoạt động vận chuyển hành khách trên địa bàn tỉnh.....tác động đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2021 tăng 0,04% so tháng 5/2021; so cùng kỳ tăng 3,34%. CPI bình quân sáu tháng đầu năm 2021 so cùng kỳ tăng 2,51%. So với tháng 5/2021, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 6 nhóm tăng: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,18%; Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,61%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,2%; Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%; Giao thông tăng 1,31% và Hàng hóa dịch vụ khác tăng 0,11%. Có 4 nhóm giảm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,63%; Đồ uống và thuốc lá giảm 0,03%; Bưu chính viễn thông giảm 0,15% Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,01%. Riêng nhóm Giáo dục chỉ số giá ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2021 tăng so tháng 5/2021 do: Giá rau tươi, khô và chế biến tăng 3,66% nguyên nhân là do cuối vụ thu hoạch, sản lượng cung cấp ra các chợ giảm, dẫn đến giá tăng; Cùng với đó, tại địa phương thực hiện nghiêm túc giãn cách xã hội (tạm dừng buôn bán các quán ăn, uống bên ngoài) trong mùa dịch bệnh Covid, để tiện lợi ăn uống trong gia đình nên nhu cầu tiêu dùng một số mặt hàng tăng như: trứng gia cầm các loại tăng 5,26%, thuỷ hải sản chế biến tăng 0,71%, nước mắm nước chấm tăng 0,55% so với tháng trước. Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 1,13% và dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,55%. Nguyên nhân do nhu cầu xây dựng trong mùa nắng tăng. Hiện đang vào mùa hè, thực hiện giản cách xã hội nhu cầu sử dụng điện tăng, dẫn đến giá tăng 0,2%. Giá gas tăng 4,51%, tương ứng tăng 14.000 đồng/bình 12kg vào ngày 1/6/2021. Cùng với đó, giá dầu hoả tăng 4,38%, tương ứng tăng 590 đồng/lít vào ngày 11/6/2021, tác động đến nhóm gas và các loại chất đốt khác tăng 4,22%, góp phần làm CPI chung tháng này tăng 0,05%. Giá xăng dầu tăng 2,8% so với tháng trước, góp phần làm CPI chung tăng khoảng 0,12%. Bên cạnh đó, một số mặt hàng có chỉ số giá giảm nhưng tỷ trọng quyền số nhỏ nên tác động chưa đủ lớn đến chỉ số giá tiêu dùng chung như: Do tình hình dịch bệnh Covid diễn biến phức tạp, tình hình giao thương hàng hoá nông sản qua biên giới gặp khó khăn, dẫn đến giá gạo bán lẻ tại địa phương tháng này giảm 0,6% so với tháng trước. Giá thịt lợn giảm 4,02%, thịt bò giảm 1,19%, nội tạng động vật giảm 5,75%, thịt gà giảm 1,04% so với tháng trước. Nguyên nhân do lượng cung trong nước dồi dào, trong khi đó mức tiêu dùng trong nước có giới hạn (do ngành du lịch, các quán ăn, bếp ăn tập thể tạm ngừng hoạt động). Giá quả tươi và chế biến giảm 9,42% do ảnh hưởng bùng phát dịch bệnh, hàng nông sản xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, sản lượng trong nước dồi dào, giá bán lẻ giảm mạnh. Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm bình quân trong tháng giảm 0,08%. Hiện nay giá vàng bình quân duy trì ở mức 5.275.000 đồng/chỉ tăng 483.000 đồng/chỉ so với cùng kỳ. Chỉ số giá đô la Mỹ trong nước bình quân trong tháng giảm 0,17%. Hiện nay giá bình quân Đô la Mỹ duy trì ở mức 23.110 đồng/USD giảm 228 đồng/USD so với cùng kỳ. 5. Thương mại, dịch vụ: Năm tháng đầu năm hoạt động kinh doanh trên địa bàn tỉnh diễn ra ổn định, lượng hàng hóa cung ứng cho thị trường dồi dào, các đơn vị phân phối lớn đã chủ động dự trữ hàng hóa thiết yếu và hàng hóa khác phục vụ nhu cầu mua sắm của người dân đầy đủ. Sang tháng 6 do ảnh hưởng dịch bệnh bùng phát trên địa bàn tỉnh, để phòng chống dịch toàn tỉnh thực hiện giãn cách theo Chỉ thị 15/CT-TTG từ ngày 12/6/2021, từ ngày 13/6/2021 huyện Cái Bè, Thị xã Cai Lậy và một số xã huyện Cai Lậy giản cách theo Chỉ thị 16/CT-TTG nên một số thời điểm, nhu cầu mua dự trữ nhóm lương thực thực phẩm có tăng so với bình thường. 5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng sáu tháng đầu năm 2021 đạt 32.970 tỷ đồng, đạt 46,9% kế hoạch, tăng 14,7% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 26.752 tỷ đồng, tăng 14,2%; lưu trú, ăn uống 2.857 tỷ đồng, tăng 11,7%; du lịch lữ hành 6 tỷ đồng, giảm 70,4%; dịch vụ tiêu dùng 3.356 tỷ đồng, tăng 21,9% so cùng kỳ. Nếu loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2021dự kiến tăng 12,5% so cùng kỳ. 5.2. Xuất nhập khẩu Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2021 ước đạt 1.707 triệu USD, đạt 52,5% kế hoạch, tăng 28,3% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 3,4 triệu USD, giảm 78,3%; kinh tế ngoài nhà nước 263,3 triệu USD, giảm 9,9%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.440,3 triệu USD, tăng 40,9% so cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2021 thực hiện 994 triệu USD, đạt 55,2% kế hoạch, tăng 35,1% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 50,7 triệu USD, tăng 5,8%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 943,3 triệu USD, tăng 37,1% so cùng kỳ. 5.3. Vận tải, kho bãi Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải 6 tháng đầu năm 2021 thực hiện 993 tỷ đồng, giảm 1% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 282 tỷ đồng, giảm 0,1% so cùng kỳ; vận tải hàng hóa thực hiện 610,8 tỷ đồng, giảm 0,7% so cùng kỳ. Vận tải đường bộ thực hiện 255,7 tỷ đồng, tăng 6,2%; vận tải đường thủy thực hiện 335 tỷ đồng, giảm 5,2%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 100 tỷ đồng, giảm 5,4% so cùng kỳ. Vận chuyển hành khách 6 tháng đầu năm 2021 đạt 16.032 ngàn hành khách, giảm 4% và luân chuyển 305.072 ngàn hành khách.km, tăng 4,3% so cùng kỳ; trong đó: vận chuyển đường bộ 7.678 ngàn hành khách, tăng 7,2% và luân chuyển 293.383 ngàn hành khách.km, tăng 5,9% so cùng kỳ; vận chuyển đường thủy 8.354 ngàn hành khách, giảm 12,4% và luân chuyển 11.689 ngàn hành khách.km, giảm 24.8% so cùng kỳ. Vận tải hàng hóa 6 tháng đầu năm 2021 đạt 5.744 ngàn tấn, giảm 0,3% và luân chuyển 727.305 ngàn tấn.km, giảm 2,8% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ thực hiện 1.449 ngàn tấn, tăng 16,5% và luân chuyển được 151.374 ngàn tấn.km, giảm 2,2% so cùng kỳ; vận tải đường thủy thực hiện 4.295 ngàn tấn, giảm 5% và luân chuyển 575.931 ngàn tấn.km, giảm 2,9% so cùng kỳ. 5.4 Du lịch. Trước tình hình dịch Covid-19 có những diễn biến phức tạp trên cả nước. Một số doanh nghiệp du lịch tiếp tục thu hẹp hoặc dừng hoạt động kinh doanh, lượng khách du lịch đến tỉnh giảm mạnh so với cùng kỳ. Ước lượng khách du lịch đến tỉnh 6 tháng đầu năm 2021 được 270 ngàn lượt, đạt 24,6% kế hoạch, giảm 39,4% so cùng kỳ; trong đó khách quốc tế 3,8 ngàn lượt, bằng 4%. Doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 2.862 tỷ đồng, tăng 11,1% so cùng kỳ; trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm 99,8%. 6. Tài chính - Ngân hàng: Thu ngân sách nhà nước: 6 tháng đầu năm 2021 thu được 11.764 tỷ đồng; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 5.309 tỷ đồng, đạt 50% dự toán và tăng 0,2% so cùng kỳ; thu nội địa 5.179 tỷ đồng, đạt 50,1% dự toán, đạt tương đương so cùng kỳ. Nếu loại trừ số thu tiền sử dụng đất thì có 06/11 địa phương ước thu đạt trên 50% dự toán năm cụ thể như: huyện Châu Thành; huyện Tân Phước; huyện Chợ Gạo; huyện Gò Công Đông; thị xã Gò Công; huyện Tân Phú Đông. Các khoản thu chủ yếu như sau: + Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.740 tỷ đồng, đạt 50,4% dự toán, tăng 2,1% so cùng kỳ, do do những tháng đầu năm 2021 tình hình dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định, hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ ăn uống diễn ra bình thường nên các doanh nghiệp đẩy mạnh sản suất và người dân gia tăng tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa. + Thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 595 tỷ đồng, đạt 42,5% dự toán, giảm 6,1% so cùng kỳ do tác động của dịch Covid-19 trong quý II năm 2021. Hiện nay, do yêu cầu của địa phương tiếp tục chống dịch Covid-19, một số ngành nghề chưa được phép hoạt động trở lại... Đồng thời, giảm 30% số thuế thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2020 đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và tổ chức khác theo Nghị định số 114/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 của Chính phủ. Đối với doanh nghiệp vận tải hoạt động giảm sút, vận tải hàng hóa ít, cước vận tải giảm, hạn chế xuất nhập khẩu ở biên giới, phương tiện vận tải hàng hóa đường dài Bắc - Nam giảm sút đáng kể dẫn đến lượng xăng dầu sử dụng giảm nên số thuế bảo vệ môi trường giảm. Năm 2020 Chính phủ ban hành Nghị định số 70/2020/NĐ-CP ngày 28/6/2020 quy định mức thu lệ phí trước bạ đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước giảm 50%, thời gian thực hiện hết năm 2020 nên người dân đã thực hiện giao dịch trong năm 2020. Năm 2021, quy định này đã hết thời gian ưu đãi nên các giao dịch mua bán giảm mạnh. + Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết 860 tỷ đồng, đạt 52,1% dự toán, tăng 4,2% so cùng kỳ do Công ty TNHH MTV Xổ số Kiến thiết Tiền Giang tăng số lượng vé phát hành và đạt tỷ lệ tiêu thụ bình quân trên 99%. Chi ngân sách nhà nước: Tổng chi ngân sách 6 tháng đầu năm 2021 là 6.804 tỷ đồng, đạt 55,5% kế hoạch và giảm 28,5% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 1.804 tỷ đồng, đạt 48,7% dự toán, giảm 39,9%; chi hành chính sự nghiệp 3.330 tỷ đồng, đạt 48,5% dự toán và giảm 1,1% so cùng kỳ. Trong đó: bố trí kinh phí phòng, chống dịch Covid-19 khoảng 42 tỷ đồng; kinh phí tổ chức tiêm vắc xin phòng Covid-19 giai đoạn 2021-2022 là 89,6 tỷ đồng, dự kiến huy động từ nguồn sự nghiệp y tế, kinh phí tiết kiệm chi ngân sách cấp tỉnh năm 2020 và đóng góp của các cá nhân, tổ chức. Ngân hàng: Đến cuối tháng 5/2021, vốn huy động đạt 76.931 tỷ đồng, tăng 1,4% so với cuối năm 2020, giảm 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Tổng dư nợ toàn tỉnh đạt 68.903 tỷ đồng, tăng 7,2% so với cuối năm 2020, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính đến cuối tháng 6/2021 vốn huy động đạt 77.002 tỷ đồng, tăng 1.153 tỷ, tăng 1,5%; tổng dư nợ 69.138 tỷ đồng, tăng 4.836 tỷ đồng, tăng 7,5% so với cuối năm 2020. Mặt bằng lãi suất tiếp tục được duy trì phù hợp, ổn định ở mức thấp nhằm tạo điều kiện cho các đối tượng khách hàng duy trì sản xuất kinh doanh do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19. Lãi suất huy động tối đa bằng VND đối với tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng như sau: 0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,75%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng. Kết quả thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị thiệt hại do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19: Ngân hàng nhà nước tỉnh có văn bản triển khai Thông tư 03/2021/TT-NHNN ngày 02/4/2021sửa đổi, bổ sung Thông tư số 01/2020/TT-NHNN đến các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn. Đồng thời chỉ đạo các TCTD trên địa bàn tỉnh tiếp tục thực hiện các giải pháp hỗ trợ khách hàng tại công văn số 3947/NHNN-TD ngày 03/6/2021 về việc triển khai các biện pháp tăng cường phòng, chống và tháo gỡ khó khăn do tác động của dịch Covid-19. Đến cuối tháng 4/2021, tổng dư nợ bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 là 9.910 tỷ đồng. Trong đó, doanh nghiệp bị ảnh hưởng chiếm 56,7%, cá nhân chiếm 42,4%. Một số ngành có tỷ lệ dư nợ bị ảnh hưởng lớn như: Công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 37,6% tổng dư nợ; bán buôn và bán lẻ 23,5%; hoạt động dịch vụ 15,2% tổng dư nợ. Các TCTD đã triển khai có hiệu quả các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho 3.421 khách hàng như: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho 268 khách hàng với dư nợ được cơ cấu là 139 tỷ đồng; Miễn giảm lãi cho 131 khách hàng với dư nợ 30 tỷ đồng; Cho vay mới với lãi suất ưu đãi thấp hơn so với lãi suất cho vay trước khi có dịch 3.022 khách hàng với doanh số cho vay mới lũy kế từ ngày 23/01/2020 đạt 24.680 tỷ đồng. Thực hiện Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 và Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020 sửa đổi, bổ sung NQ42: Đến cuối tháng 5/2021, Ngân hàng Chính Sách Xã Hội tỉnh đã giải ngân cho vay đối với 6 đơn vị với dư nợ đạt 978 triệu đồng. Thời gian vay là 12 tháng, lãi suất là 0%/năm. 7. Đầu tư và Xây dựng: Vốn đầu tư toàn xã hội quý II/2021, ước thực hiện được 8.775 tỷ đồng, đạt 22,1% kế hoạch, tăng 2,2% so cùng kỳ; trong đó: vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 6.434 tỷ đồng, chiếm 73,3%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 785 tỷ đồng, chiếm 8,9%; vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 925 tỷ đồng, chiếm 10,5%. Ước 6 tháng đầu năm 2021, vốn đầu tư toàn xã hội ước thực hiện 15.443 tỷ đồng, đạt 38,8% kế hoạch, tăng 2,4% so cùng kỳ; trong đó: vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 11.473 tỷ đồng, tăng 7,9%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.565 tỷ đồng, giảm 23,7%, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 1.541 tỷ đồng, giảm 5,8% so cùng kỳ. 8. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp: Trong 6 tháng đầu năm 2021, tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt xây dựng dự thảo Nghị quyết của Tỉnh ủy và Kế hoạch hành động của UBND tỉnh về tiếp tục lãnh đạo nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đến năm 2025. Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi, do tình hình dịch Covid-19 bùng phát trở lại làm ảnh hưởng đến tình hình phát triển doanh nghiệp, đặc biệt trong tháng 5, tháng 6 số lượng doanh nghiệp đăng ký giảm mạnh. Ước thực hiện 6 tháng năm 2021 có 364 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 2.900 tỷ đồng, đạt 51,3% so với kế hoạch phát triển doanh nghiệp năm 2021, giảm 3,2% về số doanh nghiệp và tăng 25,3% về vốn đăng ký so cùng kỳ. Vốn đăng ký bình quân là 8 tỷ đồng/doanh nghiệp. Có 427 đơn vị trực thuộc đăng ký hoạt động (gồm 83 chi nhánh, 330 địa điểm kinh doanh, 13 văn phòng đại diện); 75 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 36%; 35 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh, tăng 130% cùng kỳ. Tính đến cuối tháng 6/2021, toàn tỉnh hiện có khoảng 6.510 doanh nghiệp đăng ký hoạt động. III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Lao động, giải quyết việc làm: Ước tính sáu tháng đầu năm 2021, giải quyết việc làm cho 7.278 lao động đạt 45,5% so với kế hoạch năm, tăng 109,7% so với cùng kỳ; trong đó: 5.525 lao động được tạo việc làm thông qua chính sách thu hút đầu tư phát triển kinh tế xã hội của tỉnh; 1.616 lao động được tạo việc làm thông qua chính sách vay vốn từ Quỹ Quốc gia về việc làm, vốn ủy thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay giải quyết việc làm; đưa 137 lao động làm việc ở nước ngoài đạt 45,7% so với kế hoạch năm, giảm 19,4% so với cùng kỳ năm 2020. Hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19: Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, ban hành quyết định phê duyệt danh sách và kinh phí hỗ trợ cho 3.704 người lao động, trong đó người lao động không có giao kết hợp đồng lao động bị mất việc làm thuộc đối tượng theo quy định tại Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg ngày 24/4/2020 là 775 người, người lao động thuộc đối tượng theo quy định tại Quyết định số 3639/QĐ-UBND ngày 08/12/2020 của UBND tỉnh là 2.793 người và người lao động làm việc theo chế độ hợp đồng lao động phải thỏa thuận tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương theo quy định tại Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ là 136 người, với tổng số tiền hỗ trợ trên 3,8 tỷ đồng. 2. Đời sống dân cư và an sinh xã hội: Quỹ đền ơn đáp nghĩa vận động được gần 3,8 tỷ đồng, đạt 38% kế hoạch năm tương đương cùng kỳ năm 2020, xây dựng 15 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 600 triệu đồng đạt 12% kế hoạch năm giảm 25% so với cùng kỳ năm 2020; sửa chữa 16 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 320 triệu đồng đạt 32% kế hoạch năm giảm 22% so với cùng kỳ năm 2020. 3. Hoạt động y tế: Theo báo cáo của Sở Y tế tỉnh Tiền Giang: kể từ ngày 05/6/2021, khi có trường hợp mắc COVID-19 đầu tiên ngoài cộng đồng, đến ngày 23/6/2021 tỉnh đã có 10 ổ dịch với tổng cộng 61 bệnh nhân, ghi nhận 01 trường hợp bệnh nhân COVID-19 tử vong ngày 21/06/2021. Hoàn thành công tác tiêm vắc xin ngừa COVID-19 đợt 1 và đợt 1 bổ sung năm 2021 với tổng số đã tiêm được 13.299 người, đạt 107,25%. Kế hoạch số 2682/KH-SYT ngày 17/6/2021 về việc tiêm vắc xin ngừa COVID-19 trên địa bàn tỉnh đợt 2 năm 2021(giai đoạn 2021-2022) được Bộ y tế phân bổ đợt 2 là 20.000 liều, triển khai từ ngày 21/6/2021 đến trước ngày 30/6/2021. Trong sáu tháng đầu năm 2021, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 12/44 bệnh truyền nhiễm, 08 bệnh tăng so với cùng kỳ (sốt xuất huyết, tay chân miệng, tiêu chảy, uốn ván khác, viêm gan siêu vi A, viêm gan siêu vi B, viêm não vi rút khác, covid-19); 07 bệnh giảm so với cùng kỳ (ho gà, lao phổi, lỵ a míp, quai bị, sởi, thủy đậu, viêm gan siêu vi C); 29 bệnh tương đương và hoặc không xảy ra ca mắc; 1 trường hợp tử vong do bệnh tay chân miệng; Ghi nhận 1.274 ca mắc sốt xuất huyết Dengue, 01 trường hợp tử vong; 5.885 người nhiễm HIV, 1.803 người chuyển sang AIDS, 993 người tử vong do AIDS; Ghi nhận 05 vụ ngộ độc thực phẩm với số 64 trường hợp, tử vong 01 trường hợp. Hoạt động khám chữa bệnh so với cùng kỳ năm 2020, tổng số lần khám bệnh giảm 0,8% và tổng số người điều trị nội trú tăng 2,3%. Công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong tháng đạt 75%. 4. Hoạt động văn hóa - thể thao: Hoạt động bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021- 2026: trong tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, nhằm đảm bảo không tập trung đông người để phòng tránh dịch bệnh, công tác tuyên truyền, vận động trong Nhân dân về cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021- 2026 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang được thực hiện như: thông tin, tuyên truyền thông qua các kênh truyền thông đại chúng, tuyên truyền lưu động, các pa - nô, áp-phích, băng rôn, phát hành 32.000 tài liệu sinh hoạt về Ngày Pháp luật, tuyên truyền trên báo chí, trên sóng truyền thanh, truyền hình, trên hệ thống văn phòng điện tử của các cơ quan, đơn vị hoặc qua hệ thống loa truyền thanh tại các ấp, khu phố để mọi người dân đều được nhận thông tin về cuộc bầu cử. Ngoài ra, Mặt trận Tổ quốc đã tổ chức tuyên truyền về bầu cử gồm 40 cuộc cho chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo với hơn 3.200 người. Các cấp Hội nông dân tuyên truyền trong cán bộ hội cơ sở và hội viên với 2.161 cuộc, 64.827 lượt người dự. Liên đoàn lao động đã tổ chức 08 cuộc tuyên truyền về bầu cử cho gần 500 công nhân, lao động tại 05 doanh nghiệp ở khu Công nghiệp Tân Hương và LongGiang, 03 khu nhà trọ công nhân tự quản; 17 công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở tổ chức 67 cuộc tuyên truyền cho công nhân, lao động ở các đơn vị, doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước với 2.837 người. Hoạt động thể dục- thể thao: Trong sáu tháng đầu năm 2021, tổ chức 06 giải thể thao. Trong đó, giải Bóng đá Hạng Nhì quốc gia, giải Bóng bàn tỉnh Tiền Giang mở rộng lần VII – Tranh Cúp Sài Gòn Pingpong, giải Bóng chuyền hơi nữ CĐVC tỉnh Tiền Giang, giải Bóng đá mini trẻ tỉnh Tiền Giang, giải Bóng đá VĐ tỉnh Tiền Giang Giải thể thao kỷ niệm 75 năm Ngày Thể thao Việt Nam. Tham dự 11 giải Quốc gia và khu vực, đạt 33 huy chương các loại (12 HCV, 8 HCB, 13 HCĐ). 5. Trật tự an toàn giao thông: (Theo báo cáo của ngành Công an). Giao thông đường bộ: Tổng số vụ từ đầu năm đến nay 324 vụ, giảm 163 vụ so cùng kỳ, làm chết 150 người, tăng 52 người so cùng kỳ, bị thương 227 người, tăng 141 người so cùng kỳ. Ước thiệt hại tài sản chung trị giá khoảng 3.053 triệu đồng. Giao thông đường thủy: Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 vụ tai nạn, giảm 01 vụ so cùng kỳ, không phát sinh số người chết và bị thương. Ước thiệt hại về tài sản là 1.187 triệu đồng. Tình hình tai nạn giao thông đường bộ sáu tháng đầu năm 2021 so với cùng kỳ còn diễn biến phức tạp (tăng cả 02 tiêu chí: số người chết và số người bị thương). Nguyên nhân chủ yếu là do ý thức chấp hành của người tham gia giao thông như: đi không đúng phần đường, làn đường; lỗi do người đi bộ; vượt không đảm bảo an toàn và chuyển hướng không đúng quy định... Ý thức tự giác chấp hành pháp luật giao thông của người tham gia giao thông tuy có chuyển biến nhưng số vụ vi phạm các lỗi khi tham gia giao thông 6 tháng đầu năm 2021 vẫn còn ở mức cao (18.517 vụ), đối tượng vi phạm chủ yếu từ 27 tuổi đến 55 tuổi chiếm tỷ lệ cao. 6. Tình hình cháy nổ, môi trường: Trong tháng 6/2021, trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 vụ cháy với tổng số tiền thiệt hại ước tính 150 triệu đồng, gồm cháy 02 nhà doanh nghiệp nguyên nhân cháy do chập điện 01 vụ, 01 vụ không xác định nguyên nhân do chủ cơ sở không yêu cầu khám nghiệm hiện trường, điều tra nguyên nhân cháy và đang điều tra 01 vụ cháy phương tiện. Nâng tổng số vụ cháy từ đầu năm đến nay là 20 vụ, tổng giá trị tài sản thiệt hại trên 5,3 tỷ đồng. Lĩnh vực môi trường trong sáu tháng đầu năm 2021, đã ban hành 15 quyết định xử phạt vi phạm gồm 03 tổ chức và 12 cá nhân giảm 13 trường hợp so với cùng kỳ năm 2020, với tổng số tiền trên 286 triệu đồng. Nội dung vi phạm chủ yếu là thực hiện không đúng một trong các nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường và các yêu cầu trong Quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; khai thác sử dụng nước dưới đất không có giấy phép và thăm dò nước dưới đất không có giấy phép; khai thác cát làm vật liệu xây dựng thông thường không giấy phép. IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 2021 Dự báo dịch Covid-19 sẽ kéo dài và diễn biến phức tạp cần theo dõi chặt chẽ những ca bệnh tại cộng đồng, cần tăng cường hơn các nỗ lực kiểm soát dịch bệnh dài hạn như: đánh giá hệ thống y tế để tìm ra điểm yếu, hạn chế từ đó đầu tư kịp thời, đảm bảo luôn chủ động phòng, chống dịch; ngăn chặn kịp thời nguồn bệnh lây lan ngoài cộng đồng. Một là: Tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp như: môi trường đầu tư, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tiếp tục rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến nhà đầu tư, doanh nghiệp, thúc đẩy khởi nghiệp, tổ chức Ngày hội khởi nghiệp tỉnh, xây dựng Đề án hỗ trợ khởi nghiệp của tỉnh; phát triển hộ kinh doanh hoạt động theo hình thức doanh nghiệp.... Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, hạ lãi suất các khoản vay hiện hữu, tiết kiệm chi phí để giảm lãi suất cho vay phù hợp, hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua khó khăn trên cơ sở của Thông tư 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020, Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 31/3/2020 và Thông tư 03/2021/TT-NHNN ngày 02/4/2021. Hai là: Tiếp tục theo dõi tình hình sản xuất cây lúa và các loại cây trồng, phối hợp với địa phương kiểm tra, theo dõi tình hình sâu, bệnh trên các loại cây trồng. Đồng thời thực hiện Đề án Tái cơ cấu Ngành Nông nghiệp gắn với thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TU; theo dõi thực hiện Đề án “Cắt vụ, chuyển đổi mùa vụ và cơ cấu cây trồng các huyện phía Đông, tỉnh Tiền Giang đến năm 2025”. Ba là: Các ngành liên quan kiểm tra và đôn đốc các huyện, thành, thị triển khai thực hiện vốn xây dựng cơ bản cho các công trình trọng điểm, công trình giao thông nông thôn…nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương. Đồng thời đẩy nhanh công tác giải ngân, thanh quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Bốn là: Triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán NSNN năm 2021 và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021 và các Nghị quyết, Quyết định của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh về công tác thu ngân sách trên địa bàn.